Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Thực trạng công tác phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ tại kho bạc Nhà nước Lạng Sơn trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.58 KB, 28 trang )

Thực trạng công tác phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ tại
kho bạc Nhà nước Lạng Sơn trong thời gian qua.
2.1. Vài nét về KBNN Lạng Sơn.
2.1.1. Đặc điểm kinh tế- xã hội Tỉnh Lạng Sơn.
Lạng Sơn là một tỉnh niềm núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam,
nằm cách Hà Nội 154 km về phía Bắc. Là một trong những tỉnh có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, An ninh Quốc phòng của cả nước.
Với tổng diện tích tự nhiên là 8127,25 km2, có độ cao trung bình so với
mặt biển là 252m, có đường biên giới Việt - Trung chạy dài 253 km. Hiện nay
Lạng Sơn có 1 thị xã và 10 huyện với 206 xã và 19 phường , thị trấn. Dân số
toàn tỉnh là hơn 800.000 người trong đó ở thị xã gần 300.000 chiếm khoảng
33%, bao gồm 34 dân tộc anh em trong đó dân tộc Nùng chiếm tỷ lệ lớn nhất
là 43,86%, dân tộc Tày chiếm 35,4%, dân tộc Kinh chiếm khoảng 15,26%, dân
tộc Dao chiếm khoảng 3,54% còn lại là các dân tộc thiểu số khác sống xen kẽ
với nhau. Địa bàn dân cư phân bố không đồng đều, địa hình phức tạp có nhiều
đỉnh núi cao, trong đó cao nhất là đỉnh núi Mẫu Sơn cao 1.541m, sông, suối có
nhiều thác ghềnh độ dốc lớn. Địa hình bị chia cắt thành nhiều vùng với nhiều
đặc điểm khác nhau về độ cao, thời tiết, khí hậu...
Là một tỉnh miền núi với địa hình phức tạp, có nhiều xã thuộc vùng cao,
vùng sâu, xa, phương tiện đi lại khó khăn cho nên kinh tế của Lạng Sơn chậm
phát triển, sản xuất nông nghiệp là một vụ, mang nặng tính tự cấp tự túc, nền
sản xuất hàng hoá chưa phát triển. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do
chính sách mở cửa quan hệ giao lưu buôn bán với Trung Quốc nên kinh tế của
Lạng Sơn đã có sự thay đổi nhờ vào sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nên
cơ sở hạ tầng cũng được chú trọng để tạo điều kiện để phát triến kinh tế. Cùng
với sự cố gắng tích cực thực hiện việc đổi mới trên các lĩnh vực nên Lạng Sơn
đã đạt được một số kết quả sau:
* Về kinh tế:
Năm 1996 độ tăng trưởng GDP đạt 12,12%, năm 1997 đạt 10,26%, năm
1998 đạt 8,26%. Trong đó nhịp độ tăng trưởng GDP của ngành Nông, lâm
nghiệp bình quân trong 3 năm là 6,75% vượt mục tiêu Đại hội 12 đảng bộ tỉnh


đề ra là 5,5-6%, ngành công nghiệp - xây dựng cơ bản là18,14% không đạt
mục tiêu Đại hội 12 đề ra là 25-30%... GDP bình quân đầu người năm 1996 là
2.041 ngàn đồng, năm 1997 là 2.232 ngàn đồng , năm 1998 là 2462 ngàn đồng.
Cơ cấu ngành trong GDP đã chuyển dịch trong hướng tiến bộ, giảm tỷ trọng
ngàng Nông lâm nghiệp, tăng ngành công nghiệp và thương nghiệp dịch vụ.
Ngoài ra quán triệt quan điểm của Đảng ta là phát triển kinh tế nhiều thành
phần có sự quản lý của Nhà nước theo hường XHCN. Trong những năm qua
Tỉnh Uỷ Lạng Sơn đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, củng cố xây dựng các DNNN.
Doanh thu thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng bình quân hàng
năm là 5,5% song đại bộ phận các DNNN còn bé, vốn ít, việc phát huy vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế còn hạn chế. Kinh tế hợp tác xã(HTX) cũng được
quan tâm củng cố, toàn tỉnh hiện có 146 HTX trong đó 108 HTX nông nghiệp, 2
HTX lâm nghiệp, 4 HTX xây dựng, 13 HTX tiểu thủ công nghiệp, 14 HTX vận tải,
bên cạnh đó các công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân, kinh
tế trang trại cũng phát triển. Nền kinh tế ngày càng ổn định và phát triển hơn.
* Về văn hoá xã hội
Trong những năm qua trong những lĩnh vực như xoá mà chữ, phổ cập
tiểu học, chăm sóc sức khỏe nhân dân, xoá đói giảm nghèo, sắp xếp lao động
giải quyết công ăn việc làm, định canh định cư, phủ sóng phát thanh truyền
hình...đã có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất tinh thần của Nhân dân các dân
tộc trong tỉnh đã từng bước được cải thiện và ổn định đặc biệt là các xã vùng
cao, vùng sâu, vùng xa.
Sự nghiệp đào tạo và giáo dục, công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân
dân được quan tâm thoả đáng và tiếp tục phát triển.
Có thể nói rằng, mặc dù là một tỉnh miền núi, Lạng Sơn đã gặp không ít
những khó khăn trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế, song do sự nỗ lực cố
gắng của Đảng bộ cũng như nhân dân các dân tộc trong tỉnh, nền kinh tế của
tỉnh đã ngày một phát triển vững vàng hơn, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, và sự phát triển nền kinh tế đất nước.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của kho bạc Nhà nước

