Tổng quan về chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại.
1.1.1.Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại.
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã kéo theo sự hình thành và phát
triển của hệ thống ngân hàng, đến lượt mình, hệ thống ngân hàng cũng tác động
trở lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể khẳng định một nền kinh tế hưng
thịnh phải đi liền với một hệ thống ngân hàng vững mạnh, bởi ngân hàng là một
trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Trên toàn thế
giới, ngân hàng cung cấp những khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với
quy mô lớn nhất, là tổ chức cung cấp lượng vốn lưu động quan trọng nhất cho
các doanh nghiệp, là thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái
phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công
cộng, và gần đây đã mở rộng cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ
mua sắm máy móc thiết bị mới...
Ngân hàng thương mại (dưới đây sẽ viết tắt là: NHTM) ra đời trên cơ sở
kinh doanh tiền tệ của những người thợ kim hoàn bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản
tệ và ngược lại. Bằng uy tín và sự giàu có của mình họ nhận cất trữ hộ tiền để
thu phí, từ đó nhận thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt cho người
gửi tiền. Họ nhận thấy, có nhiều người đang có nhu cầu vốn để kinh doanh
trong khi họ đang nắm giữ rất nhiều tiền, nên họ đã dùng chính số tiền này để
cho vay lấy lãi, do đó nảy sinh nghiệp vụ cho vay. Lợi nhuận cao thu được từ lãi
tiền cho vay đã kích thích họ mở rộng cho vay bằng cách thay vì thu phí của
người gửi tiền họ trả lãi cho người gửi tiền để kích thích người gửi tiền nhằm
thu hút thêm qui mô tiền gửi. Khi tồn tại nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay,
thanh toán hộ có thể nói ngân hàng thương mại đã ra đời. Bằng cách cung cấp
thêm các tiện ích khác nhau, các dịch vụ khác nhau mà ngân hàng đã huy động
được ngày càng nhiều tiền gửi, đây là điều kiện để mở rộng cho vay và giúp
ngân hàng tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, hệ thống ngân
hàng đã có nhiều bước tiến quan trọng, thay đổi rất nhanh chóng để kịp đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và làm động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển. Từ chỗ đa dạng hóa các loại hình ngân hàng, đa dạng hóa các hoạt động
của ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp làm tăng số lượng cũng như
qui mô của ngân hàng dẫn đến tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra các ngân hàng
cực lớn với số vốn tự có rất lớn. Quá trình phát triển của các ngân hàng đang tạo
ra mối liên hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng.
Các hoạt động xuyên quốc gia, đa quốc gia của các ngân hàng thúc đẩy hình
thành các hiệp hội , các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính
sách chung để kết nối và tạo sự thống nhất trong sự vận hành điều hành hệ
thống ngân hàng của mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Ngân hàng thương mại đầu tiên ở Việt Nam là Ngân hàng Đông Dương
của Pháp, được thành lập vào giữa thế kỷ XIX để phục vụ cho giới thương gia
pháp trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm các ngân hàng nước ngoài của
Trung Quốc, Anh,... nhưng những ngân hàng này chưa đóng góp vào sự phát
triển kinh tế của đất nước mà chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị. Đến năm 1945,
ngân hàng nhà nước sơ khai được thành lập. Đến năm 1990 Pháp lệnh Ngân
hàng Nhà nước ra đời chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là Ngân hàng
Trung ương (dưới đây sẽ được viết tắt là: NHTƯ) và NHTM. Theo luật các tổ
chức tín dụng được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 12/12/1997 thì: “tổ chức tín dụng là một tổ chức hoạt động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền
gửi để cho vay cung ứng các dịch vụ thanh toán chi trả hộ...”. Tóm lại NHTM là
loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng cụ thể là các hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và thực
hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng các phương tiện thanh toán cùng các hoạt
động kinh doanh khác. Mục tiêu của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận đồng
thời đảm bảo được an toàn cho hoạt động của mình với đối tượng kinh doanh là
tiền tệ.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
NHTM có các hoạt động cơ bản: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử
dụng vốn, hoạt động cung cấp các dịch vụ trung gian và các hoạt động khác có
liên quan.
Hoạt động huy động vốn hay là hoạt động tạo vốn cho NHTM đóng vai
trò rất quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động, quy mô hoạt động của
ngân hàng.
