Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.56 KB, 32 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN VÀ
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
I) Dự án đầu tư
1) Khái niệm về đầu tư
Đầu tư với một nghĩa rộng nhất là sự bỏ ra và hi sinh những cái gì đó ở
hiện tại (như tiền, trí tuệ, sức lao động...) nhằm đạt được những kết quả có lợi
cho người đầu tư trong tương lai.
Đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của
địa phương, của ngành và của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
Như vậy ta có thể hiểu đầu tư trên hai quan điểm:
- Theo quan điểm của chủ đầu tư: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh để
từ đó thu được vốn lớn hơn số vốn đã bỏ ra thông qua lợi nhuận.
- Theo quan điểm của xã hội (quốc gia): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát
triển để từ đó thu được hiệu quả kinh tế - xã hội vì mục tiêu phát triển quốc
gia.
2) Khái niệm dự án đầu tư
Một quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển đòi hỏi phải đẩy mạnh các
hoạt động đầu tư. Có đẩy mạnh hoạt động đầu tư mới tận dụng được hết các
tiềm lực của nền kinh tế, thúc đẩy mọi hoạt động của nền kinh tế đi lên. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để đầu tư có hiệu quả, tức là làm thế nào để hoạt động
đầu tư vừa mang lại lợi ích cho nhà đầu tư, vừa phù hợp với mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước? Có thể khẳng định rằng đầu tư theo dự án
là điều kiện cần, quan trọng để đảm bảo một công cuộc đầu tư thành công,
hiệu quả.
Ta hãy xem xét các khái niệm về dự án đầu tư:
Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ, tài liệu trình bày một
cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt
được những hiệu quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong
tương lai.
Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng


vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết qủa kinh tế, tài chính trong thời gian dài
Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế
hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh
tế - xã hội làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ cho dự án. Dự án
đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt, là khâu đầu tiên trong công tác kế
hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Về mặt nội dung: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên
quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng
việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử
dụng các nguồn lực xác định.
Như vậy dự án đầu tư phản ánh toàn bộ các vấn đề về thị trường, kinh
tế, kỹ thuật, công nghệ, xây dựng, tổ chức thi công, xây lắp, khả năng thu hồi
vốn và sinh lời của hoạt động đầu tư. Tất cả các vấn đề đó có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc vận hành, khai thác và hiệu quả thực tế của hoạt động đầu tư. Vì
vậy việc tìm kiếm và lựa chọn đầu tư, việc phân tích các thông tin cần thiết liên
quan đến sản phẩm của dự án, việc đề ra cách tổ chức quản lý dự án.... cần
phải thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học. Dự án được thiết lập phải có
mục tiêu và phương tiện huy động phù hợp và sát thực với tình hình thực tế.
3) Vai trò của dự án đầu tư
Dự án đầu tư có vai trò to lớn về mọi mặt đối với nền kinh tế. Đó là:
3.1- Dự án đầu tư giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong phát
triển
Trước đổi mới, trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp của một nền kinh
tế chỉ huy, Việt Nam không có thị trường tài chính. Mọi nguồn vốn đều tập
trung vào tay Nhà nước để phân phối theo kế hoạch cho từng dự án đầu tư và
từng xí nghiệp. Khi công cuộc đổi mới kinh tế bắt đầu diễn ra từ năm 1986 thì
các nguồn vốn được giải phóng và dâng lên mạnh mẽ ở tất cả các khu vực. Nếu
như năm 1989, tỉ lệ đầu tư của nền kinh tế chỉ đạt 8,9% GDP thì đến năm 1991,
tỉ lệ đầu tư là 15% GDP, tỉ lệ tiết kiệm là 10,1% GDP. Tiết kiệm và đầu tư đều
tăng mạnh ở cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân. Chính phủ đã chuyển mạnh

