Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.1 KB, 25 trang )

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC
KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1.1. Kinh tế ngoài quốc doanh
Ngay sau khi đất nước hoàn toàn độc lập thì KT-NQD đã tồn tại. Song
còn nhỏ bé và ẩn dưới hình thức tổ hợp, hợp tác xã không chuyên và thành
phần kinh tế tập thể. Các thành phần này thành lập theo phong trào ồ ạt, hoạt
động theo cơ chế kế hoạch hoá không vì mục đích lợi nhuận. Với môi trường
kinh tế không phù hợp như vậy, KT-NQD đã không phát huy được vai trò của
mình. Nguyên nhân làm cho KT-NQD thời kỳ này không phát triển được do
quan niệm: Sở hữu Nhà nước với chủ trương tập thể hoá nông nghiệp, cải tạo
công thương tư nhân thành thành phần quốc doanh, công ty hợp doanh, hợp
tác xã...dần dần quốc hữu hoá toàn bộ tư liệu sản xuất trong mọi TPKT quốc
dân. Kết quả là nền kinh tế kém phát triển, mất cân đối nghiêm trọng, các
nguồn lực trong nhân dân không được thu hút phục vụ phát triển kinh tế đất
nước.
Từ Đại hội Đảng VI và VII, Đảng và Nhà nước ta đã thay đổi cách nhìn và
khẳng định “Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế quan
trọng, góp phần quyết định trong nền kinh tế quốc dân cần được đối xử công
bằng”. Không những thế mà còn ưu tiên khuyến khích, tạo tiền đề cho TPKT
này phát triển. Đảng đã xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng quan
điểm của Lênin: “Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ”- Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VI.
Kể từ đây nền kinh tế bao cấp đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà giai đoạn đầu
của nó là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận, đã
thực sự quan tâm và đánh giá đúng mức khu vực KT-NQD. Do đó KT-NQD là
một trong những lĩnh vực đầu tiên khởi sắc trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường. Nó phát triển nhanh chóng cả về quy mô lẫn chất lượng và
có sức vươn lên mạnh mẽ làm sống động không khí đang đổi mới, nhất là vùng
đô thị và trung tâm thương mại lớn.


Chính phủ đã tạo điều kiện hoạt động cho khu vực kinh tế này, thể hiện
rõ nét ở Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị. Các TPKT-NQD sẽ không bị phân biệt
đối xử về mặt cung cấp nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế...nó được đối xử
bình đẳng với các đơn vị KT-QD. Đại hội Đảng lần thứ VII khẳng định: “Mọi
công dân có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quyền sỡ hữu và thu nhập
hợp pháp của họ được bảo vệ, nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình
kinh doanh phù hợp với đặc điểm và trình độ của lực lượng sản xuất nhằm
tăng nhanh sự phát triển có hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Mọi đơn vị kinh
tế, hệ thống sở hữu như thế nào đều hoạt động trong một hệ thống kinh doanh
tự chủ, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Kinh tế tư bản tư
nhân được phát triển không hạn chế về quy mô mà pháp luật không ngăn
cấm...”
Nhà nước đã xây dựng chính sách phát triển một nền kinh tế hỗn hợp,
không phân biệt đối xử, không ép buộc tập thể hoá tư liệu sản xuất, không tước
đoạt tài sản hoặc áp đặt cơ cấu kinh doanh, khuyến khích hoạt động có lợi. Để
hoàn thiện và tạo môi trường hoạt động cho khu vực này Chính phủ đã ban
hành luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật phá sản...và các luật này
thường xuyên được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Như
vậy Nhà nước đã tạo được môi trường pháp lý cho doanh nghiệp NQD phát
triển theo cơ chế thị trường. Nếu doanh nghiệp nào hoạt động tốt thì tồn tại
phát triển, còn doanh nghiệp nào hoạt động không có hiệu quả thì tự đào thải
và rút khỏi thương trường đầy khắc nghiệt. Vì vậy doanh nghiệp trong khu
vực KT-NQD không ngừng lớn mạnh về quy mô và chất lượng, đồng thời đang
ngày càng hoàn thiện.
Theo Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nền kinh tế nước
ta được chia làm 5 thành phần:
1. Kinh tế nhà nước (KTNN): Thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà
nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế. Khi bàn KTNN với tư cách là một
TPKT, chúng ta phải hiểu đó là hệ thống các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà
nước.