- Trước hết là hoạt động huy động vốn tạo nguồn vốn chủ sở hữu cho ngân
hàng, đây là nguồn vốn có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà
cửa cho ngân hàng, bảo đảm an toàn cho hoạt động và thể hiện sức mạnh tài
chính của ngân hàng. Sự hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo loại hình
sở hữu của ngân hàng, năng lực tài chính của ngân hàng, yêu cầu và sự phát
triển của thị trường. Nguồn này thông thường gồm: nguồn vốn hình thành ban
đầu, nguồn vốn góp bổ sung trong quá trình hoạt động (nguồn từ lợi nhuận, bổ
sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm,...), các quỹ của ngân hàng
(quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ khen thưởng, quỹ
phúc lợi,...), nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
- Hoạt động huy động tiền gửi là hoạt động quan trọng nhất, tạo tiền đề
chính cho các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động huy động tiền gửi nhằm thu
hút các khoản tiền nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Huy động
các nguồn tiền gửi khác nhau trong xã hội là cần thiết và tất yếu cho sự tồn tại
và phát triển của mỗi ngân hàng. Nguồn tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng nhiều nhất
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Và để gia tăng nguồn này với chất lượng
cao trong môi trường cạnh tranh, các ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau với những tiện ích cho khách hàng ngày càng nhiều. Nguồn
tiền này gồm: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân
cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội, tiền gửi của các ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác...
- Huy động vốn từ đi vay của ngân hàng thương mại có thể giúp ngân hàng
vượt qua khó khăn trong giai đoạn khả năng huy động bị hạn chế. NHTM có thể
vay từ NHTƯ, vay từ các tổ chức tín dụng khác, hoặc phát hành các loại giấy nợ
trên thị trường vốn.
- Ngoài ra, ngân hàng có thể huy động vốn từ các nguồn khác như: nguồn
ủy thác, nguồn trong thanh toán,...
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm: hoạt động ngân quỹ, hoạt
động cho vay, hoạt động bảo lãnh, hoạt động chiết khấu, hoạt động cho thuê,
hoạt động đầu tư,...
- Hoạt động ngân quỹ là hoạt động sử dụng vốn cơ bản của ngân hàng,
nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền
cũng như thanh toán thường xuyên cho khách hàng. Nguồn đảm bảo hoạt động
này là các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN (khoản dự trữ bắt buộc do
NHNN quy định theo tỷ lệ phần trăm tổng số dư tiền gửi tại ngân hàng bắt buộc
phải dự trữ trong thời kỳ nhất định), tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong
quá trình thu.
- Hoạt động cho vay là hoạt động thường xuyên và là hướng cơ bản trong
hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong thời gian
xác định. Có thể phân chia các khoản cho vay theo nhiều tiêu thức khác nhau
như phân chia theo thời gian, theo đối tượng cho vay, theo mục đích cho vay,...
Ngân hàng có thể thực hiện cho vay theo các phương thức: cho vay thấu chi,
cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay luân chuyển, cho vay
trả góp, cho vay gián tiếp. Đây là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập từ lãi
cho ngân hàng, giúp tăng vốn chủ sở hữu từ đó tăng thế mạnh, uy tín của ngân
hàng, giúp ngân hàng có thể phát triển.
- Hoạt động chiết khấu thương phiếu là hoạt động mà trong đó khách hàng
chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho
ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức
và hoa hồng phí. Đây là hoạt động khá đơn giản, gây ít phiền phức cho ngân
hàng, đồng thời cũng là hoạt động gây ít rủi ro và khả năng thu hồi nợ của ngân
hàng là chắc chắn.
- Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Thực
chất đây là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng bằng uy tín của
mình qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc
thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Nếu phân theo
mục tiêu, hoạt động bảo lãnh bao gồm các loại: bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo
thanh toán, bảo lãnh hoàn trả vốn vay,...
- Hoạt động cho thuê tài sản là hoạt động trong đó ngân hàng mua tài sản
sau đó cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân hàng phải thu được đủ
hoặc gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có
thể mua lại tài sản đó. Hoạt động này giống hoạt động cho vay thông thường ở
chỗ ngân hàng phải xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc và lãi sau thời hạn nhất
định; khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ, tuy nhiên
tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng.