từ cơ chế đầu tư bằng vốn ngân sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước có
tính chất bao cấp sang tín dụng đầu tư, mở rộng liên doanh, liên kết, thu hút
vốn trong nước và vốn nước ngoài. Do đó chính phủ đã tập trung hơn nguồn
vốn của ngân sách Nhà nước cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội. Đầu tư
của khu vực tư nhân được hình thành và hoạt động có hiệu quả phần lớn ở quy
mô vừa và nhỏ nhưng cũng có một số doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, thu
hút nhiều lao động. Bộ mặt nền kinh tế đã thay đổi một cách cơ bản và phát
triển theo chiều hướng tích cực về mọi mặt. Tình hình huy động vốn đầu tư và
mức đầu tư trong những năm qua được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 1: Đầu tư và tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian qua
Năm 2002 2003 2004 2005 2006
Đầu tư/GDP (%) 25.5 27.3 27.9 27.6 23.6
Tiết kiệm/GDP(%) 16.9 17.0 16.7 20.1 17.0
Qua số liệu trên cho thấy rằng nền kinh tế nước ta đã đạt được những
kết quả nhất định trong việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, huy động nguồn
vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn 1991 - 2003, mức
tiết kiệm và đầu tư trong GDP tăng mạnh, tốc độ tăng trưởng thời kỳ này
tương đối cao và ổn định. Năm 2003 có tỉ lệ đầu tư/ GDP là 27,3%, tiết kiệm/
GDP là 17,0% và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong suốt thời kỳ qua là
12,7%, tỉ lệ lạm phát dưới hai con số là 9,5%.Tuy nhiên nếu xét toàn cảnh nền
kinh tế và so sánh tình hình đầu tư của nước ta với các nước trong khu vực ta
thấy rằng mức tích luỹ và đầu tư của Việt Nam còn rất thấp. Tích luỹ của nền
kinh tế hạn hẹp, mức tiết kiệm (% trên GDP) gần như không tăng và chịu lệ
thuộc một phần vào lượng kiều hối bên ngoài. Tốc độ vốn đầu tư bình quân
hàng năm tăng nhanh từ 7,8% ở thời kỳ 1986 - 1990 lên 28,3% thời kỳ 1991 -
2003 đã giảm còn khoảng 15% suốt hai năm 2004 - 2005 và năm 2006 vẫn
tiếp tục xu hướng giảm. Thực tế đã cho thấy vốn đầu tư cho phát triển kinh tế
ở Việt Nam tuy đã có những kết quả ban đầu nhưng vẫn còn là một lĩnh vực
nóng bỏng và là một thách thức lâu dài đối với quá trình phát triển của Việt
Nam. Do đó cần phải có những chính sách thúc đẩy đầu tư phù hợp để tăng

cường việc phát huy mọi tiềm năng về vốn của các thành phần kinh tế trong và
ngoài nước nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam trong
thời kỳ mới.
3.2- Dự án đầu tư tác động đến quan hệ cung cầu về sản phẩm và dịch
vụ trên thị trường, cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội.
Theo quy luật của kinh tế thị trường vận động có sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước, các dự án đầu tư sẽ cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ với nhãn
hiệu mới, kiểu cách mới, chất lượng và giá thành hợp lý, đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của người tiêu dùng. Đây là hệ quả tất yếu của việc huy động tiềm
năng về vốn đầu tư, việc tăng năng lực sản xuất và dịch vụ để kích thích sản
xuất phát triển, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nguời lao động...
3.3- Dự án đầu tư là phương tiện để chuyển dịch và phát triển cơ cấu
kinh tế
Các dự án đầu tư đặc biệt là các dự án đầu tư mới có vai trò to lớn trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước. Dự án đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển
giữa các vùng lãnh thổ, khai thác các thế mạnh về nguồn lực và điều kiện tự
nhiên sinh thái của từng vùng. Một cơ cấu đầu tư hợp lý và các chính sách ưu
đãi tương ứng sẽ giúp các vùng kinh tế kém phát triển thoát khỏi đói nghèo,
giảm khoảng cách so với những vùng có mức phát triển cao của cả nước.
Trong “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010”
đã khẳng định vai trò của hoạt động đầu tư như sau: “Quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư và sản xuất kinh
doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường được
Nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn
vốn tập trung”
3.4- Dự án đầu tư tác động đến tăng cường khả năng khoa học và công
nghệ
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ thì trình độ công nghệ của

