THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM.
2.1/GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM.
2.1.1/Lịch sử hình thành phát triển và cơ cấu tổ chức.
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN
Trước năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là hệ thống ngân
hàng một cấp, ngân hàng vừa là ngân hàng Nhà nước lại vừa là ngân hàng
thương mại. Nhận thấy sự không hiệu quả trong hoạt động của mô hình này,
Nhà nước ta đã ban hành hai pháp lệnh ngân hàng năm 1990 chuyển từ hệ
thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Và ngay sau đó,
ngân hàng Công thương Việt Nam đã được thành lập ngày 14/11/1990
( chuyển thành từ Ngân hàng chuyên doanh Công thương Việt Nam). Ngày
8/2/1991, 69 chi nhánh ngân hàng Công thương được thành lập và ngày
27/3/1993, 77 chi nhánh ngân hàng Công thương trên cả nước được thành
lập và thành lập lại trong đó có ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là đơn vị thành viên của ngân
hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở tại 37 Hàng Bồ – Hà Nội. Sau một loạt
những khó khăn trong hoạt động, năm 1997 ngân hàng đã được đổi mới về cơ
cấu tổ chức, trong sạch hoá các hoạt động, đem lại cho ngân hàng một sinh khí
mới và một tương lai phát triển.
B. CƠ CẤU TỔ CHỨC.
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm ngoài ban giám đốc còn có 9 phòng
ban với tổng số 215 cán bộ.
• Phòng kinh doanh: thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
• Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện các nghiệp vụ thanh toán
quốc tế, thu đổi ngoại tệ, mua bán ngoại tệ.
• Phòng giao dịch Đồng Xuân: thực hiện gần như đầy đủ các nghiệp
vụ của ngân hàng nhưng chủ yếu với đối tượng khách hàng là các tư thương ở
khu vực chợ Đồng Xuân.
• Phòng nguồn vốn: thực hiện chức năng huy động vốn. Phòng
nguồn vốn bao gồm cả 10 quỹ tiết kiệm có chức năng huy động nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư.
• Phòng kế toán: thực hiện các nghiệp vụ kế toán ngân hàng.
• Phòng kiểm soát: kiểm soát toàn bộ các hoạt động trong ngân
hàng, đảm bảo hoạt động ngân hàng vừa nhanh chóng, kịp thời nhưng phải
hoàn toàn chính xác.
• Phòng kho quỹ: thực hiện các nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, thu chi
tiền mặt, chuyển tiền...
• Phòng vi tính: quản lý toàn bộ mảng tin học của hệ thống ngân
hàng.
• Phòng tổ chức hành chính: bao gồm hai mảng hoạt động:
Hoạt động tổ chức: quản lý cán bộ trong ngân hàng, thực hiện các
công tác tuyển dụng, đào tạo, điều chuyển cán bộ...
Hoạt động hành chính: chịu trách nhiệm về các hoạt động mua sắm,
xây dựng, phục vụ...
2.1.2/Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
trong những năm gần đây.
A. NĂM 1999
• Về hoạt động kinh doanh tín dụng:
Đến 31/12/1999, dư nợ vẫn giữ mức 502.26 triệu đồng, khách hàng vay
là các tổng công ty 90,91; các đơn vị thành vị thành viên; các doanh nghiệp
thuộc các bộ và thành phố Hà Nội, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa
phương. Các khách hàng là doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài
còn ít.
Trong cơ cấu tín dụng, dư nợ ngắn hạn chiếm 70,15%, trung dài hạn
29,85%, nội tệ chiếm 76% và ngoại tệ 24%. Chi nhánh còn cho vay từ các
nguồn vốn Đài Loan, quỹ SMEDF, tăng cường nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng...
• Về công tác nguồn vốn.
Mặc dù lãi suất huy động gửi tiền của Ngân hàng Công thương thấp hơn
các ngân hàng quốc doanh thương mại khác trên cùng địa bàn nhưng số tiền
gửi dân cư vẫn được duy trì và tăng trưởng. Đến 31/12/1999, số dư là:
358.717 triệu đồng, tăng so với 31/12/1998 là 150 tỉ đồng, đạt 145%.
