Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG PHÚC YÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.59 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG PHÚC YÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2002
1. Giới thiệu khái quát hoạt động của NHCT Phúc
Yên:
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHCT Phúc
Yên:
Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Phúc Yên được thành lập từ năm
1994. Ngân hàng Công thương Phúc Yên là chi nhánh ngân hàng cấp huyện
nhưng lại được thành lập trước ngân hàng cấp tỉnh do trước 1997, Chi nhánh
trực thuộc Ngân hàng Công thương Phú Thọ, sau khi tách tỉnh năm 1997, chi
nhánh được chuyển xuống trực thuộc và chịu trách nhiệm trước Ngân hàng
công thương Vĩnh Phúc (được thành lập từ năm 1997).
Mê Linh là địa bàn hoạt động chính của Ngân hàng Công thương Phúc
Yên, một huyện phía nam của tỉnh Vĩnh Phúc, là cửa ngõ phía bắc của thủ đô,
tiếp giáp với sân bay quốc tế Nội Bài, có trục đường cao tốc nối trực tiếp Hà
Nội với Mê Linh, giao thông cả thuỷ và bộ đều rất thuận lợi, có tiềm năng du
lịch và tài nguyên phong phú. Với dân số khoảng 25 vạn người, đây là một địa
bàn có khối lượng vốn nhàn rỗi tương đối dồi dào, nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh, dịch vụ cả nội tệ và ngoại tệ cao, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng
cũng khá phong phú.
Đến nay, địa bàn Mê Linh đã có 14 doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động,
có 9 doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, có tới hơn 200 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và hơn 5000 hộ tư nhân cá thể có đăng ký sản xuất kinh
doanh dịch vụ và hàng ngàn hộ kinh doanh dịch vụ không đăng ký kinh doanh
tại các thị trấn thị tứ, khu dân cư tập chung tại các xã trong huyện. Đặc biệt có
hai khu công nghiệp lớn là Quang Minh và Việt Phong có tổng cộng 24 dự án,
trong đó đã có 5 dự án được triển khai, sự phát triển của hai khu công nghiệp
này sẽ kéo theo hàng loạt sự đổi mới và phát triển kinh tế và xã hội cho các
khu lân cận.
Địa bàn Mê Linh - Vĩnh Phúc được xác định: có tiềm năng, thế mạnh và
điều kiện cho sự phát triển kinh tế Vĩnh Phúc, do đó nhu cầu về đầu tư vốn để


tăng trưởng kinh tế là rất lớn tạo thời cơ để Ngân hàng Công thương Phúc Yên
mở rộng hoạt động kinh doanh đáp ứng vốn cho sự phát triển kinh tế.
Sự chuyển động về kinh tế xã hội ở Mê Linh vẫn liên tục và ngày càng
mạnh mẽ. Mê Linh được xác định là một trung tâm kinh tế văn hoá, là vùng
kinh tế mở của tỉnh. Do vậy mà hoạt động Ngân hàng không chỉ có chi nhánh
của Ngân hàng Công thương mà còn có chi nhánh của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển, chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
cùng với hoạt động của một số tổ chức tín dụng khác.
1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức:
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Phúc Yên là chi nhánh phụ thuộc
Ngân hàng Công thương tỉnh Vĩnh Phúc có 48 cán bộ. Chi nhánh có 4 phòng, 3
tổ nghiệp vụ trực thuộc các phòng và hội sở (Phòng kinh doanh, phòng kế toán,
phòng ngân quĩ, phòng tổ chức hành chính, tổ kiểm tra thuộc hội sở, tổ nguồn
vốn, tổ kinh doanh ngoại tệ) và có một phòng giao dịch tại thị trấn Xuân Hoà.
Các phòng ban hoạt động theo chức năng riêng đã được phân công theo sự chỉ
đạo điều hành của ban giám đốc:
- Phòng tổ chức hành chính: Thực hiện các công tác về quản lý điều động
nhân sự, đảm bảo cơ sở vật chất cho mọi hoạt động của toàn cơ quan.
GIÁM ĐỐC
Phòng
h nhà
chính
Phòng
ngân
quĩ
Phòng
kinh
doanh
Phòng
GD