Việt Nam nói chung hiện nay là rất thấp, công nghệ Việt Nam đang lạc hậu so
với các nước phát triển khoảng 50 - 100 năm. Trong các ngành công nghiệp, hệ
thống máy móc, thiết bị hiện tại lạc hậu từ 2 - 4 thế hệ so với thế giới và được
hình thành chắp vá từ nhiều nguồn. Các chỉ tiêu chủ yếu như mức tiêu hao
nhiên liệu, vật liệu thường lớn gấp 1,5 -2 lần so với mức chung của thế giới.
Giá thành sản phẩm cao, do nhiều yếu tố, nhưng trước hết là do công nghệ sử
dụng lạc hậu dẫn đến giá trị của sản phẩm thấp, khó có khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong và ngoài nước. Cũng do sự bất cập của công nghệ nên
năng suất lao động rất thấp, tỉ lệ sản phẩm hỏng cao (năng suất lao động công
nghiệp chỉ đạt 30% mức trung bình của thế giới). Trình độ công nghệ thấp
cũng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường do bản thân công nghệ và do sản
phẩm mà nó tạo ra, vì thế chi phí không chỉ của riêng doanh nghiệp mà của xã
hội phải bỏ ra để khắc phục ô nhiễm môi trường là lớn.
Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,
các hoạt động đầu tư diễn ra sôi động, số lượng các dự án ngày càng nhiều,
yêu cầu của người tiêu dùng cũng ngày một cao hơn. Để đảm bảo tính khả thi
của các dự án đầu tư cần thiết phải đảm bảo đầu tư các trang thiết bị công
nghệ thích hợp, sản phẩm của dự án phải đáp ứng được các yêu cầu về kỹ, mĩ
thuật, chất lượng và cạnh tranh được trên thị trường. Việt Nam cần phải có
chính sách công nghệ và định hướng công nghệ trong thời gian tới để tăng
cường trình độ công nghệ của mình và đáp ứng được đòi hỏi của tình hình đầu
tư trong thời kỳ mới.
4) Chu trình của dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xây dựng và phát triển trong một quá trình gồm
nhiều giai đoạn riêng biệt song gắn bó chặt chẽ với nhau và đi theo một tiến
trình lôgic được gọi là chu trình dự án.Có nhiều cách phân chia chu trình dự án
nhưng ở đây để tiện cho việc phân tích, ta phân chia thành 5 giai đoạn là: xây
dựng dự án, thực hiện dự án, vận hành dự án, đánh giá sau thực hiện dự án và
kết thúc dự án.
4.1. Giai đoạn xây dựng dự án

4.1.1 - Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Nghiên cứu cơ hội đầu tư là giai đoạn đầu tiên trong chu trình dự án.
Đây là những ý tưởng ban đầu được hình thành trên cơ sở phát hiện những
lĩnh vực có nhiều tiềm năng để đầu tư, từ đó hình thành sơ bộ các ý đồ đầu tư.
Trên thực tế, ý đồ về một dự án mới có thể xuất phát từ các nguồn sau:
- Từ chiến lược phát triển ngành hay chiến lược phát triển kinh tế quốc
dân
- Thông qua việc phát hiện các nguồn tài nguyên, nhân lực, vật liệu chưa
được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
- Dự án có thể được đề xuất để đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng ở thị
trường trong nước và nước ngoài còn chưa được thoả mãn.
- Ý đồ của dự án có thể nảy sinh từ yêu cầu khắc phục những khó khăn và
trở ngại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội do thiếu các điều kiện vật chất
cần thiết.
Trên cở sở các ý đồ đầu tư khác nhau được hình thành và đề xuất, cần
tiến hành nghiên cứu chi tiết hoá, lựa chọn ra những ý đồ dự án có triển vọng
nhất (phương án tối ưu) để tiến hành chuẩn bị và phân tích trong giai đoạn
tiếp theo. Việc xác định và sàng lọc các ý đồ dự án có ảnh hưởng quyết định
đến quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án sau này.
4.1.2 - Nghiên cứu tiền khả thi
Khi xác định sơ bộ được ý đồ, mục tiêu, phương tiện của dự án, ta có thể
tiến hành nghiên cứu sơ bộ về các yếu tố cơ bản của dự án như: Quy mô, công
nghệ, công suất thiết kế, thiết bị, nhu cầu về vốn cũng như tổ chức thực hiện dự
án. Trong giai đoạn này người ta cũng xác định các chỉ tiêu cơ bản đánh giá
hiệu quả dự án để làm cơ sở cho việc xem xét, lựa chọn dự án.
Kết quả nghiên cứu tiền khả thi là cơ sở cho việc quyết định tiếp tục hoặc
chấm dứt việc nghiên cứu dự án ở bước tiếp theo.
4.1.3 - Nghiên cứu khả thi
Nghiên cứu khả thi dự án đầu tư là giai đoạn nghiên cứu chi tiết và toàn
diện các yếu tố của dự án trên mọi phương diện: Kỹ thuật, tổ chức quản lý, thể