2. Kinh tế tư bản nhà nước (KTTBNN): Đây là TPKT dựa trên hình thức
sở hữu hỗn hợp về vốn giữa KTNN với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài
nước bằng nhiều phương thức góp vốn hợp tác liên doanh nhằm phát huy thế
mạnh của các bên tham gia, đặt dưới sự giúp đỡ của nhà nước.
Về mặt tổ chức, KTTBNN ở nước ta được cấu thành từ hai bộ phận
KTNN phối hợp với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Song bộ phận
thứ nhất rất nhỏ bé. Vì vậy, có thể coi sự phát triển KTTB nước ngoài ở nước ta
trong những năm qua là sự phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Thành phần kinh tế hợp tác (TPKTHT): Kinh tế hợp tác là một xu
hướng tất yếu, một hình thức tổ chức kinh tế có vị trí vai trò rất quan trọng
trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội và trong cơ cấu các TPKT trong thời
kỳ qúa độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta.
Về bản chất, KTHT là sự liên kết kinh tế tự nguyện đa dạng, đa mức độ
của những người lao động, những người sản xuất để hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau
giải quyết có hiệu quả những vấn đề của sản xuất kinh tế và bảo vệ lợi ích kinh
tế của mỗi thành viên.
KTHT gồm các loại hình chủ yếu sau:
- KTHT giản đơn dựa trên cơ sở liên kết kinh tế giản đơn giữa những
người lao động, những người sản xuất nhỏ dưới hình thức tổ hợp tác, tổ liên
kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
- KTHT dựa trên cơ sở liên kết kinh tế giữa các chủ thể, các pháp nhân
kinh tế nhưng không làm phát sinh pháp nhân mới, đó là các hợp đồng, hợp
tác kinh doanh, các hội nghề nghiệp, các hiệp hội.
- KTHT dựa trên cơ sở liên kết kinh tế chặt chẽ giữa những người lao
động, những người sản xuất nhỏ dưới hình thức hợp tác xã, được gọi là kinh tế
hợp tác xã và chỉ có hình thức này mới có thể coi là một TPKT.
4. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân (TPKT-TBTN): Đây là TPKT dựa
trên hình thức sở hữu tư nhân Tư Bản Chủ Nghĩa về tư liệu sản xuất. Thành
phần này được thành lập do sự góp vốn của các nhà kinh doanh trong và ngoài
nước, với quy mô và trình độ tương đối lớn. Hình thành nên các Doanh nghiệp

tư nhân, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty hợp danh.
5. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là TPKT dựa trên hình thức sở
hũu cá thể về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, tồn tại ở phạm vi
tương đối lớn, bao hàm nhiều trình độ phát triển sản xuất khác nhau được
phát triển trong các ngành nghề cả ở thành thị và nông thôn không hạn chế
kinh doanh.
Về thực chất, các TPKT là chủ thể của quá trình kinh tế mà tư cách pháp
lý của họ được quy định bởi quyền sở hữu tư liệu sản xuất. Là người chủ tư
liệu sản xuất, họ có quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng tư liệu sản xuất. Do
đó có quyền quyết định tham gia hay không tham gia hoặc quyết định phạm vi
mức độ của những hành vi kinh tế của họ trong nền kinh tế quốc dân. Xuất
phát từ những tiêu thức đó các TPKT nước ta có thể chia thành.
-Khu vực KT-QD. Thuộc sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất.
-Khu vực KT-NQD. Là tất cả các loại hình mà quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất trong đó hoàn toàn không có sở hữu nhà nước. Theo khái niệm này
thì KT-NQD gồm: Kinh tế tư nhân, tổ hợp, hợp tác xã, các công ty, các xí nghiệp
liên doanh và cổ phần không có vốn nhà nước.
Sau một thời gian khôi phục và phát triển, đến nay KT-NQD đã đạt được
những thành tựu quan trọng, ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình
trong nền kinh tế. Nó góp phần cân đối nền kinh tế, tạo nên sự sống động mới
trong sản xuất kinh doanh, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), tạo khả năng huy động phát triển từ nhân dân, mở ra khả
năng to lớn trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động. Phát triển KT-NQD góp phần làm sống lại các ngành nghề truyền thống ở
nông thôn, tạo ra môi trường cạnh tranh sôi động trong nền kinh tế, tạo điều
kiện nâng cao trình độ lực lượng sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, tao ra
nhiều hàng hoá cho thị trường, thoả mãn tốt hơn nhu cầu của nhân dân.
Vì vậy nghiên cứu và tìm hiểu về KT-NQD sẽ giúp chúng ta nhân thức sâu
sắc hơn về TPKT này, phát hiện những mặt mạnh, những hạn chế nhược điểm.
Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp, chính sách cho phép phát huy tốt hơn nữa

