Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.87 KB, 32 trang )

Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
thương mại.
1.1. Tổng quan về họat động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về cho vay.
Khái niệm về cho vay là một khái niệm rộng, nó có thể được định nghĩa
trên nhiều góc độ khác nhau. Xét định nghĩa cho vay một cách thô sơ nhất,
thuần túy nhất: Giao dịch cho vay (vay nợ) là giao dịch trong đó bên cho vay
cung ứng một lượng tiền (hàng hóa) duy nhất có giá trị nào đó cho bên đi vay để
đổi lấy nhiều lần trả nợ nhỏ từ phía bên đi vay cho bên cho vay theo thời gian,
thường là theo một lịch trình cố định. Tổng số các khoản hoàn trả nhỏ theo chu
kỳ này thường là lớn hơn giá trị của khoản cho vay ban đầu. Số chênh lệch
trong các khoản thanh toán đó gọi là lãi.
Trong hoạt động của ngân hàng, người ta không dùng từ “cho vay” mà
dùng một thuật ngữ khác bao trùm hơn, rộng hơn và mang đậm bản chất của
ngành ngân hàng, đó là thuật ngữ “tín dụng”, thuật ngữ “tín dụng” về bản chất
giống “cho vay” nhưng cái mà bên cho vay cung ứng không chỉ đơn thuần là
tiền (hàng hóa) mà nó là “tài sản”, tài sản mang tính chất bao trùm hơn, rộng
hơn. Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Trong hoạt động tín dụng thì phổ biến
hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh
nghiệp và các nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền
vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi vay phải thanh tóan
vốn gốc và lãi. Như vậy vô hình chung thì hai thuật ngữ “cho vay” và “tín
dụng” hầu như hoàn tòan không có sự khác biệt, do đó trong nhiều tình huống
chúng được sử dụng thay cho nhau mà người đọc vẫn thấy thông suốt về í
nghĩa. Xin nhắc lại là khái niệm về tín dụng là khái niệm chuyên ngành ngân
hàng. Theo các tài liệu chuyên ngành của ngân hàng thì: Tín dụng là một giao
dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định
chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện


vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh tóan.
Trong bài này, tôi sẽ phân tích hoạt động cho vay của ngân hàng dưới góc độ
tín dụng. Qua các khái niệm trên, ta nhận thấy rằng bản chất của cho vay (tín
dụng) ngân hàng chính là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và mang
một số đặc trưng sau:
• Tài sản giao dịch tồn tại dưới hai hình thức: cho vay (tiền) và cho thuê
(bất động sản và động sản). Trong thực tế thì hình thức tồn tại chủ yếu là
cho vay (tiền).
• Xuất phát từ nhuyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ
trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức quan trọng, trên thực tế, một số nhân
viên khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín
nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm
này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiệp vụ.
• Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị cho vay, nói cách khác thì người đi
vay ngòai nghĩa vụ hòan trả phần gốc thì họ còn fải chi trả thêm một
khoản nữa gọi là lãi. Lãi là một khái niệm được sử dụng nhiều, có thể
hiểu nôm na là phần mà ngân hàng thu về thêm sau khi cho vay một
khoản tiền nhất định. Nhưng xét dưới góc độ tài chính, lãi bao gồm rất
nhiều thành tố. Thông thường nếu lãi suất cho vay cố định là r thì: r = r1
+ r2 + r3
- r1: là tỉ lệ lạm phát, r1 biểu thị cho giá trị của tiền bị “mất
đi” trong suốt thời gian cho vay, điều này có nghĩa là mặc
dù đến khi hết hạn, gốc được hoàn trả đúng như số cho vay
ban đầu, nhưng giá trị thực tế của khỏan cho vay đó đã
giảm đi so với thời điểm cho vay.
- r2: là chi phí sử dụng nguồn, nó bao gồm chi phí quản lý
vốn phát sinh khi nguồn vốn được sử dụng bởi cá nhân, tổ
chức khác dưới hình thức cho vay. Vì nguồn lực là có hạn,
do đó việc sử dụng nó cần phải có sự xem xét cẩn thận và