- Hoạt động đầu tư của ngân hàng bao gồm: đầu tư vào chứng khoán ngắn
hạn, chủ yếu là chứng khoán Chính phủ; mua cổ phiếu và trái phiếu của các tổ
chức kinh tế khác; ...
Ngoài ra NHTM còn thực hiện các hoạt động dịch vụ trung gian như thực
hiện thanh toán hộ, mua bán hộ chứng khoán,... Đây là hoạt động ngân hàng
thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, hoạt động này ngày càng đa dạng phong
phú, đem lại thu nhập, đồng thời củng cố thêm uy tín cho ngân hàng. Đối với
dịch vụ thanh toán hộ, theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng cung cấp cho
khách hàng phương tiện thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín
dụng. Đối với dịch vụ mua bán hộ chứng khoán: do có uy tín nên ngân hàng có
thể bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty cổ phần muốn huy động
vốn, tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng. Ngoài ra ngân hàng thực hiện
các dịch vụ trung gian khác như: kinh doanh mua bán ngoại tệ; dịch vụ ủy thác,
đại lý tài sản vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng; dịch vụ quản
lý tài sản, cho thuê két sắt, ...
1.1.3. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.1.3.1. Huy động vốn chủ sở hữu.
Ban đầu khi thành lập ngân hàng, vốn chủ sở hữu được hình thành từ các
nguồn khác nhau dựa theo hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu là ngân hàng tư
nhân thì vốn đó là do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà
nước thì do ngân sách Nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do các cổ
đông đóng góp thông qua mua các cổ phần; nếu là ngân hàng liên doanh thì do
các bên tham gia liên doanh góp. Vốn chủ sở hữu ban đầu thường phải tuân theo
các quy định của các nhà chức trách tiền tệ. Theo đó, quy định rõ số vốn tối
thiểu – vốn pháp định mà ngân hàng cần phải tuân thủ khi bắt đầu kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ. Điều này xuất phát từ an toàn cho hoạt động ngân hàng,
nhằm hạn chế rủi ro phá sản của ngân hàng, tạo ra và duy trì niềm tin của công
chúng đối với ngân hàng, hạn chế những tổn thất đối với Chính phủ do những
yêu cầu về bảo hiểm tiền gửi.
Trong quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu của ngân hàng được gia tăng
nhờ chủ sở hữu góp thêm hoặc kêu gọi thêm chủ sở hữu; lợi nhuận sau thuế sau
khi bù đắp được chi phí thường được giữ lại một phần bổ sung vào vốn chủ sở
hữu dưới tên gọi: “lợi nhuận tích lũy lại”; ngân hàng trích lập các quỹ: quỹ dự
phòng, quỹ thặng dư, quỹ bảo tồn vốn, các quỹ này làm gia tăng vốn chủ sở
hữu; hay ngân hàng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển dổi thành cổ phiếu.
Mỗi phương thức làm gia tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng đều có mặt lợi thế
và mặt khó khăn, nhưng sự gia tăng vốn chủ trong quá trình hoạt động của ngân
hàng là điều mà các ngân hàng nhất thiết phải nghĩ đến. Quy mô của vốn chủ sở
hữu cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho
vay và của những tài sản rủi ro khác của ngân hàng hay nói cách khác vốn chủ
sở hữu như “ấm đệm”chống đỡ những thua lỗ của ngân hàng cần phải được
củng cố bổ sung tương ứng với quy mô rủi ro của ngân hàng.
1.1.3.2. Hoạt động huy động tiền gửi.
Có thể nói, tiền gửi là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân
hàng. Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất để ngân hàng thực hiện các
hoạt động của mình như: cho vay, đầu tư, bảo lãnh, chiết khấu,... Nó là nguồn
tài trợ chủ yếu cho các hoạt động mang lại thu nhập cho ngân hàng, vì thế nó là
nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Ngân hàng
thường cung cấp các loại hình tiền gửi khác nhau cho khách hàng để gia tăng
quy mô nguồn vốn trong môi trường cạnh tranh và mong muốn có được nguồn
tiền gửi với chất lượng cao.
Tiền gửi thanh toán là một trong những loại hình tiền gửi lâu đời nhất mà
ngân hàng cung cấp. Đây là tiền của khách hàng gửi vào ngân hàng bằng đồng
tiền nội tệ hoặc ngoại tệ để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ khi có nhu cầu.
Khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán trong ngân hàng có thể là cá nhân,
hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác... Khi sử
dụng loại hình tiền gửi này họ có nhu cầu chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ thông
qua ngân hàng bởi thanh toán qua ngân hàng giúp quá trình thanh toán của họ
diễn ra an toàn hơn, nhanh chóng hơn, và tiện dụng hơn. Tiền gửi thanh toán đòi
hỏi ngân hàng thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho bên thứ ba được chỉ
rõ là người thụ hưởng, vì vậy họ luôn phải giữ mức dự trữ cao cho loại tiền gửi
này để sẵn sàng cho nhu cầu thanh toán. Mặt khác do tính không ổn định của
loại tiền gửi này mà ngân hàng có khả năng sử dụng chúng rất hạn chế, vì thế
ngân hàng trả lãi cho khách hàng trên tài khoản tiền gửi này rất ít thậm chí là
bằng không. Tuy nhiên, việc phát triển loại hình tiền gửi này về phía ngân hàng
không những góp phần phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt,
tiết kiệm chi phí cho việc phát hành và lưu thông tiền mặt cho nền kinh tế, mà
còn tạo nguồn chi phí rẻ do ngân hàng trả lãi thấp khi sử dụng số dư trên loại tài
khoản này để tiến hành kinh doanh. Tiền gửi thanh toán có thể chia thành tiền
gửi thanh toán không hưởng lãi và tiền gửi thanh toán được hưởng lãi.
- Tiền gửi thanh toán không hưởng lãi là nguồn vốn biến động nhất do
ngân hàng gặp khó khăn nhiều nhất trong việc dự báo quy mô tiền gửi có thể sử
dụng vào mục đích kinh doanh của mình. Kỳ hạn thực tế của loại tiền gửi này là
ngắn nhất vì nó có thể được rút ra bất kỳ lúc nào mà không có sự báo trước. Vì
sự rút ra thanh toán mà không báo trước nên số dư của tài khoản này để trong
ngân hàng không được hưởng lãi. Tuy nhiên, nó giúp cho mục đích thanh toán
của khách hàng được đảm bảo nhanh chóng, an toàn, kịp thời và đây chính là
nguyện vọng của khách hàng gửi tiền.
- Tiền gửi thanh toán được hưởng lãi là tài khoản tiền gửi có số dư được
hưởng lãi theo thỏa thuận giữa khách hàng với ngân hàng và tùy thuộc vào
chính sách lãi suất của ngân hàng.Tiền gửi thanh toán được hưởng lãi đã xuất
hiện dưới hình thức tài khoản NOW- tài khoản lệnh rút tiền có thể thương
lượng. Với tài khoản giao dịch được hưởng lãi cho phép ngân hàng được đòi hỏi
khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Nhưng những thao tác rút tiền
bất ngờ như tài khỏan NOW, với những khoản tiền lớn dễ đẩy ngân hàng đến
khó thanh toán và khủng hoảng.Vì vậy sự tồn tại của tài khoản tiền gửi thanh
toán không hưởng lãi vẫn tỏ ra vô cùng cần thiết cho những giao dịch lớn, tránh
sự bị động cho ngành ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là một hình thức huy động của ngân hàng dựa trên sự
đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền. Thực chất đây là loại hình tiết
kiệm thông thường có kỳ hạn. Người sử dụng loại hình tiền gửi này không được
sử dụng các hình thức thanh toán áp dụng đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần
chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Khi khách hàng đến gửi
tiền vào ngân hàng theo tài khoản tiền gửi có kỳ hạn thì điều ngân hàng cần biết
trước tiên là khách hàng gửi vào thời gian bao lâu. Thông thường định kỳ có thể
là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1năm hoặc hơn nữa. Tài khoản tiền gửi
loại này sẽ có kỳ hạn tối thiểu theo thỏa thuận của ngân hàng và khách hàng,
khách hàng không được rút trước hạn đã định khi thỏa thuận. Nếu có nhu cầu
phải rút trước thì ngân hàng có một trong các cách xử lý là: từ chối không cho
khách hàng rút, yêu cầu khách hàng phải thông báo trước một thời gian đã
thống nhất, hoặc khách hàng sẽ phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến
kế hoạch của ngân hàng.