những mặt mạnh, hạn chế khắc phục những hạn chế để KT-NQD thực sự trở
thành một khu vực phát triển lớn mạnh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Vai trò và định hướng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.1.2.1. Vai trò kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh là một lĩnh vực kinh tế rộng lớn và quan trọng
trong cơ thể thống nhất của nền kinh tế nước ta. Hiện nay, khu vực này đã có
mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, bao gồm
nhiều TPKT tồn tại với quy mô đa dạng tạo nên lực lượng sản xuất to lớn, đóng
góp quan trọng trong việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Nhờ đó hàng
hoá sản xuất ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng, chất lượng không ngừng
được nâng cao để thoả mãn nhu cầu xã hội, tạo ra khả năng lựa chọn nhiều
hơn cho người tiêu dùng. Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị
trường, KT-NQD là khu vực sản xuất kinh doanh năng động, nhạy bén có khả
năng thích nghi và đáp ứng kịp thời mọi biến động của thị trường, nó cho phép
huy động tối đa nguồn vốn trong dân cư để phát triển đất nước. Với tính tự
chủ và khả năng thích nghi cao KT-NQD đóng một vai trò không thể thiếu trong
nền kinh tế, thể hiện thông qua các mặt sau.
Thứ nhất: Thu hút và sử dụng hiệu quả các tiềm năng trong dân
cư để phát triển kinh tế đất nước, giải quyết nạn thất nghiệp, tạo sự
phát triển cân đối kinh tế.
Đổi mới kinh tế và dân chủ hoá đời sống kinh tế theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã tạo cơ hội cho các TPKT-NQD phát triển tiềm
lực của mình hoà với tổng thể nền kinh tế. Các doanh nghiệp NQD thường
được thành lập với lượng vốn đầu tư ban đầu không lớn và chủ yếu là của dân.
Bản thân khu vực KT-NQD bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh khác
nhau phù hợp với nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Đặc tính này cho phép KT-
NQD tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, từ nông nghiệp đến
công nghiệp và dịch vụ. Sự tồn tại trên một phạm vi lớn trong nền kinh tế cho
phép KT-NQD thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong dân cư vào công
cuộc phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong tiến trình cải cách và sắp xếp

lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp giao bán, khoán, cho
thuê, chuyển đổi hình thức sở hữu...Làm phát sinh một số vấn đề như thất
nghiệp, sự bỏ ngỏ của một số ngành, khu vực kinh tế không có tầm quan trọng
sống còn hoăc do nhà nước không đủ sức nắm giữ. Điều này lại tạo cơ hội cho
KT-NQD mở rộng phạm vi hoạt động, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các
lĩnh vực kinh tế quan trọng, càng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế.
Thất nghiệp là vấn nạn mà mọi quốc gia phải đối mặt. Ở nước ta, giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động đang là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa
cơ bản mà Đảng và Nhà nước đang hết sức quan tâm giải quyết. Dân số trẻ, số
người trong độ tuổi lao động cao, chiếm hơn 57% dân số, tỷ lệ gia tăng dân số
cao. Số người hàng năm đến độ tuổi lao động như học sinh, sinh viên ra
trường, bộ đội hết nghĩa vụ...ngày càng tăng, là áp lực gánh nặng đối với hoạt
động quản lý xã hội. Chính các doanh nghiệp NQD với đặc tính của mình sẽ
điều tiết phân giải lực lượng lao động trong các khu vực còn nhiều “khoảng
trống”, góp phần giãn cách, điều hoà nhu cầu lao động.
Mặt khác, sự hoạt động đa dạng trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực của
nền kinh tế tạo nên sự đan xen cùng tồn tại thống nhất giữa KT-QD và KT-NQD,
góp phần làm cân đối cơ cấu kinh tế. Phát triển KT-NQD là một chủ trương
sáng suốt và đúng đắn của Đảng, phù hợp với đòi hỏi thực tế khách quan của
thời đại, khẳng định tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, phù hợp
với trình độ thực tế của lực lượng sản xuất ở nước ta - vốn kém phát triển lại
không đồng đều giữa các vùng miền, tỉnh thành tạo nên nhiều trình độ khác
nhau. Chỉ có phát triển KT-NQD mới cho phép sử dụng và phát huy mọi tiềm
năng của đất nước vào công cuộc phát triển kinh tế.
Thứ hai: Tạo ra quỹ hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu.
Phương hướng sản xuất kinh doanh tại mỗi thời điểm, giai đoạn của nền
kinh tế có những sự khác nhau. Trong thời kỳ 1986-1989 nước ta vẫn còn thiếu
đói, hàng tiêu dùng khan hiếm trầm trọng. Mục tiêu của nền sản xuất lúc này
là sản xuất đủ ăn, đủ tiêu dùng, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và tối thiểu
của người dân. Vượt qua thời kỳ đó, nền kinh tế lại đặt ra những mục tiêu mới,

phù hợp với tình hình thực tiễn như: Tăng năng lực sản xuất của xã hội, thay
thế từng phần hàng hoá nhập khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước,
tiến tới thay thế nhập khẩu bằng chính sách xuât khẩu.
Để thực hiện được sách lược này, trong quá khứ và hiện tại, KT-NQD
đóng một vai trò rất quan trọng, nó chứa đựng trong mình những đặc điểm
cho phép thực hiện tốt được vai trò đó. Có thể kể ra như quy mô gọn nhẹ, nhậy
bén, nhanh chóng chuyển đổi đối tượng sản xuất để hướng tới những mặt
hàng mà thị trường đang có nhu cầu, những lĩnh vực đang được nhà nước ưu
tiên ưu đãi, bảo hộ, có khả năng đem lại lợi nhuận cao. Sự phát triển KT-NQD
đã khơi gợi tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn
trong dân, tiếp thu chuyển giao công nghệ của nước ngoài để tạo ra nhiều sản
phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là sự sống
lại của các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống ở nông thôn đã làm ra
các sản phẩm có giá trị xuất khẩu, góp phần đổi mới kinh tế nông thôn, tăng
thu ngoại tệ cho đất nước.
Bảng về giá trị sản xuất
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999 2000 2001
Quy mô (%) Quy mô (%) Quy mô (%)
Tổng Số 335.441 100 375.800 100 434.365 100
KTNN 154.927 46,1
9
170.141 44,9 186.958 43,04
KT-NQD 180.514 53,8
1
205.659 55,1 247.407 56,96
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002)
Bảng trên cho thấy, giá trị sản xuất khu vực NQD liên tục gia tăng qua