chế xã hội, thương mại, tài chính, kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này phải thu
thập đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu về thị trường, môi
trường tự nhiên, các nguồn nguyên vật liệu, các chính sách có liên quan của
chính phủ, các đặc điểm kinh tế - văn hoá - xã hội của dân cư trong vùng.
Nghiên cứu khả thi còn được gọi là lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, là
bước nghiên cứu dự án đầy đủ nhất, có nhiệm vụ tạo cơ sở để chấp thuận hay
bác bỏ dự án cũng như để xác định một phương án tốt nhất trong số các
phưong án còn lại. Nghiên cứu khả thi đúng như tên gọi của nó, nhằm chứng
minh khả năng thực hiện của dự án về tất cả mọi phương diện có liên quan.
Chuẩn bị tốt và kỹ lưỡng quá trình này sẽ làm giảm những khó khăn trong giai
đoạn thực hiện dự án cũng như cho phép đánh giá đúng đắn hơn tính hiệu quả
và khả năng thành công của dự án.
4.1.4 - Thông qua dự án (duyệt và thẩm định dự án)
Giai đoạn này thường được thực hiện với sự tham gia của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức tài chính và các thành phần tham gia dự án nhằm xác
minh lại toàn bộ những kết luận đã được đưa ra trong quá trình chuẩn bị và
phân tích dự án, trên cơ sở đó thông qua hay bác bỏ dự án. Dự án sẽ được
thông qua và đưa vào thực hiện nếu nó được chứng minh là có tính khả thi.
Ngược lại trong trường hợp còn có những bất hợp lý trong thiết kế dự án thì
tuỳ theo mức độ, dự án có thể được yêu cầu sửa đổi hay buộc phải xây dựng lại
hoàn toàn.
4.2. Giai đoạn thực hiện dự án
Thực hiện dự án là giai đoạn triển khai thực hiện dự án. Giai đoạn này
bao gồm một loạt các quá trình kế tiếp hoặc xen kẽ nhau từ khi thiết kế đến khi
đưa dự án vào vận hành khai thác.
Thực hiện dự án là kết quả của một quá trình chuẩn bị và phân tích kỹ
lưỡng. Song trong thực tế rất ít khi dự án được tiến hành hoàn toàn đúng như
hoạch định. Nhiều dự án đã không đảm bảo được tiến độ thời gian và chi phí
dự kiến, thậm chí một số dự án đã phải thay đổi thiết kế ban đầu do giải pháp
kỹ thuật không thích hợp hay do thiếu vốn... Nói chung những rủi ro buộc hoạt