Căn cứ vào hình thức trả lãi, loại tiền gửi này có thể chia thành những
loại sau:
+ Loại trả lãi sau: là hình thức tiết kiệm trả lãi khi hết hạn. Nếu đến hạn
người gửi tiền không đến lấy, thì tiền lãi được nhập vào vốn và coi như người
gửi tiền đã gửi kỳ hạn tiếp theo.
+ Loại trả lãi trước: là hình thức tiết kiệm trả lãi ngay khi khách hàng gửi
tiền. Khi đến hạn, khách hàng sẽ được lĩnh phần gốc đúng như số tiền ghi trên
thẻ tiết kiệm. Nếu khách hàng không rút gốc trước hạn thì sẽ giải quyết theo quy
định hiện hành của ngân hàng.
+ Loại trả lãi theo định kỳ: là hình thức trả lãi theo từng kỳ hạn khách hàng
đăng ký với ngân hàng. Kể từ ngày đến kỳ tính lãi, khách hàng có thể rút phần
lãi của kỳ đã đăng kí vào bất cứ ngày làm việc nào của ngân hàng. Nếu khách
hàng không lĩnh lãi theo kỳ hạn đã đăng kí thì ngân hàng chỉ thực hiện sao kê
tính lãi. Hết kì tính lãi cuối cùng, số lãi còn lại chưa lĩnh của các kì tính lãi trong
kì hạn tiền gửi sẽ được nhập vào gốc.
+ Loại trả lãi theo thời gian gửi thực: là hình thức trả lãi theo khoảng thời
gian mà số tiền gửi của khách hàng tồn tại thực sự trong ngân hàng.
Căn cứ theo thời gian gửi tiền, loại tiền gửi này có thể chia thành:
+ Tiền gửi kỳ hạn loại ngắn hạn: là loại tiền gửi có kỳ hạn được phân chia
theo thời gian gửi tiền, thường có thời gian rất ngắn từ 1 ngày đến vài tuần, tối
đa là 3 tháng. Đây là hình thức huy động để ngân hàng giải quyết những nhu
cầu cấp bách về tiền mặt trong ngắn hạn. Vì vậy các ngân hàng chỉ phát hành
phiếu nợ với thời gian ngắn để huy động tiền gửi của nhân dân như chứng chi
tiền gửi có kỳ hạn, trái phiếu đô la – euro,...
+ Tiền gửi có kỳ hạn loại trung hạn: thường có thời gian đáo hạn từ 6
tháng, 9 tháng, đến 12 tháng. Loại tiền gửi này thường là tiền gửi của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội, đó là các tài khoản khấu hao, quỹ khen thưởng,
phúc lợi, lợi nhuận, thu nhập doanh nghiệp chưa chi, các quỹ dự phòng chưa
phải sử dụng. Mặt khác, các cá nhân gửi tiền vào loại tài khoản này có số tiền
nhàn rỗi khá lâu, không có nhu cầu rút ngay.
+ Tiền gửi có kỳ hạn loại dài hạn: thường có thời gian đáo hạn dài hơn, từ
1 năm đến 10 năm. Thông thường ngân hàng phát hành những trái phiếu tiết
kiệm, trái phiếu euro – đô la loại lớn, các chứng chỉ có giá trị cao.
Tiền gửi tiết kiệm là tài khoản tiền gửi được lập ra để thu hút vốn của
những khách hàng muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay
cho một nhu cầu về tài chính được dự tính cho tương lai. Loại tiết kiệm này
nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài và chỉ được rút khi đến hạn.
Ngân hàng trả lãi cho khoản tiền gửi tiết kiệm cao nhưng đổi lại chi phí duy trì
và quản lý đối với tài khoản tiền gửi này nói chung thấp. Khách hàng gửi tiền
tiết kiệm vào ngân hàng với mục đích là an toàn và sinh lời. Khi gửi tiền vào
ngân hàng, khách hàng sẽ được ngân hàng cấp sổ hoặc thẻ tiết kiệm, khách hàng
không được sử dụng tiền trong tài khoản để thanh toán. Tuy nhiên ngân hàng
vẫn cho phép khách hàng sử dụng sổ tiết kiệm như tài sản đảm bảo để vay vốn
tại ngân hàng. Khoản tiền gửi này có kỳ hạn dài và là nguồn tương đối ổn định
đối với ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng thường cạnh tranh nhau thu hút nguồn
tiền gửi này để nâng cao chất lượng nguồn vốn của mình.