Song song với việc huy động vốn trong dân cư, Chi nhánh đã chú trọng
đến việc thu hút nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, đưa tổng nguồn vốn lên
1.524.967 triệu đồng.
• Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Trong năm 1999, Chi nhánh tiếp tục phát triển ổn định, giữ vị trí quan
trọng trong chiến lược khách hàng và đóng góp đáng kể vào thu nhập của Chi
nhánh. Với nhiều biện pháp khơi tăng nguồn ngoại tệ một cách hiệu quả,
doanh số mua bán ngoại tệ trong năm đạt 117 triệu USD, đã thoả mãn nhu cầu
của khách hàng và chuyển một phần đáng kể lên ngân hàng Công thương Việt
Nam. Đồng thời nghiệp vụ thanh toán quốc tế thường xuyên được chú trọng và
cố gắng vượt bậc, kết quả đã mở và thanh toán 450 L/C, thanh toán nhờ thu 8
món, thanh toán TTR 176 món. Các nghiệp vụ khác như chi trả kiều hối, thanh
toán thẻ tín dụng quốc tế cũng được quan tâm và thu được kết quả khích lệ:
thu kiều hối 315 món trị giá 423.657 USD, chi kiều hối là 314 món trị giá
422.446 USD, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế là 70 món với số tiền là 10.000
USD. Đặc biệt năm 1999, Chi nhánh đã bắt đầu thực hiện dịch vụ L/C xuất như
sau: thông báo 4 L/C trị giá 299.276 USD, thanh toán 5 L/C trị giá 392.164
USD. Mặc dù nghiệp vụ thanh toán L/C xuất chưa nhiều nhưng là sự khởi đầu,
là cuộc tập dượt cho sự phát triển sau này.
• Về công tác thu nợ:
Từ cuối năm 1998, ban thu nợ được tách riêng với nhiệm vụ chủ yếu là
theo dõi, đôn đốc khách hàng có nợ quá hạn và nghiên cứu đề ra các biện pháp
nhằm khai thác xử lí tài sản thế chấp để thu hồi nợ quá hạn. Với sự cố gắng
này, năm 1999 tổng nợ quá hạn thu được gần 8,5 tỉ đồng nợ gốc và 650 triệu
đồng tiền lãi.
• Về lợi nhuận.
Với sự cố gắng vượt bậc, năm 1999, NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được hơn
21 tỷ đồng lợi nhuận hạch toán, vượt 22% kế hoạch NHCT Việt Nam giao, vượt
gần 2 lần so với năm 1998.
B. NĂM 2000.
• Về hoạt động kinh doanh tín dụng.
Trong năm 2000, mục tiêu cơ bản được đặt ra là nâng cao chất lượng
tín dụng, hoạt động tín dụng chủ yếu đi vào chiều sâu. Chính vì vậy Chi nhánh
đã liên tục rà soát, đánh giá chất lượng tín dụng, sàng lọc và nâng cao chất
lượng dư nợ đối với những khách hàng truyền thống, đồng thời không ngừng
nghiên cứu, tìm kiếm và tiếp thị các khách hàng mới là các tổng công ty 90, 91
và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có uy tín và khả năng tài chính
lành mạnh, tiếp cận các dự án có tính khả thi cao, đặt nền móng cho việc mở
rộng công tác tín dụng một cách vững chắc, an toàn và hiệu quả. Các doanh
nghiệp dân doanh cũng được chú ý nhiều hơn.
Nhờ vậy, doanh số cho vay năm 2000 đạt 1.690.106 triệu đồng, tăng
18% so với năm 1999. Doanh số thu nợ đạt 1.695.019 triệu tăng 13% so với
năm 1999. Dư nợ cho vay bình quân đạt 547.351 triệu đồng, trong đó dư nợ
cho vay nội tệ chiếm 82%, dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm 18%; dư nợ ngắn hạn
chiếm 72,22%, dư nợ trung dài hạn chiếm 27,78% tổng dư nợ. Năm 2000 chi
nhánh không để phát sinh nợ quá hạn khó đòi mới, đồng thời thu được gần 16
tỷ đồng nợ gốc và 100 triệu đồng lãi nợ quá hạn khó đòi phát sinh những năm
trước. Các khoản vay đều thu kịp thời đầy đủ cả gốc và lãi. Sở dĩ dư nợ năm
2000 không tăng so với năm 1999 vì chi nhánh đã xác định quy mô dư nợ phải
phù hợp với trình độ, khả năng và kinh nghiệm quản lý của cán bộ, lấy an toàn,
hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu.
• Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Năm 2000 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh
doanh đối ngoại của chi nhánh. Thật vậy, với tinh thần cố gắng làm việc phấn
đấu vươn lên, với nghiệp vụ vững vàng và phong cách giao dịch được hoàn
thiện một cách rõ nét của từng cán bộ kinh doanh đối ngoại, sự phối kết hợp
nhuần nhuyễn giữa các phòng ban, nên dù gặp khó khăn do sự khan hiếm
ngoại tệ nhưng chi nhánh đã trở thành một trong những chi nhánh hàng đầu
về lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng Công thương Việt Nam.
Trước hết là việc thanh toán đòi tiền bộ chứng từ hàng xuất khẩu, đối
với chi nhánh đây là một nghiệp vụ mới mẻ, chi nhánh chưa có kinh nghiệm,
nhưng với sự cố gắng của những cán bộ kinh doanh đối ngoại, năm 2000 chi
nhánh đã đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20%
tổng doanh số thanh toán hàng xuất của hệ thống ngân hàng Công thương
Việt Nam và đã đưa chi nhánh đứng vị trí 1 trong 3 đơn vị hàng đầu trong
toàn hệ thống. Đồng thời chi nhánh đã mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu
USD, đáp ứng được yêu cầu nhập khẩu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ
thu, TTR chi nhánh cũng đã làm rất tốt, cụ thể doanh số nhờ thu đạt 12 triệu
741 ngàn USD; doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh toán hàng
nhập khẩu lên 104 triệu USD.
Năm 2000 là một năm đầy khó khăn đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại
tệ. Thế nhưng chi nhánh đã có được doanh số mua bán ngoại tệ với 95 triệu
USD, thu phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 tỷ đồng.
• Về công tác huy động vốn.
Số dư tiền mặt của dân cư năm 2000 đạt 510.686 triệu đồng, tăng 12%
so với năm 1999, đưa tổng nguồn vốn của chi nhánh năm 2000 lên đến hơn
2.082.533 triệu đồng, tăng 14% so với năm 1999.
• Về lợi nhuận.
Năm 2000, ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có được 21.730 triệu
đồng lợi nhuận, vượt 10% so với kế hoạch được giao. Lợi nhuận năm 2000 của
chi nhánh lẽ ra đạt trên 25 tỷ đồng, nhưng do cuối năm 2000 chi nhánh phải
thực hiện trích quỹ dự phòng rủi ro và quỹ lương điều hoà bổ sung theo cơ chế
tiền lương mới làm đột biến tăng chi phí là 3 tỷ.
C. NĂM 2001
Năm 2001, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục ổn định và phát triển. Với tốc
độ tăng trưởng GDP 6,8%, sự ổn định về chính trị và những thành công trong
đối ngoại, nước ta đã trở thành môi trường tin cậy cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước đã có những
thay đổi lớn theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là lãi suất và tỉ giá đã tạo môi
trường thuận lợi, khiến hoạt động ngân hàng ngày càng sôi động và hiệu quả
hơn.
Tuy nhiên hệ thống ngân hàng nói chung vẫn còn phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Hoạt động
của nền kinh tế còn kém hiệu quả và một số yếu tố khách quan không thuận lợi
cho hoạt động ngân hàng, đó là sản phẩm cạnh tranh thấp, giá cả các mặt
hàng xuất khẩu chiến lược như nông sản, dầu thô, cà phê... liên tục giảm.