Xuân
Hoà
Phòng
kế
toán
Tổ
điện
toán
Quĩ
tiết
kiệm
Tổ
nguồn
vốn
Tổ
kiểm
tra
Quĩ
tiết
kiệm
P.GIÁM ĐỐC
P.GIÁM ĐỐC
- Phòng kinh doanh: Thực hiện các nghiệp vụ cho vay đối với khách hàng
là tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Phòng ngân quỹ: Thực hiện quản lý tồn quỹ, thực hiện thu chi theo lệnh
về tiền mặt VNĐ và ngoại tệ , bảo quản và phân phối chứng từ có giá .
- Phòng kế toán: Thực hiện các chức năng chính là làm các dịch vụ thanh
toán như dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ trả lương cho các công ty liên doanh,
hạch toán kế toán các nghiệp vụ cho vay, ...
- Tổ kinh doanh đối ngoại: Tổ này trực thuộc phòng kế toán thực hiện

hạch toán các nghiệp vụ ngoại tệ, làm đầu mối thanh toán séc du lịch, thẻ tín
dụng quốc tế.
- Tổ kiểm soát: Thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm vụ trọng tâm của tổ.
Ngoài ra còn giao dịch với các cơ quan ngoại ngành như toà án, viện kiểm sát
trong các vụ án có liên quan, các thao tác nghiệp vụ nhằm ngăn chặn các rủi ro
xảy ra từ chính các cán bộ tín dụng.
- Tổ nguồn vốn: Tổ nguồn vốn trực thuộc phòng kinh doanh, thực hiện
nhiệm vụ khai thác khách hàng, quản lý các quỹ tiết kiệm trực thuộc,...
- Phòng giao dịch Xuân Hoà: Như một tiểu ban của NHCT Phúc Yên,
phòng giao dịch Xuân Hoà cũng có đầy đủ các phòng cơ bản như: kế toán, kinh
doanh, tiết kiệm, ngân quỹ, kinh doanh ngoại tệ.
Các phòng ban của NHCT Phúc Yên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng phối hợp với nhau để thực hiện tốt các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu
tổ chức của các phòng ban ngày càng được cải tiến để phục vụ tốt hơn cho
nhiệm vụ của một ngân hàng đa năng, hiện đại và ngày càng có nhiều sản
phẩm mới, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ngày càng cao trong cơ chế
thị trường.
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Phúc Yên
(2000-2002)
Chi nhánh NHCT Phúc Yên thành lập tháng 9 năm 1994 nên mọi hoạt
động cũng đã có lợi thế riêng tuy nhiên cho đến nay thì vẫn còn gặp nhiều khó
khăn khi phải cạnh tranh với các ngân hàng cùng địa bàn mà chủ yếu là cạnh
tranh về lãi suất và phí cho vay. Trong khi lãi suất cho vay trên thị trường liên
tục giảm mà chi phí cho các khoản huy động có kỳ chưa kịp giảm. Để vượt lên
những khó khăn đó, chi nhánh bám sát sự chỉ đạo của NHCT Việt Nam, NHCT
Vĩnh Phúc, cấp uỷ chính quyền địa phương, sự hợp tác giúp đỡ của các bạn
hàng, nỗ lực phấn đấu vươn lên phát triển kinh doanh, mạnh dạn đầu tư các
dự án trung dài hạn đạt kết quả cao đáng khích lệ.
2.1. Tình hình huy động vốn.
NHCT Phúc Yên mới được thành lập 9 năm nhưng nó đã không ngừng

nâng cao các hình thức huy động tiền gửi của mình như huy động từ dân cư,
tiền gửi của các tổ chức doanh nghiệp, huy động thông qua phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu.
Trong vài năm gần đây, công tác nguồn vốn gặp không ít khó khăn do lãi
suất của các Ngân hàng trên địa bàn huy động hấp dẫn, có nhiều chính sách
khuyến khích khách hàng gửi tiền. Song do làm tốt công tác tiếp thị phục vụ
khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán bộ cũng được nâng lên cùng
với cơ sở khang trang sạch đẹp, thuận tiện đã thu hút được khách hàng đến
gửi tiền. Đặc biệt nguồn tiền gửi dân cư tăng khá cao và luôn giữ ở mức ổn
định, điều đó thể hiện uy tín của NHCT Phúc Yên trên địa bàn.
Sự nỗ lực đó của ngân hàng đã mang lại kết quả đáng khích lệ trong
những năm qua, đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2002, cụ thể:
Biểu 1: Tình hình huy động vốn của NHCT Phúc Yên (2000 -
2002) Đơn vị: Triệu
đồng
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Số tiền Số tiền %Số tiền %
Tổng n.vốn huy động 115.738 100 147.941 100 193.795 100
1.Tiền gửi tcktế 40.868 35% 60.607 41% 78.326 40%
VNĐ 35.001 85% 50.200 83% 61.170 78%
Ngoại tệ quy đổi VNĐ 5.867 15% 10.407 17% 17.156 22%
2.Tiền gửi tiết kiệm 72.215 62% 83133 56% 106.456
59,8
VNĐ 22.205 31% 29.212 35% 44.983 42%
Ngoại tệ quy đổi VN 50.010 69% 53.621 65% 61.473 58%
3. Tiền gửi kỳ phiếu 2.655 3% 4.101 3% 9.013 0.2
Nguồn: Báo cáo tổng hợp NHCT Phúc yên (2000 - 2002)
Tổng nguồn vốn huy động (bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ quy đổi VNĐ)
đến hết tháng 12/2002 là 193.795 triệu đồng, tăng gấp 1,3 lần so với năm
2001 và tăng gấp 1,68 lần so với năm 2000. Riêng năm 2000, tuy tổng nguồn

