Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.28 KB, 24 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN
1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
1.1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Nguồn gốc, định nghĩa
Khi sản xuất phát triển trao đổi hàng lấy hàng không thể đáp ứng được yêu
cầu của lưu thông hàng hoá, để đáp ứng yêu cầu đó tiền đã xuất hiện đóng vai
trò là vật trung gian trong quá trình trao đổi, lưu thông. Khi tiền ra đời lưu
thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn và sản xuất cũng phát triển hơn. Nhưng
mỗi vùng lãnh thổ lại có một đồng tiền khác nhau, sự khác biệt giữa các đồng
tiền giữa các khu vực đã gây khó khăn cho lưu thông hàng hoá giữa các vùng.
Những thương gia thông minh nhất đã nhận thấy điều đó và họ đã chuyển
sang làm một công việc mới là đổi tiền cho các thương gia kinh doanh hàng
hoá, đó chính là những thương gia tiền tệ.
Một thương gia hàng hóa ở vùng A mang hàng hoá sang B bán thu được tiền
nhưng chưa mua được hàng hoá ngay cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo do đó
lại phải mang tiền về A chờ khi nào có hàng lại đem tiền đi mua. Nhưng một
khối lượng tiền lớn mang đi xa là rất nguy hiểm, do đó họ lựa chọn giải pháp
khôn ngoan hơn là gửi tiền ở các thương gia tiền tệ. Các thương gia tiền tệ
nhận tiền gửi, thu lệ phí và cấp cho người gửi tiền một giấy biên nhận.
Để thuận lợi cho thương gia A thì thương gia tiền tệ sẽ thực hiện việc thanh
toán hộ tiền hàng hoặc thương gia A có thể dùng giấy biên nhận giao cho B và
B sẽ tới nhận tiền.
Các thương gia tiền tệ nhận thấy rằng có rất nhiều lượt người tới rút tiền
hoặc yêu cầu thanh toán hộ nhưng cũng có rất nhiều lượt người tới gửi tiền
và trong kho của họ luôn có một lượng tiền dư thừa nhất định, trong khi đó
thương gia hàng hoá lại có nhu cầu lớn về tiền để kinh doanh do đó đã phát
sinh nghiệp vụ cho vay và các thương gia tiền tệ đã chuyển hoàn toàn từ hoạt
động kinh doanh hàng hoá sang kinh doanh tiền tệ. Đó chính là tiền thân của
các ngân hàng thương mại.
Vậy cơ sở ra đời của các ngân hàng thương mại chính là sự phát triển của
sản xuất hàng hoá và sự ra đời của tiền tệ.


Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới theo quan niệm ngày nay
đó là Banca di Barcelone (ngân hàng Barcelone) ở Tây Ban Nha (1401) và
Banca di Valencia (ngân hàng Valence) cũng ở Tây Ban Nha (1409) hai ngân
hàng này đã thực hiện phần lớn những nghiệp vụ của những ngân hàng
thương mại ngày nay như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán hộ, bảo quản tài
sản...
Mặc dù ngân hàng thương mại ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học,
các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí với nhau về định nghĩa ngân hàng
thương mại, đó là do sự khác biệt về tập quán luật pháp, số lượng các nghiệp
vụ ngân hàng, bối cảnh nền kinh tế của các vùng...
Ở Việt Nam theo pháp lệnh “Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính” ban hành ngày 24/05/1990: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh
doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Theo luật các tổ
chức tín dụng ban hành 26/12/1997 ngân hàng thương mại là một doanh
nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng đó là “hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
Mặc dù có các định nghĩa khác nhau nhưng ta có thể hiểu ngân hàng thương
mại là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, có hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả, sử
dụng số tiền đó để cho vay và làm phương tiện thanh toán.
1.1.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1 Nghiệp vụ nợ.
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế có tỷ lệ vốn tự có trong tổng số vốn kinh
doanh thấp nhất, nguồn vốn hoạt động của ngân hàng phần lớn dựa vào việc
huy động các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Hoạt động nguyên thuỷ của các ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng

và sử dụng số tiền đó để cho vay. Cho đến nay, nguồn vốn huy động từ các
khoản tiền gửi của khách hàng (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán...) vẫn
là nguồn đầu vào chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Có rất nhiều nhân
tố ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng như: lãi
suất, phương thức trả lãi, tình hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán thói
quen của khách hàng, lòng tin của dân chúng, địa điểm ngân hàng, các dịch
vụ ngân hàng cung ứng....
Ở Việt Nam các loại tiền gửi chủ yếu gồm:
1* Tiền gửi thanh toán: Các tổ chức, cá nhân ký thác ngân hàng để thực
hiện các khoản chi trả trong kinh doanh và tiêu dùng. Họ có thể rút ra,
chuyển nhượng hoặc yêu cầu chi trả hộ bất cứ lúc nào. Mục đích của
khách hàng đối với tiền gửi loại này không phải là lãi suất mà các dịch
vụ ngân hàng.
2* Tiền gửi tiết kiệm: Bao gồm hai loại là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và
không có kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không nhằm mục đích thanh toán
mà để an toàn tài sản và hưởng lãi suất với tiền gửi loại này khách
hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào và thời gian gửi tiền thường là
ngắn.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi mà có sự thoả thuận về thời hạn giữa ngân hàng và
khách hàng. Về nguyên tắc khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền khi
đến hạn nhưng để nâng cao tính cạnh tranh các ngân hàng thường cho
phép rút tiền trước hạn và hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Ngoài ra còn có các loại tiền gửi khác như : Tiền gửi theo thời gian thực
gửi, tiền gửi báo trước (khi rút tiền phải báo trước 8-15 ngày )...
Các khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân là rất quan trọng đối với ngân
hàng nhưng không phải là tất cả, trong những trường hợp nhất định ngân
hàng phải đi vay tại các ngân hàng khác, các tổ chức tín dụng khác, vay trên

thị trường tiền tệ, vay của ngân hàng trung ương hay cuả công ty mẹ.
Thời hạn của các khoản vay cũng rất khác nhau có khi kéo dài tới vài
năm( phát hành trái phiếu) cũng có thể chỉ vài giờ ( vay qua đêm).
Trong các hình thức đi vay thì vay từ dân cư và các tổ chức qua phát hành
kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng có chi phí thấp hơn các hình thức khác. Còn
khi vay qua các tổ chức tín dụng khác thì chi phí sẽ cao hơn do đã qua một
trung gian (tổ chức tín dụng) và họ sẽ yêu cầu một mức “hoa hồng” của họ.
Gần như trong trường hợp cuối cùng ngân hàng mới đi vay ở ngân hàng
trung ương vì mức lãi suất thường cao, có những điều kiện nhất định và nó
ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng.
Bên cạnh việc nhận tiền gửi và đi vay, vốn tự có của ngân hàng có vai trò rất
quan trọng. Trong tổng nguồn vồn của ngân hàng vốn tự có chiếm một tỷ lệ
rất nhỏ, khả năng tăng cũng không nhiều nhưng lại rất có ý nghĩa, nó quyết
định quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng.
1.1.2.2. Nghiệp vụ có.
Đồng thời với việc thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng phải sử
dụng vốn sao cho ít rủi ro và có khả năng sinh lợi cao để trang trải cho các
hoạt động của ngân hàng và có lợi nhuận.
Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng được thể hiện qua các hoạt động sau:
3* Hoạt động ngân quỹ: là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng phải
thường xuyên xác định số tiền mặt cần thiết trong két, số tiền gửi tại
ngân hàng trung ương, tại các ngân hàng khác và tiền mặt trong quá
trình thu. Đây là các tài sản không sinh lời hoặc sinh lời rất thấp, nhưng
là khoản có tính lỏng cao. Ngân hàng phải duy trì lượng tài sản này ở
một mức hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả năng thanh khoản vừa đảm
bảo khả năng sinh lợi.
4* Hoạt động cho vay: là hoạt động quan trọng nhất, nó thường đem lại
cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao nhất tới 60-70% nhưng đồng thời
là hoạt động có mức rủi ro cao nhất nên ngân hàng phải thực hiện tốt