Lãi suất ngoại tệ trên thị trường tiền tệ giảm mạnh từ 6,5% xuống còn
1,75%/năm, lãi suất cho vay liên tục giảm, trong khi chi phí cho các hoạt động
huy động có kỳ hạn chưa kịp giảm theo. Cộng với sự cạnh tranh gay gắt của
trên 70 ngân hàng lớn nhỏ làm cho hoạt động của chi nhánh càng gặp khó
khăn. Tuy vậy ngân hàng vẫn đã đạt được một số kết quả sau:
• Về công tác huy động vốn.
Năm 2001, chi nhánh đã đạt tổng nguồn vốn huy động là 3.502.015 triệu
đồng, tăng 1.419.482 triệu đồng, vượt 68,16% so với năm 2000. Với tổng
nguồn vốn lớn và ổn định, Chi nhánh có đủ khả năng để đáp ứng mọi nhu cầu
về vốn đối với khách hàng, đồng thời chuyển vốn về ngân hàng Công thương
Việt Nam, góp phần điều hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn.
• Về công tác cho vay vốn.
Dư nợ đạt 620.111 triệu đồng, tăng 13,3% so với năm 2000. Trong năm
2001 không phát sinh nợ quá hạn. Vốn tín dụng được đầu tư an toàn, hiệu quả
cho các ngành kinh tế trọng yếu như: than, điện, chế biến nông sản xuất khẩu...
So sánh tỉ lệ tăng trưởng dư nợ của chi nhánh (13,3%) với tốc độ tăng
trưởng GDP của nền kinh tế (6,8%), chúng ta thấy đây là một tỉ lệ hợp lý.
Trong 620.111 triệu dư nợ thì dư nợ ngắn hạn chiếm 66,06%, dư nợ trung dài
hạn chiếm 33,94%; dư nợ ngoài quốc doanh chiếm 31%, tập trung chủ yếu vào
các công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài, có mặt hàng, sản phẩm được
sản xuất với công nghệ cao, có khả năng xuất khẩu và có tình hình tài chính
lành mạnh. Phần còn lại là cho vay cán bộ công nhân viên, doanh nghiệp dân
doanh và hộ gia đình có nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng thự sự đảm bảo khả
năng trả nợ ngân hàng, công việc này trong năm có sự khởi sắc cả ở phòng
Giao dịch Đồng Xuân và phòng Kinh doanh.
Doanh số cho vay đạt 1.916.500 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là
13,4%, trong đó doanh nghiệp cho vay xuất khẩu đạt 1.291 tỷ đồng.
Doanh số thu nợ đạt 1.823.740 triệu đồng, tăng 7,6% so với đầu năm,
tốc độ tăng của doanh số thu nợ nhỏ hơn so với tốc độ tăng của doanh số cho
vay, nguyên nhân do năm 2001 chi nhánh có sự dịch chuyển cơ cấu cho vay,
phát triển cho vay trung dài hạn nhiều hơn so với những năm trước. Cho nên,
dư nợ trung dài hạn tăng lên đáng kể (từ 27,78% năm 2000 đến 33,94% năm
2001).
• Về hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại.
Năm 2001, trong bối cảnh giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu liên
tục giảm nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng lên nhưng lượng ngoại tệ
vào ngân hàng vẫn giảm đáng kể. Tuy nhiên doanh số kinh doanh ngoại tệ của
Chi nhánh vẫn đạt 190 triệu USD ( trong đó doanh số mua 96 triệu USD, doanh
số bán 94 triệu USD), tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh số thanh toán
xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD tăng 4% so với năm 2000, trong đó doanh
số xuất khẩu đạt 55 triệu USD.
Với một thời gian hoạt động kinh doanh đối ngoại chưa bằng 1/2 thời
gian của các chi nhánh khác, nhưng Chi nhánh vẫn đạt ở vị trí hàng đầu và là 1
trong 6 đơn vị xuất sắc trong kinh doanh đối ngoại của hệ thống ngân hàng
Công thương Việt Nam.
Tổng thu phí dịch vụ từ kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế đạt
3,5 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2000, trong đó thu từ kinh doanh ngoại tệ là
1,1 tỷ đồng.
• Về lợi nhuận.