vốn huy động tăng 13.614 triệu đồng (tương đương 13,3%) so với năm 1999
nhưng tiền gửi tiết kiệm giảm hơn 700 triệu (giảm 1,3%) và tiền gửi kỳ phiếu
cũng giảm 527 triệu (giảm 52,1%) so với năm 1999.
Hai năm tiếp theo 2001và 2002 , tổng nguồn vốn huy động tiếp tục tăng
và các hình thức huy động cũng tăng khá mạnh mẽ. Năm 2001, tiền gửi tiết
kiệm đạt 83.133 triệu đồng tăng 22.720 triệu đồng (tăng 42%) so với năm
2000; tiền thu được từ kỳ phiếu tăng vọt lên 4.101 triệu đồng là những thành
công rất đáng kể của đơn vị. Nhờ có nhiều đổi mới trong cơ chế, chính sách
khuyến khích khách hàng gửi tiền và bằng uy tín của mình, đến 31/12/2002,
tổng nguồn vốn huy động đạt 193.795 triệu đồng tăng 45.854 triệu đồng so
cùng kỳ năm 2001, tỷ lệ tăng đạt 31% là tỷ lệ tăng trưởng cao nhất từ trước
đến nay. Theo đánh giá năm 2002 và công tác nguồn vốn cho thấy, tỷ lệ tăng
trưởng tiền gửi tiết kiệm là 28% so với cùng kỳ năm 2001, đây là nguồn tiền
gửi có mức tăng trưởng cao và ổn định trong năm. Tiền gửi của các tổ chức
kinh tế chiếm 40%, tăng trưởng 29.2% so với cùng kỳ song tăng trưởng chưa
ổn định
Tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ nhiều là do trên địa bàn có khá nhiều cá nhân
đã và đang tham gia công tác ở nước ngoài, đồng USD và EUR vẫn tiếp tục
tăng nên khách hàng có xu hướng gửi tiết kiệm ngoại tệ nhiều hơn, do vậy tỷ
trọng tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ quy đổi VNĐ lớn hơn tiền gửi tiết kiệm VNĐ.
Có được những kết quả trên, chi nhánh đã thực hiện đầy đủ những quy
định của NHCT Việt Nam về huy động tiền gửi, nâng cao năng lực, trình độ cán
bộ nghiệp vụ, tuyên truyền quảng cáo rộng rãi các chính sách lãi suất một cách
kịp thời, sâu rộng trong nhân dân, tích cực tham gia hoạt động xã hội để
quảng bá NHCT.
2.2 Tình hình sử dụng vốn:
Các năm 2000, 2001và 2002 cùng với những đổi mới trong các quy định
và quy chế tín dụng, NHCT Phúc Yên đã tập trung đầu tư cho vay, mở rộng
khách hàng có chọn lọc. Tổng dư nợ cuối kỳ năm 2000 là 94.720 triệu đồng,
năm 2001 là 139.688 triệu đồng, năm 2002 là 163.854 triệu đồng. Những con