động đầu tư khó thực hiện theo như kế hoạch là các khó khăn về tài chính, các
hạn chế về mặt quản lý, các vấn đề kỹ thuật phát sinh thường xuyên trong quá
trình thực hiện dự án và do các biến động chính trị tác động không tốt đến quá
trình triển khai dự án.
4.3. Giai đoạn vận hành dự án đầu tư
Giai đoạn vận hành dự án đầu tư được xác định từ khi chính thức đưa
dự án vào vận hành, khai thác cho đến khi kết thúc dự án. Đây là giai đoạn
thực hiện các hoạt động theo chức năng của dự án và quản lý các hoạt động đó
theo kế hoạch đã dự tính. Giai đoạn vận hành dự án có thể tiến hành ngay cả
trong giai đoạn thực hiện. Có thể chia giai đoạn thực hiện dự án thành những
thời kỳ nhỏ hơn, chẳng hạn, thời kỳ thứ nhất là thi công xây dựng các công
trình cơ sở, sau khi hoàn thành XDCB dự án chuyển sang thời kỳ phát triển.
Trong thời kỳ này, dự án bắt đầu sinh lợi và trả dần những khoản nợ trong
thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ ba bắt đầu khi dự án đạt tới sự phát triển toàn bộ, nói
cách khác các công trình đầu tư ban đầu đã sử dụng hết công suất và kéo dài
tới khi dự án chấm dứt hoạt động.
4.4. Giai đoạn đánh giá sau thực hiện dự án
Đánh giá sau thực hiện dự án thực chất là việc phân tích đánh giá các chỉ
tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án trong giai đoạn vận hành, khai thác. Việc đánh
giá này nhằm hiệu chỉnh các thông số kinh tế - kỹ thuật đảm bảo mức đã được
dự kiến trong nghiên cứu khả thi trên cơ sở phát hiện và tìm biện pháp đảm
bảo các thông số vận hành của dự án. Đồng thời tìm kiếm các cơ hội phát triển,
mở rộng hoặc điều chỉnh các yếu tố của dự án cho phù hợp với tình hình thực
tế để đảm bảo hiệu quả của dự án. Dựa vào các kết quả phân tích, các cơ quan
có thẩm quyền đánh giá quá trình vận hành, khai thác dự án để có quyết định
đúng đắn về sự cần thiết kéo dài hoặc chấm dứt thời hạn hoạt động của dự án.
4.5 Giai đoạn kết thúc dự án
Đây là giai đoạn tiến hành các công việc cần thiết để chấm dứt hoạt
động của dự án (thanh toán công nợ, thanh lý tài sản và hoàn thành các thủ
tục khác)

Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo
từng giai đoạn rất cẩn thận nhưng không thể tránh khỏi những sai sót nhất
định. Do đó, chúng ta cần phải có một quy trình thẩm định dự án thích hợp
nhằm phát hiện ra những sai sót để có biện pháp khắc phục, đảm bảo tính khả
thi của dự án.
Biểu 3: Chu trình phát triển của một dự án đầu tư
1.
II) Thẩm định dự án đầu tư
1) Khái niệm thẩm định dự án
Mỗi một hoạt động đầu tư đều có rất nhiều đặc điểm và sự phức tạp về
mặt kỹ thuật lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định. Do vậy trước khi
quyết định hoặc chấp thuận việc thực hiện một dự án, cấp có thẩm quyền cần
phải đánh giá toàn diện nội dung dự án xem dự án có thực sự có lợi nhuận
không, có đáp ứng được các mục tiêu phát triển chung của quốc gia hay không.
Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào. quá trình xem xét đánh giá dự án
nhằm đạt được các mục tiêu nói trên được gọi là thẩm định dự án đầu tư.
Ta hãy xem xét hai cách khái niệm sau:
Giai đoạn 1
Xây d ng d ánự ự
Thẩm định
dự án đầu tư
Nghiên cứu
khả thi
Nghiên cứu
tiền khả thi
Nghiên cứu
cơ hội đầu