hoạt động này, quản lý tiền vay một cách chặt chẽ đặc biệt là các khoản
cho vay lớn, thời hạn dài.
5* Hoạt động thuê mua: ngân hàng tham gia vào hoạt động thuê mua vơi
tư cánh là người cung cấp tài chính cho người thuê. Đặc điểm nổi bật
của hoạt động thuê mua là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê và
sau khi kết thúc hợp đồng người thuê có quyền mua lại tài sản thuê ở
mức giá thấp hơn giá thị trường và mức giá này đã được thoả thuận
ngay từ khi ký kết hợp đồng.
6* Hoạt động đầu tư và kinh doanh: đầu tư đó là việc ngân hàng dùng
tiền mua các chứng khoán để hưởng lợi tức hoặc góp vốn liên doanh...,
còn hoạt động kinh doanh chứng khoán là việc ngân hàng mua bán các
chứng khoán với mục đích hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giá. Ngân
hàng thực hiện nghiệp vụ này ngoài mục đích kiếm lợi nhuận còn nhằm
mục đích đa dạng hoá nhằm giảm rủi ro. Thêm vào đó, việc nắm giữ các
chứng khoán có chất lượng tốt, tính lỏng cao cũng là một biện pháp đảm
bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
1.1.2.3.Nghiệp vụ trung gian
Ngoài nghiệp vụ nợ và nghiệp vụ, có ngân hàng thương mại còn cung cấp
cho khách hàng một loạt các dịch vụ qua đó ngân hàng nhận được thu nhập
dưới hình thức hoa hồng. Khi hệ thống ngân hàng phát triển thì nghiệp vụ
trung gian ngày càng phát triển và đem lại tỷ trọng thu nhập ngày càng cao
cho ngân hàng. Các hoạt động trung gian bao gồm:
7* Dịch vụ thanh toán và cung ứng phương tiện thanh toán : Ngân
hàng thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng các khoản mua bán hàng
hoá, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ qua tài khoản hoặc dưới các
hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, thẻ tín dụng.....
8* Dịch vụ bảo lãnh: Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các công ty phát
hành chứng khoán, bão lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo lãnh thực hiện công trình,
bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán....

9* Dịch vụ môi giới: Ngân hàng làm việc mua bán các chứng khoán cho
khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng thực hiện mua bán hộ chứng
khoán, vàng bạc, đá quý, ngoại tệ.
10* Dịch vụ ngân quỹ: Ngân hàng thực hiện thu hộ và phát tiền mặt
cho khách hàng, ngân hàng đóng vai trò như một người thủ quỹ của
doanh nghiệp.
11* Dịch vụ chuyển tiền: trong đó nổi bật là dịch vụ chuyển tiền
nhanh Western Union, đối với các ngân hàng trong cùng hệ thống thì chỉ
cần sau 15 phút gửi tiền người nhận đã có thể nhận được.
12* Dịch vụ tư vấn giúp khách hàng trong các lĩnh vực liên quan đến
tài chính, ngân hàng, hoạt động tiền tệ.
13* Dịch vụ bảo quản hộ các chứng từ tài sản cho khách hàng. Dịch
vụ này đặc biệt phát triển ở các ngân hàng Thuỵ Sỹ.
1.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG.
1.2.1 TÍN DỤNG VÀ BẢN CHẤT CỦA TÍN DỤNG
Định nghĩa: Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn
trả.
Bản chất của tín dụng: trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhường
quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời gian nhất định chứ không
nhường quyền sở hữu và người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay khi
đến hạn đã thoả thuận. Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị
mà còn là còn được tăng thêm dưới hình thức lãi suất. Như vậy tín dụng mang
ba đặc trưng cơ bản :
14* Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu.
15* Thời hạn được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa người đi vay
và người cho vay.
16* Người cho vay được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lãi
suất.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có
hoàn trả theo một thời gian nhất định giữa một bên là ngân hàng và một bên