số tuyệt đối tuy nhỏ nhưng đó cũng là những thay đổi lớn trong hoạt động tín
dụng của chi nhánh NHCT Phúc Yên.
Tình hình sử dụng vốn vay của NHCT Phúc Yên được phản ánh trong
biểu 2 dưới đây:
Biểu 2: Tình hình sử dụng vốn của NHCT Phúc Yên (2000-2002)
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Số tiền %/99 Số tiền %/00 Số tiền %/01
A. Doanh số cho
vay
99.404 +24,25 136.70
1
+37,52 181.239 +32,5
B. Doanh số thu
nợ
54.436 +44,43 112.53
5
+106,7 166.577 +48,0
C. Dư nợ cuối kỳ 94.720 +26,82 139.68
8
+47,47 163.854 +17,3
1. Phân loại cho
vay:
- Nợ ngắn hạn 74.637 +22,60 88.031 +30,15 103.056 +17,1
- Nợ trung và dài
hạn
27.083 +38,76 51.657 +90,70 60.798 +17,7
2. Phân theo TPK
-DN Quốc doanh 72.952 +32,22 107.781 +47,7 133.177 +23,5
- DN NQD 2.243 +4,13 9.459 +321,7 4.121 -56,4

- Tư nhân cá thể 19.523 +16,55 22.448 +15,0 26.166 +16,5
Nguồn: Báo cáo tín dụng NHCT Phúc Yên (2000-2002)
Chi nhánh NHCT Phúc yên là chi nhánh ngân hàng cấp hai, hoạt động
của chi nhánh chịu sự chỉ đạo và quản lý chặt chẽ của NHCT tỉnh. Mọi hoạt
động đều được thực hiện theo sự hướng dẫn và chỉ đạo của NHCT Việt Nam và
NHCT tỉnh Vĩnh phúc. Do đó nguồn cho vay của chi nhánh cũng được điều
chuyển từ trên xuống.
Qua 3 năm 2000, 2001 và 2002 công tác tín dụng của chi nhánh có
những thay đổi tích cực, đặc biệt trong năm 2001. Cụ thể:
Năm 2000, tính đến 31/12, tổng doanh số cho vay đạt 99 tỷ đồng tăng
19 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 1999 (tăng 24,25%); doanh số thu nợ đạt 54 tỷ
đồng tăng 17 tỷ so cùng kỳ năm 1999 (tăng 44,43%).
Năm 2001, tổng doanh số cho vay đạt 136,7 tỷ đồng tăng 37,7 tỷ đồng so
với cung kỳ năm 2000 (tăng 37,52%); doanh số thu nợ đạt 112 tỷ đồng tăng
58 tỷ so cùng kỳ năm 2000 (tăng 106%).
Năm 2002, doanh số cho vay đạt 181 tỷ đồng, so với năm 2001 doanh số
cho vay tăng 32,58% (tăng 45 tỷ), doanh số thu nợ đạt 166,57 tỷ đồng tăng so
với năm trước là 48,52% (tăng 54 tỷ).
Công tác cho vay qua 3 năm gần đây cũng có những tăng trưởng khá.
Tổng dư nợ tăng nhanh và khá đều đặn qua các năm, đặc biệt nổi trội là năm
2001, tăng gần 45 tỷ với tỷ lệ tăng cao nhất từ trước đến nay là 47,7%. Điều
này được lý giải bởi 2001, các khu công nghiệp bắt đầu được đầu tư và các
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng được mở rộng. Các điều kiện
vay vốn cũng khá dễ dàng nên dư nợ tăng mạnh. Tuy vậy, dư nợ vẫn tập chung
chủ yếu vào khu vực kinh tế quốc doanh, chiếm tỷ trọng trung bình khoảng
75% tổng dư nợ.
Các khách hàng ngoài quốc doanh và tư nhân cá thể cũng tăng trưởng
nhưng với tốc độ chậm hơn và chiếm tỷ lệ quá bé. Chi nhánh đã thực hiện mở
rộng hơn với khách hàng là kinh tế ngoài quốc doanh nhưng vẫn trong thời
gian thâm nhập thị trường mới nên còn nhiều e ngại, tuy vậy kết quả đạt được

rất khả quan và tương lai mở rộng thị trường này không còn xa nữa.
Một điều đáng chú ý là tỷ lệ nợ ngắn hạn đang giảm dần so với tổng dư
nợ, tuy vậy cả ngắn hạn và trung dài hạn, tỷ lệ tăng trưởng là cao.
Có được kết quả trên, NHCT Phúc Yên đã bám sát sự chỉ đạo của NHCT
Việt nam, NHCT Vĩnh Phúc trong công tác tín dụng với phương châm phát
triển, an toàn, hiệu quả, từng bước khẳng định bước đi vững chắc. Ngân hàng
ngày càng tạo lập được những mối quan hệ khách hàng rất tốt, ngày càng mở
rộng thị phần. Bên cạnh mục tiêu phát triển thì mục tiêu chất lượng tín dụng
cũng được quan tâm một cách chặt chẽ và sự chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh
đạo. Một mặt tăng cường công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay,
mặt khác thường xuyên đánh giá hiệu quả việc đầu tư vào ngành hàng nào có
hiệu quả, lĩnh vực nào có hiệu quả để điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Lấy phương
châm vững chắc, an toàn lên hàng đầu để đầu tư. Ngân hàng cũng luôn đôn
đốc khách hàng trả nợ và xử lý nợ tồn đọng.