1.1.3.3. Hoạt động đi vay vốn.
Nhiều ngân hàng trong những giai đoạn cụ thể, lâm vào tình trạng không
đáp ứng được nhu cầu chi trả khi khả năng huy động các nguồn tiền gửi bị hạn
chế.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ NHTM thường vay NHTƯ. Hình thức
cho vay chủ yếu của NHTƯ là tái chiết khấu. Các thương phiếu đã được các
NHTM chiết khấu trở thành tài sản của họ, khi cần tiền, các NHTM mang
những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHTƯ. Hoạt động này đã làm
cho thương phiếu của NHTM giảm đi, dự trữ của ngân hàng lại tăng lên đủ đáp
ứng dự trữ bắt buộc hay dự trữ thanh toán. Hoặc NHTƯ cho NHTM vay dưới
hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Khi tiền trở lên khan
hiếm, nhiều NHTM cùng muốn vay thì khả năng đáp ứng các nhu cầu vốn này
của NHTƯ bị hạn chế. Việc cho vay của NHTƯ phụ thuộc vào chính sách tiền
tệ mà nó theo đuổi trong từng thời kỳ.
NHTM có thể thực hiện vay mượn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng
thông qua thị trường liên ngân hàng. Những ngân hàng có dự trữ vượt nhu cầu,
hoặc có nguồn vốn dư thừa so với nhu cầu cho vay sẽ sẵn lòng cho ngân hàng
khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Khoản vay có thể không cần phải đảm
bảo, hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán kho bạc. Các khoản vay này tuy lãi
suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời
cho ngân hàng. Khi các ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán thì việc
vay mượn các ngân hàng trên cùng địa bàn sẽ gặp khó khăn.
Cách khác, NHTM cũng có thể vay mượn trên thị trường vốn bằng cách
phát hành các giấy nợ: kỳ phiếu, trái phiếu,... Kỳ phiếu là một phiếu nợ ngắn
hạn, ngân hàng phát hành kỳ phiếu có mục đích nhằm huy động vốn trong dân
cư một cách linh hoạt, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh,
dự án kinh tế hoặc cho hoạt động của NHTM. Kỳ phiếu gồm các loại mệnh giá
khác nhau và có thể chuyển nhượng được. Còn trái phiếu ngân hàng là công cụ
nợ trung và dài hạn, mệnh giá trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu để cam kết
trả cho người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu có thể được phát hành bằng đồng nội
tệ hoặc đồng ngoại tệ mạnh, với những kỳ hạn khác nhau, có thể chuyển
nhượng, cầm cố thế chấp hoặc có thể được ngân hàng mua lại theo thể thức
chiết khấu. Đây là hình thức mà ngân hàng có thể chủ động huy động được
lượng vốn mong muốn trong thời gian ngắn. Các loại kỳ phiếu trái phiếu làm đa
dạng hơn cho sản phẩm huy động vốn của ngân hàng và tạo ra nhiều lựa chọn
cho khách hàng. Nguồn huy động vốn từ phát hành các giấy nợ có tính ổn định
cao hơn tiền gửi tiết kiệm. Những ngân hàng có uy tín lớn hoặc trả lãi suất cao
sẽ huy động được nhiều hơn các ngân hàng không có uy tín hoặc trả lãi thấp
hơn. Đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ, thường gặp khó khăn trong vay
mượn bằng cách này, họ thường phải vay qua ngân hàng đại lý hoặc có sự bảo
lãnh của Ngân hàng đầu tư.
1.1.3.4. Huy động vốn từ các nguồn khác.
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư,
ủy thác giải ngân, thu hộ,...các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân
hàng, làm gia tăng nguồn vốn ở ngân hàng.
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành các nguồn
trong thanh toán.
Nhìn chung việc huy động từ các nguồn khác này thường mang lại nguồn
vốn không lớn trừ một số ngân hàng có các dịch vụ ủy thác cho Nhà nước hoặc
cho các tổ chức quốc tế,...
1.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Lãi suất huy động vốn của ngân hàng.
Theo quan điểm của K.Marx: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra
do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản – chủ ngân hàng chiếm đoạt”.
Theo ông, lãi suất là một bộ phận của lợi nhuận. Như vậy, lãi suất nhìn chung sẽ
thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Hạn chế của quan điểm này là chỉ đề cập
đến lãi suất trong quan hệ cho vay và đi vay của các mối quan hệ tài chính ở
thời kỳ đó.