Lạng Sơn.
Ngày 01/04/1990 KBNN Lạng Sơn được ra đời cùng với sự ra đời của
hệ thống kho bạc trong cả nước theo quyết định số 07/ HĐBT của hội đồng Bộ
trưởng ( hay là Chính phủ). KBNN tỉnh Lạng Sơn nằm trên địa bàn đừờng Lê
Lợi- thị xã Lạng Sơn, bao gồm 10 KBNN huyện trực thuộc và văn phòng kho
bạc tỉnh. Đó là các KBNN huyện Tràng Định, Văn Quan, Văn Lãng, Bình Gia, Bắc
Sơn, Cao Lộc, Hữu Lũng, Chi Lăng, Lộc Bình, Đình Lập. Mặt khác do nằm trên
đại bàn thị xã nên KBNN tỉnh kiêm luôn vai trò của KBNN thị xã vì thế hoạt
động của KBNN tỉnh rất phong phú và phức tạp.
Với tổng số cán bộ,viên chức từ hệ thống Ngân hàng và tài chính chuyển
sang, được KBNN TW cấp kinh phí hoạt động cũng như được sự giúp đỡ của
các ngành, các cấp chức năng trong tỉnh , KBNN Lạng Sơn đã đi vào hoạt động
theo cơ cấu tổ chức chặt chẽ thống nhất từ KBNN tỉnh đến KBNN các huyện và
đã dần dần trưởng thành qua năm tháng, cho đến nay đã có đội ngũ cán bộ
vững mạnh trên dưới 192 cán bộ, trong đó số cán bộ có trình độ đại học và cao
đẳng chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên việc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao nghiệp
vụ cho cán bộ công nhân viên chức trong toàn bộ hệ thống KBNN của tỉnh vẫn
luôn là vấn đề quan tâm của ban lãnh đạo KBNN Lạng Sơn để hoàn thành tốt
hơn những công việc mà KBNN đảm nhiệm trong công việc quản lý quỹ NSNN.
Bên cạnh công tác chuyên môn, các công tác ngoại khoá như công tác
Đảng, đoàn thể cũng được định hướng một cách rõ nét. Với cương vị là một
đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc Bộ Tài Chính, KBNN tỉnh Lạng Sơn
KBNN Lạng Sơn
Giám đốc
P. Giám đốc P. Giám đốc
PhòngKH- THPhònghành chính quản trịPhòngtổ chứccán bộPhòng thanh traPhòng thanh toán vốn ĐTXDCBPhòng kế toán (tổvi tính)Phòng kho quỹ
KBNNĐình lập
KBNNTràngĐịnh
KBNNVăn LãngKBNNVăn Quan
KBNNBình Gia

KBNNBắc Sơn
KBNNChi Lăng
KBNNHữu Lũng
KBNNCao Lộc
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của KBNN TW. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh. Tại KBNN tỉnh
gồm 7 phòng và và một tổ nghiệp vụ trực thuộc ban lãnh đạo của KBNN Lạng
Sơn, đứng đầu là giám đốc KBNN tỉnh, ta có thể minh họa bằng sơ đồ sau:

Hơn 10 năm ra đời và trưởng thành KBNN Lạng Sơn đã khẳng định vị
trí và vai trò không thể thiếu của mình trong việc phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước nói chung và tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Lạng Sơn là một tỉnh có địa bàn khó khăn và phức tạp, có vị trí quan
trọng nên nhiệm vụ của KBNN Lạng Sơn cũng hết sức nặng nề và quá trình
thực hiện gặp không ít những khó khăn. Nhận thức được vấn đề đó , nhìn
chung KBNN Lạng Sơn đã cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao nhằm
góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị, kinh tế văn hoá xã hội , an ninh Quốc
phòng trên địa bàn tỉnh. Cụ thể về công tác chuyên môn như sau:
KB NN
Lộc
Bình
- Về công tác quản lý quỹ NSNN: Đây là một công tác trọng tâm và
thường xuyên nên luôn luôn được cấp uỷ Đảng và Chính quyền tỉnh quan tâm
và chú trọng lãnh đạo chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện mọi biện pháp
thu từ mọi nguồn vào NSNN, đồng thời quản lý chi tiêu theo dự toán được
duyệt theo luật NSNN qua các năm, cụ thể :
+ Thu NSNN qua các năm như sau: năm 1990 thu được 17.021 triệu
đồng, năm 1991 thu được 21.037 triệu đồng, năm 1992 thu được 64.093 triệu
đồng, năm 1993 thu được 188.678 triệu đồng, năm1994 thu được 240.375
triệu đồng, năm 1995 thu được 292.124 triệu đồng, năm 1996 thu được
288.678 triệu đồng, năm 1999 thu được 433.280 triệu đồng, năm 2000 thu

được 832.718 triệu đồng.
+ Chi NSNN qua các năm như sau: năm 1990 chi 45.214 triệu đồng,năm
1991 chi 52.768 triệu đồng, năm 1992 chi 107.511 triệu đồng, năm 1993 chi
233.454 triệu đồng, năm 1994 chi 239.051 triệu đồng, năm 1995 chi 299.091
triệu đồng, năm 1996 chi 304.608 triệu đồng, năm 1997 chi 310.700 triệu
đồng,năm 1998 chi 375.294 triệu đồng, năm 1999 chi 440.290 triệu đồng, năm
2000 chi 694.193 triệu đồng.
- Về công tác kế toán: Thực hiện hệ thống quản lý quỹ NSNN theo luật
định, do đó trong quá trình thực hiện luôn có sự bổ sung, sửa đổi cho hoàn
chỉnh đồng thời từng bước hiện đại hoá bằng máy vi tính để nhằm hạch toán
và quản lý quỹ NSNN có hiệu quả.
- Công tác tiền tệ, kho quỹ, thường xuyên chú ý tổ chức học tập các chế
độ quy định của Nhà nước, tập huấn tay nghề nhằm kiểm nhận, quản lý phải
an toàn tuyệt đối.
- Về công tác tín dụng Nhà nước: Qua 10 năm triển khai, công tác tín
dụng của KBNN Lạng Sơn đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong công tác
phát hành và thanh toán tín phiếu, công trái XDTQ. Từ các nguồn vốn huy động
được, KBNN thực hiện triển khai các hình thức tín dụng tài trợ theo mục tiêu
chỉ định của Chính phủ nhằm giải quyết việc làm cho người lao động( như
chương trình 120), đầu tư phát triển kinh tế như đường dây tải điện 500 kv,
chương trình 135, trung tâm cục xã và đường ra biên giới. Để hoàn thành
nhiệm vụ trong công tác huy động vốn từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
thông qua việc phát hành TPCP, KNNN Lạng Sơn đã làm tốt công tác tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các bàn bán, phục vụ
nhiệt tình người mua. Do vậy, trong 10 năm qua KBNN Lạng Sơn đã huy động
được với tổng doanh số là: 434,22 tỷ đồng.
- Về công tác thanh tra kiểm tra: chấp hành thực hiện công tác thanh tra
kiểm tra thường xuyên, phát hiện và xử lý kịp thời hiện tượng vi phạm, từ đó
các hoạt động KBNN được chấn chỉnh kịp thời đi vào nề nếp, hạn chế những
sai sót tiêu cực.

