Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DNNN Ở TRÊN ĐỊA BÀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.77 KB, 23 trang )

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DNNN Ở TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TÂY
I: Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam.
1: Nhận định chung về DNNN ở Việt Nam.
Cũng như các nước trong phe XHCN trước đây Việt Nam xây
dựng mô hình kinh tế chỉ huy, vận hành theo cơ chế KHH tập trung.
Xác định một chủ thể kinh tế Nhà nước, các thành phần kinh tế
khác không được công nhận về mặt pháp lý và ngày càng thu hẹp
lại. Hàng loạt DNNN do quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản dân
tộc và tư sản mại bản và thành lập mới. Nhà nước điều hành và
quản lý DNNN trực tiếp bằng các chỉ tiêu pháp lệnh, thực hiện chế
độ bao cấp đối với DNNN trên nguyên tắc tài chính thu đủ chi. Giá
cả chỉ là công cụ để tính toán cho việc cấp phát vật tư và giao sản
phẩm. Chính cơ chế KHH tập trung đã chi phối lớn đến cơ chế hoạt
động và làm giảm hiệu quả của Doanh nghiệp, biến DNNN thành
đơn vị hành chính mất đi tính chủ động của đơn vị sản xuất, kinh
doanh. Cũng do chế độ bao cấp các DNNN bằng mọi cách huy động
tối đa các nguồn lực của Nhà nước để thực hiện các chỉ tiêu được
giao hơn là (tối thiểu hoá chi phí sản xuất) để tối đa hoá lợi nhuận.
Sản phẩm sản xuất ra đều giao nộp cho Nhà nước dẫn tới các
DNNN hoạt động trong môi trường không có cạnh tranh và kém
hiệu quả là không thể tránh khỏi.
Cơ chế quan liêu bao cấp tồn tại quá lâu đã làm cho DNNN
làm ăn ngày càng kém hiệu quả, trở thành gánh nặng cho ngân
sách Nhà nước. Nhìn chung các DNNN vẫn tồn tại các vấn đề cơ bản
sau:
-
Tỷ suất lợi nhuận thấp.
-
Hiệu quả sử dụng vốn thấp.
-


Năng suất lao động thấp.
-
Tiêu hao vật chất cao hơn khu vực ngoài quốc doanh.
-
Sư đóng góp đích thực vào nguồn thu ngân sách thấp.
-
Chi phí cho một chỗ làm việc cao.
-
Tình trạng mất vốn là phổ biến.
Nguyên nhân của sự tần tại là:
-
Do hệ đa mục tiêu (kinh tế, xã hội).
-
Do số lượng DNNN còn quá lớn, Nhà nước không đủ nguồn lực đáp
ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh của Doanh nghiệp nhất là nhu
cầu đổi mới trang thiết bị của Doanh nghiệp.
-
Người lao động ỷ lại, trông chờ nên tính năng động và chủ động
sáng tạo kém.
-
Năng lực cán bộ quản lý chưa đáp ứng nhu cầu đổi mới do thời kỳ
bao cấp quá dài.
-
Do cơ chế một thủ trưởng bổ nhiệm và tập thể người lao động làm
chủ cũng có nghĩa là doanh nghiệp chưa có người chủ đích thực.
Vì vậy trong thời gian tới việc đổi mới sắp xếp lại các DNNN
là điều cần phải làm triệt để.
2: Tiến trình, cơ chế và chính sách cổ phần hoá DNNN ở
Việt Nam.
Quá trình CPH ở Việt Nam đã trải qua hơn một thập kỷ và

được chia thành các giai đoạn sau:
2.1: Giai đoạn thí điểm (1992-5/1996)


Ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng(nay là thủ
tướng Chính Phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm
chuyển một số DNNN thành CTCP. Theo quyết định này, có 7 doanh
nghiệp được chọn tổ chức triển khai thí điểm CPH, nhưng đã xin rút
khỏi danh sách. Rút kinh nghiệm, sau đó chọn những Doanh nghiệp
tự nguyện có đủ điều kiện; đồng thời nhằm đẩy nhanh công tác thí
điểm CPH, Thủ tướng Chính Phủ cũng ban hành Chỉ thị 84/TTg
ngày 4-8-1993 về xúc tiến thực hiện CPH DNNN. Kết quả đã có 5
DNNN thuộc hai bộ, 2 địa phương và 1 Tổng công ty chuyển thành
CTCP. Tổng vốn điều lệ tại thời điểm CPH là 38,393 tỷ đồng.
Nhìn chung, các DNNN tiến hành CPH trong giai đoạn này
thuộc loại vừa và nhỏ, vốn ít (dưới 10 tỷ đồng); phần lớn mang
tính dịch vụ, kinh doanh hiệu quả và không thuộc diện Nhà nước
cần nắm giữ 100% vốn, tập thể cán bộ công nhân viên tự nguyện
tham gia thí điểm CPH. Tuy nhiên, do còn nhiều vướng mắc nên cần
tiếp tục nghiên cứu bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế từ
việc chọn Doanh nghiệp đến xác định giá trị Doanh nghiệp; trách
nhiệm quyền hạn của các bộ ngành, địa phương. Để đẩy nhanh tiến
trình CPH và có tính pháp lý cao hơn, Chính Phủ đã ban hành văn
bản thay thế Quyết định 202/CT.
2.2: Giai đoạn mở rộng thí điểm (từ cuối năm 1996 đến 6/1998)
Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm, ngày 7/5/1996, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 28/CP. Nghị định này ra đời đã tạo điều
kiện thúc đẩy CPH nhanh hơn. Đối tượng, mục tiêu CPH, nguyên tắc
xác định giá trị Doanh nghiệp, chế độ ưu đãi Doanh nghiệp và
người lao động được quy định cụ thể hơn. Kết quả sau hai năm

