Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN CẦM CỐ THẾ CHẤP TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.09 KB, 24 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI
SẢN CẦM CỐ THẾ CHẤP TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Từ thực trạng của tình hình thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay đối với hoạt
động cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I – NHCTVN trong thời gian qua. Qua
thời gian thực tập ít ỏi của mình, với kiến thức và trình độ còn hạn chế song
em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến, có thể còn nhiều bất cập nhưng em
mong rằng đó sẽ là những ý kiến mang tính xây dựng góp phần tháo gỡ một
phần nhỏ khó khăn mà Sở đang gặp phải.
1 CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI SỞ GIAO DỊCH I.
1.1 Giải pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản cấm cố, thế
chấp.
Mở rộng 2 loại hình bảo đảm tiền vay này là yêu cầu đầu tiên nhằm tăng
hiệu quả nghiệp vụ vì với một khối lượng tín dụng nhỏ như hiện nay không thể
khẳng định nó có hiệu quả mặc dù có thể chất lượng rất cao. Đó là một tổng
thể gồm các biện pháp sau:
+ Thay đổi chính sách tín dụng của ngân hàng theo hướng mở rộng cho vay
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Hiện nay chính sách ngân hàng chủ yếu hướng hoạt động cho vay vào khu
vực KTQD, với định hướng như vậy khu vực KTNQD chưa được sự chú trọng
phát triển của ngân hàng trong khi lượng vốn ngân hàng không sử dụng hết.
Đây là một thiệt thòi cho bản thân ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế
nói chung. Tất nhiên không thể phủ nhận rằng cho vay ngoài quốc doanh đòi
hỏi mọi quá trình đều phức tạp hơn (vì theo quan niệm thông thường khi cho
vay doanh nghiệp Nhà nước gần như được Nhà nước bảo đảm nên không cần
những thủ tục để thế chấp …) đòi hỏi tài sản bảo đảm nhưng không vì thế mà
khẳng định không an toàn. Thiết nghĩ hướng làm trên sẽ là xu hướng chung
của mọi ngân hàng trong cơ chế thị trường.
+ Tăng cường hoạt động marketing:
Công tác chiến lược khách hàng tuy kết quả tốt nhưng chưa hoàn thiện,


cũng giống như mọi ngân hàng khác hiện nay Sở giao dịch I vẫn chưa có một
phòng marketing hoàn chỉnh, độc lập riêng biệt thực sự. Phải vận dụng hoạt
động marketing đúng như bản chất của nó bao gồm có 4 chính sách: Giá cả,
phân phối, khuyến mại và khuếch trương, trong thực tế chính là thông qua tiếp
xúc với khách hàng. Bởi vì, hiện nay các hợp đồng kinh tế được ký kết chủ yếu
là do khách hàng tìm tới ngân hàng.
Một bộ phận marketing giỏi, chuyên môn vững chắc sẽ đẩy nhanh hoạt
động toàn ngân hàng, mở rộng cả về doanh số của các cá nhân tổ chức kinh tế
trong việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp.
+ Không ngừng chú trọng tới các mối quan hệ giữa các hoạt động của
ngân hàng.
Phương thức thanh toán có vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút
khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các hoạt động kinh tế luôn
diễn ra không ngừng, ngày càng phong phú và đa dạng, đòi hỏi các hoạt động
có liên quan cũng phải phát triển song song. Qua đó ta thấy rằng nếu hoạt
động thanh toán của ngân hàng mà diễn ra nhanh chóng, kịp thời, chính xác
thì sẽ chiếm được cảm tình, ngày càng thu hút được nhiều khách hàng đến
giao dịch và tất nhiên hoạt động tín dụng cũng được mở rộng hơn (trong đó
bao gồm cả thành phần KTNQD). Vì vậy Sở giao dịch I cần chú ý tới mối quan
hệ giữa các hoạt động của mình, cần phải cải tiến phương tiện và nâng cao
chất lượng mọi mặt.
+ Nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của Sở:
Cạnh tranh là lẽ tất yếu trong nền kinh tế thị trường, ngay cả trong hoạt
động tín dụng. Công nghệ ngân hàng khó có thể tạo ra được những bước đột
phá cho nên Sở giao dịch I cần phải nỗ lực nâng cao uy tín của mình bằng các
nhân tố cơ bản nhất như thái độ nhân viên, cung cách phục vụ, chất lượng dịch
vụ, cán bộ tín dụng cần nhiệt tình hơn nữa trong công tác thẩm định khách
hàng, phối hợp cùng giải quyết các vướng mắc của khách hàng. Ngoài ra quy
mô vốn cũng là yếu tố giúp nâng cao uy tín vốn của Sở cần được huy động
mạnh hơn nữa với cơ cấu hợp lý từ đó có thể phục vụ nhu cầu phát triển trong

tương lai, kịp thời nắm bắt cơ hội, tham gia đồng tài trợ vào những dự án lớn,
có hiệu quả, nhằm tăng lợi nhuận, thu hút được nhiều khách hàng lớn.
+ Trao cho cán bộ quyền tư quyết cao hơn nữa:
Điều này không chỉ tạo cho cán bộ tâm lý thoải mái mà còn giúp họ có
trách nhiệm hơn trong công việc. Quyền tự quyết thể hiện bằng quyền quyết
định doanh số cho vay tài sản cầm cố, thế chấp và các điều khoản khác phù hợp
với quy định. Hiện nay, thậm chí các khoản cho vay lớn Sở còn phải thông qua
trung tâm điều hành chứ chưa nói đến là cán bộ tín dụng.
+ Tập trung giải quyết nợ quá hạn, nợ khó đòi nhằm lành mạnh hoá tình
hình tài chính của Sở giao dịch I (bao gồm cả hạn chế phát sinh nợ quá hạn
nhằm phòng ngừa từ xa các rủi ro).
+ Nhanh chóng tiến hành thẩm định lại dự án và định giá lại tài sản cầm
cố, thế chấp đối với những khoản vay đang thực hiện tại Sở để đưa ra những
kết luận kịp thời.
+ Chủ động thực hiện biện pháp xiết nợ đối với những khoản vay được xác
định đã ở vào tình trạng khó có khả năng hoàn trả.
+ Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp vay vốn.
+ Thiết lập chế độ tài chính phù hợp giải quyết các chi phí phát sinh cho
công tác cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Phân định rõ ràng trách nhiệm của cán bộ tín dụng đối với tài sản cầm
cố, thế chấp.
+ Tiếp tục phối hợp với các chi nhánh giải quyết nợ quá hạn tồn đọng từ
phương thức chi nhánh thẩm định, quản lý khách hàng, Sở giải ngân hạch
toán.
+ Đối với các khoản cho vay mới, song song với quá trình thẩm định Sở
giao dịch I phải nghiên cứu kỹ vấn đề thời hạn cho vay.
1.2 Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Không ngừng nâng cao trình độ cán bộ chất lượng tín dụng.
Sức mạnh của bất kỳ ngân hàng nào cũng đều thể hiện ở ba yếu tố : vốn –
trí tuệ con người – công nghệ ngân hàng . Mọi sự thay đổi có đạt được kết quả

hay không và đạt được ở mức độ nào phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ tài chính
ngân hàng. Vì vậy công tác phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là chất lượng
hết sức cần thiết. Hiện tại đội ngũ cán bộ của Sở GD I -NHCT Việt Nam có lợi
thế là năng động, tuổi đời còn trẻ , phần lớn đều có trình độ đại học, tuy nhiên
kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, thêm vào đó lại thiếu am hiểu về các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh của khách hàng. Trước tình hình này, Sở cần thiết
phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có đầy đủ kiến thức chuyên môn , kiến
thức tổng hợp cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Sở cần tiếp tục phát huy các
biện pháp đã thực hiện như: thường xuyên tổ chức các khoá học, tạo điều kiện
cho các cán bộ tín dụng tham khảo kinh nghiệm của các chi nhánh NHCT trên
địa bàn Hà Nội cũng như các NHTM khác ; tổ chức các buổi chuyên đề luận
đàm về các quy định của Nhà Nước và ngành ngân hàng , tạo môi trường cạnh
tranh phấn đấu ngay trong từng cán bộ của Phòng kinh doanh ... Đặc biệt chú
trọng chuyên môn thẩm định, luôn cập nhật cho các cán bộ tín dụng để rồi qua
đó mà tính hiệu quả khả thi của dự án được đánh giá đúng đắn chính xác; đem
lại cho Sở những khoản vay có khả năng hoàn trả cao.
+ Tăng cường công tác thu thập thông tin.