là các cá nhân, tổ chức kinh tế.
1.2.2. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG.
1.2.2.1 GÓP PHẦN THÚC ĐẨY SẢN XUẤT PHÁT TRIỂN.
Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi
vốn của các doanh nghiệp phải tồn tại đồng thời trong cả ba giai đoạn dự trữ,
sản xuất và lưu thông nhưng không phải bao giờ doanh nghiệp cũng đảm bảo
đủ vốn cho cả ba giai đoạn đó mà thường xuyên có tình trạng thừa và thiếu
vốn trong tất cả các doanh nghiệp và tín dụng đóng vai trò rất lớn trong việc
duy trì sự hoạt động liên tục của các doanh nghiệp.
Mặt khác, với mục tiêu mở rộng sản xuất phát triển đối với từng doanh
nghiệp thì yêu cầu về vốn càng trở nên cấp thiết. Bởi lẽ để mở rộng quy mô
sản xuất thì không thể chỉ dựa vào lượng vốn hiện có mà cần phải có nguồn
vốn từ bên ngoài và tín dụng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất
cho quá trình mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.
Thêm vào đó tín dụng còn tạo thêm thu nhập người gửi tiền kích thích nhu
cầu tăng lên tạo điêù kiện cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng hoá,
dịch vụ.
Tín dụng ngân hàng luôn chiếm vị trí đáng kể trong kết cấu vốn của doanh
nghiệp bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động, là chỗ dựa quan trọng cho các
doanh nghiệp, là một nhân tố thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
1.2.2.2 ỔN ĐỊNH TIỀN TỆ VÀ GIÁ CẢ.
Với chức năng tập trung những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, tín
dụng đã trực tiếp làm giảm khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế. Lượng tiền
thừa này nếu không được huy động và sử dụng kịp thời thì có thể gây ảnh
hưởng xấu đến tình trạng lưu thông tiền tệ, hàng hoá và có thể dẫn tới lạm
phát.
Mặt khác tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt. Đây là nhân tố tích cực giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền
kinh tế - bộ phận rất khó quản lý và lại dễ bị tác động bởi quy luật lưu thông
tiền tệ.

Trong những năm gần đây, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển
chính sách lãi suất tín dụng là một công cụ của chính sách tiền tệ và là một
công cụ quan trọng trong công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước nó có thể giúp
cho việc tăng giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông qua đó tạo ra sự phù
hợp giữa hàng hoá và tiền tệ, tạo ra sự ổn định tiền tệ và giá cả.
1.2.3. PHÂN LOẠI TÍN DỤNG.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tín dụng rất đa dạng, phong phú. Để
thực hiện tốt hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại quản lý chất
lượng tín dụng thông qua các phân loại tín dụng, quy định quy trình và các tiêu
chuẩn quản lý tín dụng, phân tích tín dụng, quản lý cơ cấu tài sản nợ- tài sản
có, quản lý rủi ro tín dụng.
Phân loại tín dụng nhằm giám sát và kiểm tra các khoản nợ hiện có theo các
mức độ khác nhau, xác định chất lượng và mức độ rủi ro của các khoản nợ, từ
đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản cho vay. Có nhiều tiêu thức
phân loại tín dụng khác nhau như: thời hạn, mục đích của khoản vay, thành
phần kinh tế, điều kiện đảm bảo đối với khoản vay, tính chất của khoản vay....
Theo thời hạn tín dụng được chia làm ba loại sau:
17* Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm
và thường được sử dụng để bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp hay
phục vụ nhu cầu chi tiêu cá nhân.
18* Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm,
mục đích của tín dụng trung hạn thường là để mua sắm tài sản cố định,
cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có
thời gian thu hồi vốn nhanh.
19* Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm nhưng
không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quy định thành lập hoặc giấy
phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự
án phục vụ đời sống. Tín dụng loại này thường được sử dụng để cung
cấp vốn xây dựng cơ bản (đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, công trình
thuộc cơ sở hạ tầng: đường sá, cầu cống, sân bay...), cải tiến và mở rộng