Giai đoạn 5: Kết thúc
dự án

Giai đoạn 4: Đánh giá
sau thực hiện dự án
Giai đoạn3: Vận h nhà
khai thác dự án
Chạy thử,
nghiệm thu
Đ o tà ạo CB -CNV
kỹ thuật, quản lý
Kí kết hợp
đồng, đấu
thầu
Thiết kế kỹ
thuật
Giai đoạn 2: Thực
hiện dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có
khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi
của dự án, từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư là hoạt động chuẩn bị dự án, được thực hiện
bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập để ra quyết định đầu tư, thoả
mãn các yêu cầu thẩm định của Nhà nước.
Như vậy, thẩm định dự án là khâu nằm trong quá trình chuẩn bị dự án
nhưng tách biệt với khâu soạn thảo dự án. Thực chất của việc thẩm định dự án
là kiểm tra đánh giá toàn diện nội dung của dự án trên cơ sở các tiêu chuẩn,
quyết định, định mức của cơ quan quản lý Nhà nước, các tiêu chuẩn và thông
lệ quốc tế. Từ đó có các kết luận về tính khả thi của dự án để làm cơ sở cho các
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
2) Sự cần thiết phải thẩm định dự án
Hiện nay, đang có nhiều vấn đề đặt ra trong việc lập và quản lý dự án
lớn, đây là một bài toán tổng thể phức tạp nhưng cần thiết phải giải quyết.

Trong sự phát triển tiếp theo của quản lý các dự án ở thập niên 70, sau cuộc
khủng hoảng dầu mỏ nổi lên hai đặc điểm: Một là số lượng cũng như mức độ
các rủi ro về kinh tế (nguồn nguyên liệu cạn kiệt, khan hiếm...) xã hội (thất
nghiệp gia tăng, lạm phát cao... ) chính trị (không ổn định...) đã đưa vào dự án
các mô hình xác suất thống kê cho phép tính đến độ bất định của các dữ kiện.
Hai là cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ tin học (máy tính
điện tử và các phần mềm tương ứng) người ta đã tiến hành mô phỏng để so
sánh nhiều phương án khác nhau (làm nhiều tính toán đơn giản thay vì một
tính toán duy nhất nhưng phức tạp như trước đây). Giai đoạn thập niên 80
đánh dấu bằng sự hình thành ngày càng nhiều các dự án kinh tế vi mô và các
dự án khu vực với sự tham gia cùng một lúc của nhiều quốc gia trong đó có dự
án liên kết giữa các nước công nghiệp phát triển. Cuối cùng trong việc lập,
phân tích, quản lý dự án những năm gần đây nổi lên một số vấn đề mới như
làm thế nào để nâng cao chất lượng các dự án mang tính chất nghiên cứu phát
triển, chú trọng đến các vấn đề định tính như: đặc điểm văn hoá, ảnh hưởng
môi trường sinh thái, giải quyết công ăn việc làm...
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia là các công
cuộc đầu tư có quy mô ngày càng lớn và tính đa dạng cao. Cạnh tranh trên thị
trường trở nên gay gắt, khoảng thời gian mà mỗi sản phẩm trụ được trên thị
trường ngày một ngắn. Vì vậy việc hình thành ý tưởng dự án, lập dự án cũng
như quản lý tốt dự án trở thành một vấn đề hết sức bức thiết.
Mỗi doanh nghiệp thường phải tiến hành một lúc nhiều dự án liên quan,
phụ thuộc lẫn nhau (dự án sản phẩm mới thường đi liền với nhu cầu thay đổi
cơ cấu tổ chức, tin học hoá doanh nghiệp...) số lượng dự án nhiều, quy mô dự
án cũng lớn lên và phức tạp hơn do sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ,
nhiều dự án đòi hỏi phải có chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau cùng
tham gia. Trong khi đó các dự án phải đứng trước những hạn chế về kinh tế
như nguồn lực có hạn, những vấn đề về môi trường sinh thái, yêu cầu ngày
càng cao của khách hàng... Những đòi hỏi ngày càng nghiêm khắc đó của thực
tế buộc các nhà đầu tư phải quan tâm đến việc nghiên cứu tổ chức tối ưu toàn