Trong năm chi nhánh đã đạt tổng thu dịch vụ là 4,1 tỷ đồng, tăng 34% so
với năm 2000, chiếm 23,5% lợi nhuận hạch toán.
Do thực hiện phương pháp hạch toán dự thu dự trả nên trong năm, Chi
nhánh phải hạch toán các khoản gối chi của năm 2000, dẫn đến chi trả lãi đột
biến, cùng với việc hạch toán, phân bổ quỹ dự phòng rủi ro đã ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận hạch toán năm 2001 vẫn đạt 17.521
triệu đồng, vượt 16% so với kế hoạch ngân hàng Công thương Việt Nam giao.
2.2/THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN
KIẾM.
2.2.1/Các hoạt động cơ bản:
Trong những năm vừa qua,tình hình kinh tế trong nước và khu vực
gặp nhiều khó khăn,ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngành ngân hàng
nói chung và chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nói riêng.Nhận
thức rõ vấn đề này,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã tập trung vào cải
thiện chất lượng hoạt động nghiệp vụ,nâng cao chất lượng phục vụ,đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng.Nguồn vốn hoạt động ngày càng tăng,quy mô
hoạt động tín dụng không ngừng được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng giao dịch đem lại lợi nhuận cao cho hoạt động Ngân hàng,góp
phần xứng đáng hoàn thành nhiệm vụ chung của toàn hệ thống Ngân
hàng,đồng thời khẳng định vị thế của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
trên địa bàn.
2.2.1.1/Hoạt động kinh doanh tín dụng.
Trong chiến lược phát triển chung ở giai đoạn hiện nay,kinh doanh tín
dụng giữ vai trò chủ đạo,là cơ sở để tiến hành và thực hiện tất cả các hoạt
động khác của ngân hàng.Tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm,xác định
kinh doanh không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ tín dụng mà tất cả các bộ phận
phòng ban kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo thành guồng máy hoạt động
nhịp nhàng,ăn khớp thống nhất một mục tiêu chung là phục vụ khách
hàng.Cùng với việc tăng trưởng dư nợ với khách hàng truyền thống,chi nhánh
đã đẩy mạnh công tác tiếp thị,tìm đến với những khách hàng mới,dự án khả
thi,đáp ứng yêu cầu và đặc thù của mọi đối tượng khách hàng.Với những
phương thức cho vay mới,chi nhánh đã cố gắng giảm bớt những thủ tục rườm
rà,giảm thiểu thời gian duyệt và số lần ký hợp đồng tín dụng,cải thiện mối
quan hệ Ngân hàng-Khách hàng.Trên cơ sở tính toán lãi suất đầu vào,chi
nhánh đã áp dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi phù hợp nhất cho khách
hàng,giúp cho khách hàng tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.Đồng thời cho vay tập trung vào ngành kinh tế mũi nhọn,mở rộng toàn
diện hoạt động đúng hướng,góp phần củng cố,phát triển kinh tế hàng hoá ở
địa phương,phù hợp với cơ chế thị trường,cải tiến kỹ thuật và đổi mới công
nghệ.Mở rộng sản xuất,tạo những sản phẩm mới cho xã hội,tăng thu nhập,tích
lũy cho doanh nghiệp.