Nhìn lại một cách khái quát nhất về hoạt động từ khi ra đời đến nay ta
thấy rằng KBNN Lạng Sơn đã và đang từng bước trưởng thành.
2.2. Công tác tổ chức và quản lý huy động vốn
2.2.1. Bộ máy thực hiện:
Trong quá trình huy động vốn, mỗi bộ phận thực hiện một nhiệm vụ
riêng biệt và kết hợp chặt chẽ với nhau hoàn chỉnh một chu trình phát hành
hay thanh toán TPCP.
Giám đốc KBNN điều hành chung mọi hoạt động của đơn vị, Phó giám
đốc phụ trách kế toán trực tiếp chỉ đạo công tác phát hành và thanh toán
TPCP: bố chí cán bộ, phương tiện, quán triệt các quyết định của Chính phủ, các
công văn, thông tư về phát hành và thanh toán TPCP.
Bộ phận kế toán là bộ phận trực tiếp phát hành TPCP, hạch toán vay
dân, điều tiết cho NSTW, kê bảng kê phát hành TPCP theo từng loại mệnh giá
và sêri. Trực tiếp tiến hành thanh toán TPCP theo từng lạo kì hạn và lãi suất
tương ứng đồng thời lưu giữ chứng từ theo đúng quy định.
Bộ phận kho quỹ: trực tiếp thực hiện thu tiền bán trái phiếu, kiểm tra
đúng số tiền, niêm phong tiền và cất tiền vào kho, thực hiện chi trả trái phiếu
chính xác, đồng thời quản lý trái phiếu trắng nhận từ Trung ương về và phân
phối cho các đơn vị liên quan, làm báo cáo ấn chỉ nhập xuất kho theo từng đợt
phát hành.
Bộ phận kế toán tổng hợp, tổng hợp số liệu báo cáo lãnh đạo và báo cáo
về KBNN TW. Tổng hợp tình hình phát hành và thanh toán TPCP một cách
chung nhất.
2.2.2. Quy trình phát hành:
3
Người mua Kế toán Thủ quỹ
1
4
2
5

Sơ đồ 1: Quy trình thu bán trái phiếu Chính phủ.
Quy trình được thực hiện tuần tự theo 5 bước:
1. Người mua viết các yếu tố quy định trên phiếu mua trái phiếu, kí tên
lên chỗ quy định rồi chuyển cho kế toán kho bạc.
2. Kế toán kiểm tra các yếu tố trên phiếu mua và tiến hành:
- Viết các yếu tố quy định trên tờ khai phiếu kho bạc ( phần cuống +
thân).
- Yêu cầu người mua kí chữ kí mẫu vào cuống trái phiếu .
- Giao tờ trái phiếu và phiếu mua cho thủ quỹ.
3. Thủ quỹ kiểm tra các yếu tố trên tờ trái phiếu, phiếu mua trái phiếu
đảm bảo khớp đúng, hợp lệ thì tiến hành :
- Thu tiền của người mua trái phiếu .
- Kí tên vào chỗ quy định trên tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu.
- Đóng dấu “ĐÃ THU TIỀN” lên tờ mua trái phiếu .
- Thủ quỹ giao tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu lại cho kế toán và
ghi nhật ký quỹ.
4. Nhận được trái phiếu và phiếu mua trái phiếu kế toán tiến hành:
- Kí tên vào chỗ quy định trên tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu.
- Giao tờ trái phiếu cho người mua.
Thủ quỹKế toánNgười mua
1
2
3
5
- Cuối ngày căn cứ vào số liệu trên bảng kê chi tiết bán trái phiếu và
phiếu mua trái phiếu , tiến hành hạch toán, lập sổ chi tiết tài khoản 90, và lưu
chứng từ theo quy định.
5. Cuối ngày kế toán và thủ quỹ đối chiếu số tiền thu về bán trái phiếu
KBNN.
2.2.3. Quy trình thanh toán, chi trả trái phiếu:

Sơ đồ 2: Quy trình thanh toán chi trả trái phiếu.
1. Người có trái phiếu tự ghi các yếu tố quy định trên phiếu thanh toán,
kí tên sau đó nộp cho kế toán, kí tên sau đó nộp cho kế toán: tờ trái phiếu,
phiếu thanh toán, chứng minh thư, giấy uỷ quyền (nếu có)...
2. Nhận được các chứng từ trên kế toán tiến hành ;
- Kiểm tra tờ trái phiếu, phiếu thanh toán trái phiếu, các chứng từ liên
quan đảm bảo hợp lệ.
- Đối chiếu chữ kí mẫu ở phiếu thanh toán và ở cuống trái phiếu.
- Đối chiếu tờ trái phiếu với bảng kê phát hành trái phiếu số khai báo
mất trái phiếu ... Trường hợp gốc trái phiếu đang bị phong toả do người mua
dùng tờ trái phiếu để thế chấp hoặc đã báo mất ... thì phải xử lý theo những
quy định cho từng trường hợp cụ thể.
- Tính toán lại số tiền gốc, lãi phải trả để ghi số tiền thanh toán vào trái
phiếu.
4
-Rút cuống trái phiếu đó ghim kèm với tờ trái phiếu và phiếu thanh
toán .
Chuyển cho thủ quỹ tờ trái phiếu, cuống trái phiếu và phiếu thanh toán.
3. Thủ quỹ kiểm tra số tiền phải thanh toán ghi tên trái phiếu và phiếu
thanh toán trái phiếu, kí tên vào trái phiếu, yêu cầu người nhận kí tên vào tờ
trái phiếu và trả tiền, đóng dấu “ ĐÃ CHI TIỀN” vào phiếu thanh toán , cắt góc
và đóng dấu “ ĐÃ CHI TIỀN ” vào tờ trái phiếu đã thanh toán và ghi sổ quỹ.
4. Nhận được các chứng từ này, kế toán kí tên vào chỗ quy định trên tờ
trái phiếu và thanh toán trái phiếu .
- Ghi bảng kê chi tiết thanh toán gốc, lãi trái phiếu.
- Cuối tháng căn cứ vào bảng kê thanh toán trái phiếu , phiếu thanh toán
trái phiếu, lập sổ chi tiết tài khoản 90, 61 và lưu chứng từ theo quy định.
5. Cuối ngày, kế toán và thủ quỹ đối chiếu số tiền thanh toán trái phiếu
sau cùng, thủ quỹ bàn nộp tiền đã niêm phong theo bó cho bộ phận kho quỹ,
gửi trái phiếu trắng còn tồn cuối ngày vào kho, kí xác nhận về số tiền , chủng