thực hiện đã có 25 DNNN thuộc 2 bộ, 11 địa phương và 2 Tổng Công
ty 91 tiến hành CPH thành công với tổng số vốn điều lệ tại thời
điểm CPH là 243,042 tỷ đồng. Trong đó có 6 Doanh nghiệp trên 10
tỷ đồng (chiếm 20,8%). Tuy nhiên, kết quả này vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp, cần phải có Nghị định mới
thay thế cho phù hợp.
2.3: Giai đoạn triển khai và đẩy nhanh tiến trình CPH.
Việc thực hiện quá trình CPH thực sự có chuyển biến rõ rệt
từ khi có Nghị định 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998. Sự ra đời của
Nghị định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNNN
thực hiện CPH. Bởi ngoài sự kế thừa nhiều mặt tích cực của
Nghị định 28/CP, Nghị định này có nhiều bổ sung sửa đổi và
phát triển thêm nhiều điểm mới để đáp đáp ứng yêu cầu thực tế
của công tác CPH. Trong giai đoạn từ tháng 7/1998 đến tháng
6/2002 đã có trên 700 Doanh nghiệp được CPH chuyển thành
CTCP. Đây là một kết quả to lớn nhờ có chính sách mới nhưng
nó vẫn tồn tại những mặt hạn chế cần phải tiếp tục bổ sung.
Đến tháng 6/2002 Chính phủ ban hành Nghị định 64/NĐ-CP
ngày 19/6/2002. Việc ban hành Nghị định này đã tạo điều kiện
thuận lợi để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. Chỉ trong vòng 6
tháng kể từ ngày ban hành Nghị định đã có trên 100 doanh
nghiệp CPH chuyển thành CTCP.
3: Thành tựu và những tồn tại cơ bản của quá trình CPH.
3.1: Những thành tựu cơ bản.
Như vậy, sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương CPH, tính đến
hết năm 2002, trên toàn quốc đã có gần 900 doanh nghiệp và bộ
phận DNNN của 10 bộ, 54 địa phương và 12/17 tổng công ty 91
hoàn thành chương trình CPH. Tổng số vốn Nhà nước đánh giá lại
khi CPH là hơn 3.000 tỷ đồng (tăng từ 10-15% so với giá trị ghi
trên sổ sách). Qua CPH đã huy động 3.000 tỷ đồng vốn ngoài xã hội

vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, sự thay đổi phương
thức quản lý đã tạo động lực thúc đẩy Doanh nghiệp kinh doanh
đạt hiệu quả cao hơn. Vai trò làm chủ thật sự của người lao động
với tư cách là cổ đông trong CTCP bước đầu được khơi dậy và phát
huy, thể hiện rõ ở tinh thần hăng say và tự giác làm việc, ý thức tổ
chức kỷ luật và tinh thần tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh được
nâng lên.Theo báo cáo của các Doanh nghiệp CPH đã hoạt động
trên một năm, các chỉ tiêu kinh tế của hầu hết các Doanh nghiệp
đều có mức tăng trưởng cao. Trong đó, doanh thu bình quân tăng
1,4 lần, lợi nhuận tăng 2 lần, nộp ngân sách tăng 22%, số lượng lao
động tăng. Điều đáng chú ý là các DNNN CPH trong thời gian qua
rất ít người lao động bị đưa ra khỏi Doanh nghiệp trừ những
trường hợp tự nguyện. Đồng thời, thu nhập của người lao động
cũng tăng thêm so với trước khi CPH từ 200.000-500.000 đồng. Tuy
vậy do phần lớn các DNNN CPH thuộc diện vừa và nhỏ, vốn Nhà
nước dưới 10 tỷ đồng là phổ biến nên mục tiêu huy động vốn và cơ
cấu lại các nguồn vốn Nhà nước qua CPH còn hạn chế.
Để minh chứng ích lợi của mô hình CPH DNNN chúng ta hãy
xét một số điểm sáng về CPH:

Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO).
Công ty Cổ phần giấy Hải Phòng thành lập từ năm 1960 và đã
từng hai lần quỵ ngã: lần thứ nhất vào năm 1981-1982, lần thứ hai
vào năm 1989-1990. Từ năm 1991 trở đi Doanh nghiệp này phục
hồi và làm ăn có lãi. Đến năm 1996 HAPACO là đơn vị thí điểm CPH.
Đến 6/1998 HAPACO đã CPH một bộ phận của Doanh nghiệp và cho
ra đời công ty cổ phần Hải Âu. Đây được coi là giai đoạn CPH lần
thứ nhất của HAPACO. Người lao động mua 60% cổ phần, Nhà nước
nắm 15%, còn là cổ đông bên ngoài. Năm 1999, Hải Âu như “diều
gặp gió” tăng trưởng vùn vụt. Vốn điều lệ của Doanh nghiệp tăng

hơn 3 lần, cổ tức trả cho cổ đông bằng 100% vốn góp. Các chỉ tiêu
như giá trị sản xuất, doanh thu,sản phẩm,nộp ngân sách đều tăng
từ 32-43%.
Vào thời gian này Công ty cổ phần Hải Âu và Công ty giấy Hải
Phòng (vẫn là DNNN cùng nằm trên một diện tích mặt bằng và cùng
cổng ra vào. Sự biến đổi hàng ngày của CTCP Hải Âu làm cho người
lao động của Công ty giấy Hải Phòng háo hức với CPH và kiến nghị
nhiều lần với thành phố để được CPH và đến cuối năm 1999 Công ty
giấy Hải Phòng dược CPH và hợp nhất với CTCP Hải Âu thành CTCP
giấy Hải Phòng (HAPACO). Đến quý I/2000 HAPACO đã có vốn điều
lệ trên 10 tỷ, trong đó cổ đông trong Doanh nghiệp chiếm 75%, cổ
đông ngoài Doanh nghiệp chiếm 25%. Đến 17/7/2000 HAPACO
chính thức được cấp giấy phép niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán tại trung tâm giao dịch TP Hồ Chí Minh, và vào ngày
23/11/2001 HAPACO quyết định phát hành thêm 1.000.000 cổ phiếu
mới để huy động vốn đầu tư nhàn rỗi trong công chúng cho dự án
nhà máy sản xuất giấy Kraft làm bao bì công nghiệp.
Bảng 1: Các chỉ tiêu tăng trưởng cơ bản của HAPACO trước và sau CPH
Chỉ tiêu
1998 1999
2000
(Đã
CPH)
2001
1.
Giá trị sản xuất (tỷđồng) 48 82,5 102,2 125,2
2.
Doanh thu (tỷ đồng)
3.
Sản phẩm (tấn)

4.
Nộp ngân sách (ngàn đồng)
5.
Thu nhập BQ (ngàn đồng)
6.
Lợi nhuận sau thuế (triệu
đồng)
32,9
8.000
0,81
680
2.600
53,12
12.000
1,52
945
6.450
70,1
15.889
1,779
1.080
8.421
86
20.200
2,87
1.200
8.600
Nguồn: Công ty HAPACO

Công ty cổ phần Cáp và vật liệu viễn thông (SACOM).

Ngày 7/2/1998 bằng quyết định của tổng cục trường tổng cục
bưu điện, SACOM đã chính thức ra đời trên cơ sở CPH Nhà máy Cáp
và vật liệu viễn thông. Tổng vốn điều lệ tại thời điểm CPH được xác
định là 120 tỷ đồng. Trong đó Nhà nước 49% cổ phần, CBCNV trong
doanh nghiệp giữ 10%, còn lại là các cổ đông ngoài doanh nghiệp.
Trước khi CPH, vốn chủ sở hữu (vốn Nhà nước ) chỉ là 21,5 tỷ
đồng, đến khi CPH số vốn điều lệ là 120 tỷ đồng, gấp gần 6 lần.
Chính nhờ khả năng huy động vốn lớn, nên chỉ sau một năm SACOM
đã đầu tư cho một dây chuyền công nghệ tiên tiến của Thuỵ Sĩ,
nâng công suất lên 6 lần so với trước khi CPH. Tiếp đó, Công ty còn
hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng dự án mở rộng nhà
xưởng và lắp đặt thiết bị có công nghệ tiên tiến với tổng trị giá gần
6 triệu USD. Sau khi đổi mới công nghệ, các sản phẩm của Công ty
ngày càng phong phú hơn với 240 chủng loại khác nhau. Sản phẩm
làm ra đạt tiêu chuẩn của nhiều nước như Mỹ, Anh... và có khả năng
cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại. Nhờ việc sản xuất kinh
doanh phát triển, các chỉ tiêu kinh tế của Công ty đều có mức tăng
trưởng cao, thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Các chỉ tiêu cơ bản của công ty SACOM trước và sau CPH
Chỉ tiêu
ĐV tính
Trước CPH
(1997)
Sau CPH
(2001)
%
1.
Sản lượng
2.
Doanh thu

3.
Lợi nhuận trước
thuế
4.
Lợi nhuận sau thuế
5.
Nộp ngân sách
6.
Lao động
7.
Cổ tức
8.
Thu nhập bình quân
9.
Vốn điều lệ
Km đôi dây
Triệu đồng
Người
%
1000/Người/t
háng
Triệu đồng
130.665
55.436
8.268
5.558
4.969
120
2.610
576.000

150.000
32.000
32.000
13.866
151
16
2.738
181.135
440
270
389
575
279
125
5

Nguồn: Công ty SACOM

×