2.3. Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động huy động và cho vay, chi nhánh còn thực hiện các
nghiệp vụ khác như: Kinh doanh ngoại tệ và thanh toán bao gồm cả thanh toán
quốc tế...
Mặc dù đội ngũ cán bộ của chi nhánh còn rất trẻ và ít kinh nghiệm
nhưng với thái độ nhiệt tình chu đáo, tác phong giao dịch văn minh lịch sự
đồng thời được cung cấp và trang bị nhiều thiết bị hiện đại nhất trên địa bàn
nên chi nhánh đã thu hút được rất nhiều khách hàng đến giao dịch. Khách
hàng đến mở tài khoản giao dịch ngày càng đông với lượng khách giao dịch
hiện tại là 7.825 khách hàng (trong đó riêng tài khoản cá nhân là công nhân
các công ty liên doanh là khoảng trên 4.800 tài khoản).
Doanh số thanh toán năm 2002 đạt 16.052.270 triệu đồng với tổng số
115.172 món. Trong đó thanh toán không dùng tiền mặt là 13.296.229 triệu
đồng với tổng số 97.712 món, chiếm tỷ trọng 83% tổng doanh số thanh toán-
thanh toán được đảm bảo nhanh, chính xác, đúng chế độ, kịp thời cho khách

hàng.
Ngân hàng công thương Phúc Yên là chi nhánh trực thuộc NHCT Vĩnh
Phúc chưa được trực tiếp làm thanh toán quốc tế nhưng NHCT Phúc Yên trong
những năm qua đã là nơi nhận chứng từ để chuyển tiếp các thanh toán như:
chuyển tiền, mở và thanh toán L/C cho các công ty xuất nhập khẩu như công ty
HONDA, công ty TOYOTA, công ty TAKANICHI, công ty Xuân Hoà, ...Chi nhánh
còn mở rộng các dịch vụ thanh toán quốc tế khác như: thanh toán thẻ VISA, thẻ
MASTERCARD, séc du lịch, nhận và chi trả kiều hối....
Mặc dù thời gian gần đây ngoại tệ khan hiếm song tại chi nhánh vẫn
đảm bảo cân đối đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Kinh doanh ngoại tệ có lãi, chủ động khai thác ngoại tệ của các đơn vị xuất
khẩu, kinh doanh đa dạng các loại ngoại tệ : USD, DEM, EUR, AUD, JPY, HKD,
CHF,...
3. Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn
của NHCT Phúc Yên:
Trước xu thế hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, Nhà nước ta
khuyến khích và ngày càng nới rộng các điều kiện cho các hoạt động thành lập
và tổ chức kinh doanh. Địa bàn Mê Linh được coi là địa bàn được khuyến khích
đầu tư khá lớn đối với cả trong và ngoài nước. Do đó có thể thấy xu hướng đầu
tư trung và dài hạn ngày càng phát triển.
Điều đó có thể cho thấy đây là thị trường giàu tiềm năng cho hoạt động
kinh doanh ngân hàng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng. Tuy
nhiên, địa bàn Mê Linh là địa bàn còn mới phát triển, đi lên từ thuần nông nên
còn rất nặng nề về phong tục tập quán, phong cách làm việc và trình độ người
dân ở đây còn thấp là những khó khăn chính cho công cuộc đổi mới và phát
triển địa phương. Thêm nữa, địa bàn tuy còn nhỏ nhưng đã có tới ba chi nhánh
ngân hàng thương mại và một số tổ chức tín dụng hoạt động nên tính cạnh
tranh rất cao.
Để đảm bảo cạnh tranh và đứng vững trên địa bàn, chi nhánh NHCT
Phúc yên đã nỗ lực thoả mãn nhu cầu hợp lý của khách hàng trên các mặt:

* Thủ tục cho vay đơn giản phù hợp quy chế cho vay:
Chi nhánh vẫn từng bước giảm bớt mọi thủ tục đối với các nghiệp vụ
nhưng vẫn đảm bảo độ an toàn tối đa.
Trước năm 1997, hoạt động tín dụng của chi nhánh yếu kém trên nhiều
phương diện. Có nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, do chi nhánh là ngân hàng phụ
thuộc, tổ chức còn nhỏ bé nên hoạt động phụ thuộc rất lớn vào hoạt động kinh
tế của địa bàn. Hoạt động kinh tế địa bàn mang tính thuần nông, hoạt động
kinh tế rất thấp, trình độ người dân thấp kém, lạc hậu. Thứ hai, đội ngũ cán bộ
tín dụng thời kỳ này chủ yếu là trình độ sơ cấp và trung cấp hoặc được đào tạo
nghiệp vụ thành, do đó trong công tác thẩm định và quyết định cho vay có
nhiều hạn chế. Thứ ba, người chỉ đạo trực tiếp cho hoạt động tín dụng trong
mặt bằng chung cũng thấp do đó có sự buông lỏng trong quản lý.
Khách hàng có nhu cầu vay vốn, họ chỉ cần có phương án và giấy đề nghị
vay vốn. Quá trình thẩm định chỉ do một cán bộ tín dụng tiến hành và quyết
định cho vay chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp. Thủ tục cho vay chỉ bao gồm
đơn xin vay vốn kiêm giấy nhận nợ là có thể được giải ngân, hoạt động giám
sát sử dụng món vay không được tích cực. Như vậy quyết định cho vay mang
tính chủ quan của cán bộ tín dụng đồng thời tạo điều kiện cho những cán bộ
tham nhũng, cấu kết với khách hàng rút ruột ngân hàng hay có những quyết
định cho vay những món vay mang tính rủi ro cao. Kết quả là tỷ lệ các món vay
chuyển nợ quá hạn và nợ khó đòi rất cao.
Đến nay, sự ra đời Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng ban hành kèm Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN và quyết định số
049/QĐ-NHCT-HDQT đã tạo cho chi nhánh một bước đột phá mới. Thủ tục cho
vay không hề gây phiền hà cho khách hàng. Khách hàng được hướng dẫn làm
thủ tục rất chu đáo, tận tình, ngoài ra còn được cán bộ tín dụng tư vấn cho
hoạt động kinh doanh của khách hàng. Quá trình thẩm định một món vay diễn
ra chặt chẽ hơn. Ví dụ, với mỗi món vay đều có từ hai cán bộ tín dụng trở lên
thẩm định. Với những khoản vay lớn có tài sản thế chấp thì có cả lãnh đạo
(giám đốc, phó giám đốc) cùng tham gia thẩm định, do đó công tác thẩm định

mang tính khách quan hơn.
Việc thẩm định món vay không còn chỉ dựa trên tài sản thế chấp nữa mà
còn dựa vào rất nhiều các chỉ tiêu: tính khả thi của dự án, tính chất pháp lý và
năng lực pháp lý của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, uy tín
của khách hàng, tình hình thị trường và dự báo tương lai của sản phẩm dự
án...Mọi món vay dù lớn hay nhỏ, ngắn hay dài hạn đều có hợp đồng tín dụng
ký kết theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Sau khi cho vay, các cán bộ tín dụng rất có trách nhiệm trong công tác
giám sát sử dụng vốn vay đúng mục đích và thường xuyên đôn đốc thực hiện
tốt nghĩa vụ trả nợ. Từng bước như vậy, đến nay chi nhánh đã thu nợ được hầu
hết những khoản nợ tồn đọng giai đoạn trước chuyển sang. Kết quả đó đã
chứng minh tính thiết thực và hiệu quả trong công tác thực hiện quy chế cho
vay mới của đội ngũ cán bộ tín dụng chi nhánh NHCT Phúc yên.
* Thời gian xét duyệt nhanh chóng:
Trước đây thời gian để xét duyệt một món vay không xác định thời gian,
có những món vay khách hàng không chờ đợi được phải chuyển hướng vay
khác. Đến nay, nghị định 049 - NHCT quy định thời hạn xét duyệt tối đa là 30
ngày kể từ sau khi nhận được hồ sơ xin vay vốn. Riêng chi nhánh, đa số các
món vay được xét duyệt cho vay chỉ trong vòng khoảng 4-5 ngày. Còn các món
vay ví dụ như vay tiêu dùng của cán bộ công nhân viên bằng tín chấp thì chỉ
diễn ra trong vòng một đến hai ngày do đó rất được các khách hàng ủng hộ và
hưởng ứng.

×