bộ quá trình chuẩn bị dự án và thực hiện dự án. Đồng thời đòi hỏi các nhà
quản lý kinh tế phải có kiến thức, kinh nghiệm, phẩm chất... để đánh giá đúng
đắn hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án để ra quyết định
hợp lý về đầu tư hay quyết định cho vay, tài trợ cho dự án. Quá trình các nhà
quản lý thực hiện các nhiệm vụ này chính là quá trình thẩm định dự án đầu tư.
Mặt khác, một dự án đầu tư cho dù được soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu thì
vẫn mang ý kiến chủ quan của nhà đầu tư và sẽ có những sai sót nhất định
trong việc nhìn nhận đánh giá các vấn đề của dự án. Dự án được lập thường
không tránh khỏi tình trạng bỏ sót các yếu tố trong khi tính toán, tình trạng
thiếu khách quan thiên về mục tiêu lợi nhuận mà coi nhẹ lợi ích của xã hội.
Ngoài ra do chủ đầu tư hạn chế về nguồn thông tin, trình độ chuyên môn, quản
lý cũng như phân tích tình hình thực tế của chủ đầu tư còn yếu nên dự án được
lập ra chưa chắc đã thực sự khả thi, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường cũng
như các mục tiêu phát triển của xã hội. Công tác thẩm định dự án nhằm làm rõ
tính đúng đắn, hợp lý của dự án trên cơ sở phân tích một loạt các vấn đề có
liên quan đến hiệu quả thực hiện dự án như mục tiêu của dự án, thị trường sản
phẩm, kỹ thuật - công nghệ, khả năng tài chính của dự án... Như vậy, thẩm định
dự án có một vai trò to lớn đối với chủ đầu tư, với Nhà nước và đối với các nhà
tài trợ trong việc đảm bảo có một dự án thực hiện theo đúng kế hoạch, thu hồi
đủ vốn ban đầu, có lãi và đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Đối với chủ đầu tư, thẩm định dự án như là một quá trình kiểm tra đánh
giá lại toàn bộ các phương diện của dự án dưới một cái nhìn khách quan hơn.
Giả sử rằng, nếu lấy mục tiêu lợi nhuận tối đa để đi đến quyết định đầu tư ta sẽ
dễ dàng so sánh giữa lợi nhuận có thể đạt được với chi phí đầu tư đã bỏ ra.
Tuy nhiên vấn đề không hoàn toàn đơn giản nếu chúng ta chỉ xem xét một khía
cạnh biểu hiện của hoạt động đầu tư là chi phí bỏ ra ở hiện tại nhưng lợi
nhuận là những khoản tiền nhận được trong tương lai, thậm chí sau 15 năm
hoặc 20 năm. Vấn đề đặt ra là so sánh như thế nào giữa chi phí đầu tư bỏ ra và
lợi nhuận thu được? Đây chính là những vấn đề thuộc luận cứ khoa học của

thẩm định dự án. Trên thực tế, sau khi thẩm định một dự án, bộ phận thẩm
định sẽ có ý kiến đánh giá về dự án và có yêu cầu chủ đầu tư hoàn thiện bổ
xung thông tin trong trường hợp dự án có thiếu sót hoặc có ý kiến bác bỏ đối
với những dự án không đáp ứng được yêu cầu. Thông qua đó, chủ đầu tư sẽ
xác định và lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất, rủi ro thấp nhất đồng
thời loại bỏ được các phương án đầu tư không hiệu quả.
Công tác thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ích đối với nhà đầu tư mà
còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Nhà nước. Bởi lẽ, một doanh nghiệp khi
có dự án đầu tư sẽ có rất nhiều mục tiêu cụ thể nhưng quy tụ lại vẫn là mục
tiêu lợi nhuận. Khả năng sinh lời càng lớn thì càng hấp dẫn doanh nghiệp
tham gia đầu tư. Vì vậy, khi lập dự án đầu tư, chủ đầu tư thường có khuynh
hướng thiên về mục tiêu tạo ra nhiêu lợi nhuận cho mình mà không quan tâm
đúng mức đến các lợi ích xã hội khác. Trách nhiệm của bộ phận thẩm định dự
án là đánh giá dược tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển
chung của ngành, vùng lãnh thổ và của cả nước. Đặc biệt phải xác định được
phần lợi ích mà dự án đóng góp cho xã hội và phần chi phí mà xã hội phải bỏ
ra để từ đó xem xét khả năng sinh lợi của dự án trên phuơng diện xã hội. Từ đó
có kết luận loại bỏ những dự án không có hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội hoặc
hiệu quả thấp. Điều này sẽ đảm bảo các công cuộc đầu tư đều đóng góp vào lợi

×