các năm cả về quy mô và tỷ trọng. Sự gia tăng này không phải do KTNN ngày
càng giảm đi mà do giá trị sản xuất trong khu vực NQD tăng với tốc độ lớn hơn
tốc độ tăng trong KTNN. Kinh tế NQD đã đóng góp hơn 50% tổng giá trị sản
xuất, ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tỷ
trọng này cần phải tiếp tục nâng cao. So với Trung Quốc, một nước có hoàn
cảnh lịch sử và kinh tế tương đồng với nước ta, thì tỷ lệ giữa hai khu vực
KTNN và KT-NQD này là 3:7 mà không sợ chệch hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Vì
vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực
này bằng các chính sách cụ thể hơn, thiết thực hơn theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa.
Thứ ba: Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mang lại thu
nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống dân cư
Kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển đóng góp rất lớn vào
ngân sách nhà nước. Sự ra đời ngày càng nhiều và hoạt động có hiểu quả của
các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực này sẽ tạo thêm nguồn thu cho ngân
sách nhà nước thông qua hoạt động đóng thuế. Đóng thuế là quyền lợi và
nghĩa vụ của mọi người dân và các tổ chức kinh tế, thuế là nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước, chiếm tới 86%. Trên thực tế, KT-NQD đóng góp
khoảng 40 - 47% ngân sách nhà nước hàng năm. Sản xuất kinh doanh phát
triển là tiền đề tạo nguồn thu ngân sách nhà nước. Do vậy để tăng nguồn thu
ngân sách lành mạnh, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển
sản xuất, mở rộng kinh doanh trên tất cả các TPKT.
Bản thân KT-NQD phát triển không chỉ đem lại nguồn thu cho ngân sách
nhà nước mà còn đem lại nhiều lợi ích khác như tạo thêm công ăn việc làm
mang lại thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống của dân cư. Vì vậy,
KT-NQD đang là khu vực được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý và dành
những ưu tiên nhất định để hỗ trợ khuyến khích phát triển.
Thứ bốn: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình CNH-HĐH và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Trong nền kinh tế trường lợi ích và lợi nhuận là nhân tố quyết định

những vấn đề từ tổng thể đến cục bộ của một doanh nghiệp. Lớn thì ảnh
hưởng đến ngành nghề kinh doanh, phương hướng sản xuất, nhỏ thì ảnh
hưởng đến chiến lược sản phẩm...Các doanh nghiệp thuộc khu vực NQD cũng
hoạt động như bao doanh nghiệp khác, tức là lấy mục tiêu lợi nhuận và không
ngừng tăng cường lợi nhuận làm tôn chỉ và mục đích. Do đó, bằng việc ban
hành các văn bản chế độ, chính sách phát triển kinh tế nhà nước sẽ dẫn dắt và
định hướng sự phát triển KT-NQD. Sự phát triển của KT-NQD sẽ tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Hiện nay
trong cơ cấu kinh tế nước ta, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng khá cao, tới
hai con số (chiếm 23,3%) trong khi ở các nước phát triển tỷ trọng này dưới
10%, nó phản ánh một cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, một nước còn nặng nông
ngiệp. Vì vậy phương hướng phát triển trong tương lai là tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ, làm cho chúng chiếm chủ yếu trong nền kinh tế,
đặc biệt là các ngành sản xuất, chế tạo máy, xây dựng...làm tiền đề cho một nền
sản xuất lớn ra đời. Tuy nhiên không thể một sớm một chiều đã có thể tạo ra
một cơ cấu kinh tế hợp lý ngay được mà phải có thời gian. Giai đoạn đầu nên
tập trung vào những ngành gia công, chế biến công nghiệp những sản phẩm
nông nghiệp nhằm làm tăng chất lượng sản phẩm, hàm lượng giá trị, tăng
tính thương mại của sản phẩm.
Đồng thời quá trình phát triển các doanh nghiệp NQD cũng là quá trình
cải tiến máy móc thiết bị kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng
sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi
mới công nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH không chỉ diễn ra trên chiều rộng
mà cả chiều sâu.
Thứ năm: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tạo môi trường
cạnh tranh thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các TPKT không tồn tại
biệt lập, phát triển trong những khu vực riêng mà chúng đan xen tồn tại và
thống nhất. KT-NQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, tồn tại trên một phạm vi
rộng lớn cả về mặt địa lý cũng như ngành nghề kinh tế. Tất cả những điều này

làm cho KT-NQD và KT-QD sản xuất kinh doanh những sản phẩm có những đặc
tính tương tự nhau. Kết quả chúng phải cạnh tranh với nhau trong quá trình
sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm.
Cạnh tranh là điểm khởi đầu của sự phát triển, nó phá bỏ thế độc quyền
đang tác động như những nhân tố làm trì trệ và cản trở nền kinh tế phát triển.

×