Đến 31/12/2001,số lượng doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tại Chi
nhánh tương đối lớn,đó là các Tổng công ty 90,91,các đơn vị thành viên,các
doanh nghiệp thuộc các bộ,các địa phương,các doanh nghiệp liên doanh,doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả.Các chi nhánh này được Chi nhánh tiếp vốn đã
và đang hoạt động tốt,ngày càng tin tưởng vào khả năng và tinh thần phục vụ
của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.Mức đầu tư của Chi nhánh cho các
doanh nghiệp qua các thời kỳ như sau:
Khi xét đến hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng cần phải nhìn nhận
trên công tác tín dụng.Tuy nhiên,để đảm bảo nguồn vốn cung cấp cho hoạt
động tín dụng,các Ngân hàng phải thu hút được một nguồn vốn lớn với lãi suất
thấp.Việc khai thác các nguồn vốn tiềm năng trong xã hội là mục tiêu hàng đầu
được đặt ra.Sự sống còn của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng.ý
thức được điều đó,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm rất coi trọng chiến
lược khách hàng,xem đây là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của mình.Chiến lược huy động vốn là hoạt động mở đầu trong kinh doanh tiền
tệ,nó mang tính thường xuyên và liên tục.Khi vốn huy động được có cơ cấu hợp
lý,chi phí đầu vào thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân
hàng.Tình hình huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm được thể hiện qua bảng
sau:
Bảng I: Đơn vị : Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999 2000 2001
Tỷ
trọng
Tỷ trọng Tỷ trọng
Nguồn vốn huy động:
Trong đó:+Tiền gửi
dân cư
+Tiền gửi
TCKT
+ Đivay
1.524.967
358.717
166.250
1.000.000
23,52%
10,91%
65,57%
2.082.533
510.686
291.847
1.280.000
24,52%
14,01%
61,47%
3.502.015
620.345
381.610
2.500.060
17,71%
10,89%
71,4%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 1999,2000,2001)
Qua số liệu trên có thể khẳng định tình hình huy động vốn là mặt mạnh
của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm so với các Ngân hàng khác trong địa
bàn.Nguồn vốn huy động liên tục tăng qua các năm và đặc biệt là sự tăng ở
tiền gửi các tổ chức kinh tế.Đây là nét đột phá mới trong chiến lược kinh
doanh của Ngân hàng nhằm duy trì được nguồn vốn tăng trưởng ổn định,đảm
bảo cho việc mở rộng tín dụng,đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp,đồng
thời đem lại lợi nhuận cao cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.2.1.2/Kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Năm 2000 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh
doanh đối ngoại của chi nhánh. Thật vậy, với tinh thần cố gắng làm việc phấn
đấu vươn lên, với nghiệp vụ vững vàng và phong cách giao dịch được hoàn
thiện một cách rõ nét của từng cán bộ kinh doanh đối ngoại, sự phối kết hợp
nhuần nhuyễn giữa các phòng ban, nên dù gặp khó khăn do sự khan hiếm
ngoại tệ nhưng chi nhánh đã trở thành một trong những chi nhánh hàng đầu
về lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng Công thương Việt Nam.
Trước hết là việc thanh toán đòi tiền bộ chứng từ hàng xuất khẩu, đối
với chi nhánh đây là một nghiệp vụ mới mẻ, chi nhánh chưa có kinh nghiệm,
nhưng với sự cố gắng của những cán bộ kinh doanh đối ngoại, năm 2000 chi
nhánh đã đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20%
tổng doanh số thanh toán hàng xuất của hệ thống ngân hàng Công thương
Việt Nam và đã đưa chi nhánh đứng vị trí 1 trong 3 đơn vị hàng đầu trong
toàn hệ thống. Đồng thời chi nhánh đã mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu
USD, đáp ứng được yêu cầu nhập khẩu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ
thu, TTR chi nhánh cũng đã làm rất tốt, cụ thể doanh số nhờ thu đạt 12 triệu
741 ngàn USD; doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh toán hàng
nhập khẩu lên 104 triệu USD.
Năm 2000 là một năm đầy khó khăn đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại
tệ. Thế nhưng chi nhánh đã có được doanh số mua bán ngoại tệ với 95 triệu
USD, thu phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 tỷ đồng.
Sang năm 2001, trong bối cảnh giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
liên tục giảm nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng lên nhưng lượng
ngoại tệ vào ngân hàng vẫn giảm đáng kể. Tuy nhiên doanh số kinh doanh
ngoại tệ của Chi nhánh vẫn đạt 190 triệu USD ( trong đó doanh số mua 96
triệu USD, doanh số bán 94 triệu USD), tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh
số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD tăng 4% so với năm 2000,
trong đó doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD.
Với một thời gian hoạt động kinh doanh đối ngoại chưa bằng 1/2 thời
gian của các chi nhánh khác, nhưng Chi nhánh vẫn đạt ở vị trí hàng đầu và là 1
trong 6 đơn vị xuất sắc trong kinh doanh đối ngoại của hệ thống ngân hàng
Công thương Việt Nam.