quy mô sản xuất.
Hiện nay tín dụng trung và dài hạn không chỉ đơn thuần là các khoản tín
dụng có thời hạn trên một năm mà nó còn ẩn chứa dưới rất nhiều hình thức
khác phổ biến như:
-Cho vay trực tiếp theo dự án: Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên
cơ sở dự án đã được xem xét, khẳng định tính hiệu quả, tính khả thi. Do
vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là việc cho vay mà phải
quán xuyến hàng loạt vấn đề khác như: quy trình công nghệ, sản xuất...
bởi vậy quyết định một khoản tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người
vay trong một số năm, cho nên cần thiết phải nghiên cứu một cách
nghiêm túc và xem xét cẩn thận các rủi ro có thể xảy ra. Hình thức này
hiện nay khá phổ biến trong các ngân hàng thương mại Việt Nam.
-Tín dụng tuần hoàn: là phương thức cho vay dựa vào chu kỳ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung và dài hạn
khi thời hạn của hợp đồng trên một năm. Tín dụng tuần hoàn có thể
chuyển thành tín dụng trung dài hạn theo hợp đồng đã ký kết nếu người
vay thấy cần thiết vì tình trạng tài chính không sẵn sàng để thực hiện tín
dụng tuần hoàn.
-Tín dụng thuê mua: Đây là hình thức đặc biệt của tín dụng trung và
dài hạn. Tín dụng thuê mua của ngân hàng là kiểu tín dụng trong đó ngân
hàng (bên cấp tín dụng thuê mua) giao cho bên đi thuê mua quyền sử
dụng tài sản thuê mua trong một thời gian nhất định và với những điều
kiện nhất định. Sau khi hết hạn hợp đồng, người thuê mua có thể mua lại
tài sản đã thuê với gía thấp hơn giá trị còn lại của tài sản hoặc tiếp tục
thuê hoặc trả lại tài sản.
-Cho vay tài trợ theo dự án: Là hình thức cho vay mà ngân hàng tham
gia vào việc tài trợ dự án lớn cùng với một số người cho vay khác, người
bảo trợ và chủ đầu tư. Trong đó tài trợ dự án có thể được hiểu là việc tài
trợ dự án lớn, người cho vay chủ yếu coi các khoản thu nhập và lợi nhuận
từ dự án như là nguồn thu để thanh toán nợ và phần tài sản có của dự án

như là một khoản thế chấp cho khoản vay. Tài trợ theo dự án của các
ngân hàng lớn thường có liên quan trực tiếp đến ngành dầu lửa, khai
khoáng, các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn và những giao dịch mua bán
tàu biển, máy bay. Việc tài trợ theo dự án rất phổ biến ở các ngân hàng
thương mại lớn trên thế giới, còn ở Việt Nam chưa được các ngân hàng
thương mại tiến hành. Hình thức tài trợ BOT cho một số dự án đầu tư vào
cơ sở hạ tầng đã được thực hiện ở nước ta nhưng đều do các công ty tài
chính lớn nước ngoài tiến hành.
-Cho vay đồng tài trợ: Là một khoản cho vay do nhiều ngân hàng cùng
tham gia tài trợ. Việc này thường được thực hiện khi một ngân hàng
đứng đầu (ngân hàng đầu mối) đứng ra tập hợp một nhóm ngân hàng
thành viên, mỗi thành viên trong nhóm sẽ ký hợp đồng với bên vay nợ
dưới dạng một chứng từ vay nợ. Hình thức này thường được áp dụng đối
với các dự án lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng được hoặc không
muốn mạo hiểm bỏ quá nhiều tiền vào một dự án lớn.

×