Đây là giải pháp cần được đặt nhiều sự quan tâm của Ban lãnh đạo Sở
cũng như Hội Đồng Quản Trị NHCT Việt Nam. Đồng thời Sở phải có đội ngũ
chuyên viên đánh giá thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro giỏi để phục vụ tốt
cho hoạt động của mình , tăng cường sức mạnh cạnh tranh , lại vừa đề phòng
được rủi ro ở mức độ tốt nhất có thể.
+ Nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định khách hàng.
Để món vay có hiệu quả , trước tiên ngân hàng phải đánh giá khách hàng
một cách đúng đắn về tình hình hoạt động kinh doanh của họ, khả năng tài
chính , tư cách đạo đức, tư cách pháp nhân . Để làm được điều này Sở cần phải
chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ thẩm định có trình độ và sự nhạy cảm nghề
nghiệp. Thẩm định không chỉ là công cụ giúp đảm bảo hiệu quả hoạt động cho
vay, thu được gốc và lãi khi đến hạn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất mà nó
còn là cơ sở để xác định số tiền cho vay , mức thu nợ , thời hạn hợp lý, tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với khoản vay của
mình , từ đó hoạt động kinh doanh thực sự nghiêm túc có hiệu quả
Sở phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc và quy trình thẩm định, đảm bảo
độ nhanh chóng và chính xác . Qua đó cán bộ tín dụng có được cái nhìn toàn
diện về khách hàng và phương án vay vốn. Việc bỏ qua bất cứ một bước nào sẽ
có thể dẫn đến sự sai lệch trong kết luận cuối cùng .
Đối với những dự án cầm cố , thế chấp ngắn hạn Sở nên chú ý đến doanh
thu bán hàng của khách hàng, xác định khả năng và thời điểm thu tiền hàng vì
đây là nguồn trả nợ chính. Khả năng thanh toán của khách hàng cần phải
được xem xét kỹ thông qua các chỉ tiêu như : Hệ số thanh toán ngắn hạn( tài
sản lưu động/ nợ ngắn hạn ); hệ số thanh toán tức thời ( vốn bằng tiền / Nợ
đến hạn ); hệ số thanh toán nhanh. Nếu không xác định đúng dòng tiền thu về
và khả năng thanh toán của khách hàng thì Sở khó có thể thu hồi được vốn vay
khi đến hạn
Đối với những dự án cầm cố thế chấp trung, dài hạn, Sở cần phân tích kỹ
tình hình tài chính của khách hàng để biết được cơ cấu tài sản ( tài sản cố định
có được đầu tư vững chắc bằng vốn dài hạn không ) ; năng lực hoạt động thể
hiện qua vòng quay hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng tài sản ; khả năng thanh
toán; khả năng sinh lời ; kết quả hoạt động trong những năm gần đây. Bên
cạnh đó Sở cũng cần chú ý đến phân tích kỹ thuật. Đối với những dự án đầu tư
dây chuyền công nghệ mới Sở cần phải nghiên cứu sản phẩm do dây chuyền
sản xuất ra , chi phí đầu tư cho công nghệ , hiệu suất hoạt động của công nghệ,
công nghệ đó có phù hợp với điều kiện nước ta hay không, thời gian hoạt động
bao lâu...... Đối với những khách hàng có khó khăn tạm thời về tài chính Sở vẫn
có thể cho vay nếu như có phương án vay vốn khả thi , hiệu quả cao, đảm bảo
khả năng trả nợ. Trong quá trình thẩm định Sở nên phân tích độ nhạy của dự
án để dự đoán được những thay đổi có thể ảnh hưởng đến kết quả thẩm định.
Ngoài ra cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những quy định
của Nhà Nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư . Khách hàng của Sở phong phú
, đa dạng cả về thành phần kinh tế và ngành nghề sản xuất kinh doanh , đòi hỏi

người cán bộ tín dụng phải am hiểu thấu đáo về lĩnh vực mình thẩm định , có
trình độ nghiệm vụ cao. Do đó Sở nên chuyên môn hoá cán bộ thẩm định, mỗi
người chỉ nên thẩm định một hoặc một số lĩnh vực nhất định. Có như vậy cán
bộ tín dụng mới có những kiến thức sâu sắc , có thời gian để hiểu sâu về lĩnh
vực đó.