loại tiền với thủ kho. Kế toán nộp chứng từ lên bộ phận kế toán, chịu trách
nhiệm về các số liệu đã ghi chép . Số liệu này sẽ được kiểm tra một lần nữa
trước khi đưa vào máy và truyền về trung tâm (KBNN) vào cuối ngày.
2.3. Thực trạng phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ tại
KBNN Lạng Sơn trong thời gian qua.
Huy động vốn là một chính sách tài chính có rất nhiều ưu điểm được
Nhà nước ta sử dụng phổ biến và khá liên tục trong thời gian qua. Nó vừa huy
động được nguồn vốn nội lực trong dân, vừa “đánh tan” những đồng tiền “
đóng băng” trong nền kinh tế, vừa tăng nguồn lực tài chính cho NSNN và thực
hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước, mặc dù mới
trải qua hơn 10 năm hoạt động, xong KBNN Lạng Sơn đã góp một phần không
nhỏ vào sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế của tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Đặc biệt là trong công tác huy động vốn, đã huy động được một lượng vốn
không nhỏ thông qua phát hành TPCP góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN và đầu
tư phát triển kinh tế, cụ thể là trong 10 năm qua KBNN Lạng Sơn đã huy động
được với tổng doanh số là 434.220 triệu đồng. Song song với công tác phát
hành trái phiếu, KBNN Lạng Sơn cũng tổ chức tốt công tác chuẩn bị nguồn
vốn , tiền mặt để thanh toán các loại trái phiếu cho người mua khi đến kì hạn
thanh toán. Ngay từ những năm đầu mới đi vào hoạt động, KBNN Lạng Sơn đã
làm tốt công tác huy động vốn, hoàn thành nhiệm vụ được giao cụ thể:
Theo quyết định số 384 TC/KBNN ngày 14/09/1992 và quyết định số 414
TC/KBNN của Bộ Tài Chính về việc phát hành tín phiếu kho bạc 6 tháng lãi
suất 2,9%/ tháng. KBNN Lạng Sơn đã huy động được 4.470 triệu đồng, con số
này chưa phải là lớn, song nó đánh dấu một sự khởi đầu tốt đẹp trong công tác
huy động vốn. ở KBNN Lạng Sơn bước sang năm 1993, tiếp tục phát hành tín
phiếu loại kì hạn 6 tháng, và tín phiếu đường dây 500 kw, đồng thời phát hành
loại tín phiếu kho bạc loại kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 2%/ tháng trả lãi trước,
theo quyết định số 782-TC/KBNN ngày 8/11/1993 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính
kết quả thu về được 33.000, 5 triệu đồng, như vậy ta thấy rằng năm 1993
KBNN Lạng Sơn đã huy động được gấp 8 lần so với năm 1992, một kết quả

đáng mừng, có được kết quả trên là do kho bạc đã mở rộng phạm vi phát hành
và lãi suất tín phiếu hấp dẫn nên đã thu hút được người mua, song song với
việc phát hành đó là công tác thanh toán và năm 1993 số đã thanh toán là
27.497,217 triệu đồng.
Năm 1994 thực hiện quyết đính số 432- TC/KBNN ngày 28/5/1994 của
Bộ trưởng Bộ Tài Chính, KBNN Lạng Sơn tiếp tục phát hành loại tín phiếu kì

×