Không ngừng nâng cao chất lượng thông tin tín dụng , thu thập thông tin
cho thẩm định bằng cách điều tra, lấy thông tin trực tiếp từ khách hàng kết
hợp với những nguồn thông tin có liên quan khác. Như vậy Sở mới có được
những thông tin toàn diện , chính xác , kịp thời phục vụ tốt cho công tác thẩm
định
Sở cần hoàn thiện phương pháp thẩm định. Kết quả thẩm định không có ý
nghĩa gì nếu như thông tin và phương pháp thẩm định không chính xác. Trước
hết cần xác định các dòng tiền vào ra của dự án. Các dòng tiền là cơ sở để xác
định lợi nhuận cũng như nguồn trả nợ cho Sở. Sở nên sử dụng phương pháp
NPV thay cho phương pháp IRR trong việc xác định khả năng sinh lời của dự
án để có đánh giá chính xác hơn . Sở cũng cần chý ý xác định hệ số K ( tỷ lệ lợi
tức mong đợi của các nhà đầu tư ) một cách hợp lý vì nó ảnh hưởng đến tính
toán lợi nhuận của dự án. Hệ số K phải dựa trên chi phí vốn, phải phản ánh
được mức độ rủi ro
Sở cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật ứng dụng trong thẩm định bằng
cách đưa việc tính toán những chỉ tiêu kinh tế cần thiết trong thẩm định vào
các chương trình phần mềm máy tính để có thể đạt được những kết quả thẩm
định chính xác và nhanh chóng hơn. Qua đó có thể rút ngắn thời gian thẩm
định , giúp cho khách hàng nhanh được đáp ứng vốn , không bị bỏ lỡ cơ hội
kinh doanh
Và cuối cùng kết quả của công tác thẩm định phải được tôn trọng, tức là
quyết định cho vay hay từ chối phải dựa trên kết quả thẩm định và không bị chi
phối bởi các yếu tố khác
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Những hạn chế trong hoạt động cho vay nói chung và cho vay cầm cố thế

chấp nói riêng là do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vấn đề đặt ra là Sở
phải ngăn chặt và phát hiện kịp thời các sai sót trong khi cho vay . Kiểm soát
nội bộ là biện pháp để Sở tự kiểm tra mình trong quá trình kinh doanh nhằm
đảm bảo an toàn vốn , đem lại hiệu quả kinh doanh ngày một cao . Mục tiêu
của kiểm soát nội bộ là đảm bảo hạch toán kế toán đầy đủ kịp thời , chính xác
và đúng chế độ; phát hiện kịp thời các rắc rối trong kinh doanh để có cơ sở
hoạch định và thực hiện các biện pháp giải quyết; ngăn chặn và phát hiện các
sai phạm gian lận, lạm dụng trong quá trình kinh doanh . Đến nay công tác này
vẫn được phòng kiểm soát nội bộ tiến hành , được lãnh đạo Sở quan tâm
nhưng vẫn cần phải được tiếp tục tăng cường , phát huy tác dụng .
Kiểm soát nội bộ phải được tiến hành định kỳ thường xuyên và đột xuất,
cung cấp đủ số liệu cho hệ thống thanh tra Nhà Nước , thanh tra ngân hàng
Nhà Nước . Các hệ thống thanh tra này sẽ sử dụng kết quả của kiểm soát nội
bộ , sau đó mới đi sâu vào kiểm tra phân tích theo yêu cầu riêng. Qua đó Sở có
thể loại bỏ việc trùng lắp trong hệ thống thanh tra , tiết kiệm thời gian, giảm
bớt phiền hà , nâng cao hiệu quả thanh tra để có kiến nghị xác đáng tác động
thiết thực đến hoạt động kinh doanh . Kếp hợp kiểm soát nội bộ với kiểm toán
bắt buộc từ bên ngoài và thanh tra ngân hàng là tiền đề nâng cao chất lượng
hoạt động , hạn chế rủi ro
Hâu hết các biện pháp kiểm soát đều có chiều hướng tập trung vào nghiệp
vụ đã thấy trước chứ không phải vào các nghiệp vụ mới hình thành , nên chỉ
có thể giảm được sai lầm , thiếu sót chứ không ngăn chặn hoàn toàn mọi sự
việc đáng tiếc có thể xảy ra . Bởi vậy Sở cần phải tổ chức kiểm tra chặt chẽ
trước trong và sau khi cho vay. Có như vậy mới phát hiện kịp thời những tiêu
cực để sửa chữa
Hoạt động kiểm tra , kiểm soát nội bộ có thể làm chậm lại hoặc hạn chế
phần nào nhịp độ kinh doanh nhưng không vì thế mà Sở coi nhẹ hoạt động này
, Sở cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa thực hiện tốt kiểm soát nội bộ
vừa không để hoạt động này ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động kinh doanh .
Sở cần phải đổi mới thủ tục, phương pháp , biện pháp kiểm soát nội bộ cho

thích hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế để rút ngắn thời gian nâng cao hiệu
quả
Kiểm soát nội bộ cũng cần phải kiểm tra kết quả chỉnh sửa sau lần kiểm
soát trước đó . Sai lầm bị phát hiện là để sửa chữa , nếu không thì hoạt động
kiểm tra , kiểm soát không có ý nghĩa. Việc sửa chữa , chấn chỉnh cũng cần
được giám sát chặt chẽ . Kiên quyết loại trừ những cán bộ tín dụng mất phẩm
chất, tiêu cực , lợi dụng kẽ hở để gây thất thoát vốn , làm giảm uy tín của Sở
Sở phải lựa chọn , đào tạo cán bộ có trình độ , đạo đức để thực hiện công
tác này. Hoạt động kiểm soát không thể đạt được kết quả nếu kiểm soát viên
không đủ trình độ chuyên môn phân tích, đánh giá hoặc cố tình bỏ qua những
sai sót dẫn đến những hạn chế tiêu cực trong thực tế hoạt động cho vay . Hơn
ai hết kiểm soát viên phải được đào tạo không ngừng nâng cao phẩm chất
trình độ .
2 CÁC KIẾN NGHỊ.
2.1 Kiến nghị với chính phủ.
2.1.1 Kiến nghị chung về hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay:
Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không quy định thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh là một điều kiện vay vốn mà khách hàng vay phải thực
hiện hoặc được "ưu đãi" miễn thực hiện, mà chỉ nên quy định có tính khuôn
khổ pháp luật, tách biệt rõ ràng tín dụng theo thương mại và theo chính sách.
Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một
cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng được lựa chọn
khách hàng, lựa chọn dự án để tự quyết định cho vay cần có bảo đảm hoặc
không cần có bảo đảm bằng tài sản. Và thực hiện áp dụng đối với khách hàng
thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử. Đối với tín dụng theo
chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng và
không cần biện pháp đảm bảo. Khi bị tổn thất do các nguyên nhân khách quan
về các khoản vay thì được Chính phủ xử lý. Cụ thể là:
- Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành liên quan đến NĐ 178/1999/NĐ
- CP như Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính có các thông

tư hướng dẫn đồng bộ, kịp thời, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các TCTD
mở rộng cho vay đến các thành phần kinh tế một cách an toàn và có hiệu quả
(nhất là thông tư hướng dẫn về đăng ký giao dịch bảo đảm theo NĐ
08/2000/NĐ - CP và giao dịch bảo đảm theo NĐ 165/1999/NĐ - CP).
- Đề nghị huỷ bỏ điểm 2 điều 7 (tức là huỷ tài sản cầm cố có thể là tiền Việt
Nam, ngoại tệ) cho phù hợp với Bộ luật dân sự.
-Hướng dẫn thêm 3 nội dung liên quan đến khoản 2 điều 16 của NĐ
165/1999/NĐ - CP như đã để cập trong vướng mắc thứ 4 mục C phần 2.3.1
chương II
-Sửa đổi điều 11/NĐ178 về phạm vi bảo đảm tiền vay cho phù hợp với Bộ
luật dân sự, tức là "Trong một trường hợp, một tài sản chỉ được dùng để bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có
thể được dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ tại nhiều TCTD nếu giá
trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm"
- Đề nghị sửa đổi điều 22.2 trong NĐ 08/2000/NĐ - CP về đăng ký giao
dịch bảo đảm. Theo văn bản cũ thì "Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những
người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng
ký", nay nên bổ sung thêm. "Nhưng cơ quan giao dịch bảo đảm chỉ nhận đăng
ký giao dịch bảo đảm tiếp nếu thấy giá trị tài sản còn lại có thể còn bảo đảm có
thể thực hiện nghĩa vụ tiếp theo".
- Đồng thời theo Thông tư 06 cũng cần bổ sung mục 3 chương 2. Văn bản
cũ là: "Một trong các nghĩa vụ của khách hàng vay khi cầm cố thế chấp tài sản
là thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm" nay cần bổ sung thêm: "TCTD chỉ phát

×