kỹ lưỡng, đồng thời khi sử dụng nó phát sinh ra chi fí sử
dụng và quản lý.
- r3: đây là lãi suất thực của ngân hàng, ngân hàng cũng là
một tổ chức kinh tế, hoạt động trên nguyên tắc là tìm kiếm
lợi nhuận, do đó bất cứ hoạt động nào của nó cũng tuân
theo nguyên tắc lợi nhuận làm cơ cở.
Thông thường thì trong 3 thành tố cấu thành nên lãi suất cho vay thì tỷ lệ
lạm phát chiếm phầm chủ yếu. Đối với Việt Nam, nó dao động trong khoảng
7% - 8% hoặc có thể cao hơn tùy từng thời kì phát triển kinh tế. Phần chi phí sử
dụng, quản lý vốn thường là có 1 tỷ lệ cố định, do đó các ngân hàng cạnh tranh
nhau ở r3 là chủ yếu, r3 cao hoặc thấp tùy từng hoàn cảnh cụ thể, tuy vậy, yếu
tố thời gian cũng làm ảnh hưởng đáng kể tới nó. Ví dụ là nếu khoản vay là dài
hạn thì lãi suất sẽ được nâng lên, do phải đối mặt với rủi ro lớn hơn. Tóm lại, lãi
suất của ngân hàng chính là chi phí cơ hội cho việc sử dụng một khoản vốn vay,
do đó cá nhân, tổ chức trước khi tiến hành hoạt động cho vay cần trù bị trước lãi
suất hoàn vốn của công trình mà họ sắp thực hiện, thông thường thì nguyên tắc
bất di bất dịch đó là lãi suất hoàn vốn thì luôn lớn hơn hoặc bằng chi phí cơ hội,
như vây làm ăn mới có lãi được.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Đối với sự phát triển kinh tế.
Như đã nói ở trên, ngân hàng, đóng vai trò là “bà mối” cho các khoản tiền
trong xã hội. Nếu bạn muốn cho FPT hay CMS vay tiền, bạn sẽ không bao giờ
đến gặp chủ tịch hội đồng quản trị của các công ty đó để cho vay. Hầu thết
chúng ta cho những công ty đó vay qua nhưng người đứng giữa, đó là các trung
gian tài chính, mà chủ yếu ở đây chính là các ngân hàng. Chính họ đã vay vốn
của những người đã tiết kiệm được tiền, rồi ngược lại, họ cho những người khác
vay, nói một cách khác, thông qua hoạt động cho vay của mình thì ngân hàng
đóng vai trò là trung gian điều hòa giữa cùng và cầu về vốn cho nền kinh tế,
điều tiết các tài sản từ nơi dư thừa, có nhu cầu tiết kiệm sang những nơi cần vay
để đầu tư phát triển.

Trong hoạt động của thị trường tài chính, thì hoạt động cho vay của ngân
hàng có tác động trực tiếp đến của cải vật chất của mỗi cá nhân, đến hình thái
diễn biến của hoạt động kinh doanh và đến tính chất hiệu quả của nề kinh tế
chúng ta. Chính hoạt động cho vay của ngân hàng đã góp phần vào công cuộc
đổi mới kinh tế. Nó thu hút vốn đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn. Nếu
bạn là Trương Gia Bình, bạn sẽ chọn cách nào để thu hút vốn đầu tư vào phát
triển hệ thống công ty công nghệ cao của FPT: phát hành trái khoán công ty hay
thực hiện một cam kết cho vay kết với một ngân hàng nào đó. Rõ ràng là đây là
một ngành có tính chất rủi ro cao, nếu huy động bằng con đường phát hành trái
khoán thì sẽ tốn thời gian hơn và chi phí bỏ ra cũng cao hơn nhiều so với việc đi
vay ngân hàng. Điều này không chỉ đúng trong các ngành công nghệ cao, mà nó
cũng đúng trong các ngành kinh tế mũi nhọn mà ở đó, việc đầu tư luôn cần một
lượng vốn cực lớn mà việc phát hành trái khoán luôn mất rất nhiều thời gian.
Nếu như chính phủ Việt Nam đưa ra một chính sách tiền tệ thắt chặt thì đi
đầu sẽ là hệ thống các các ngân hàng, thông qua việc huy động vốn và cho vay,
sẽ giúp chính phủ điều tiết lượng tiền trong lưu thông và góp phần vào chống
lạm phát. Như vậy, ngòai vai trò là “nhà cung cấp vốn” cho các cá nhân, tổ chức
– vô hình chung đã đóng vai trò là đòn bẩy kinh tế, thúc đẩy sự phát triển, đồng
thời nó gián tiếp tạo ra công ăn việc làm, giúp ổn định xã hội. Đây chính là một
công cụ quan trọng của chính phủ trong điều tiết và quản lý xã hội.
1.1.2.2. Đối với bản thân ngân hàng.
Ngân hàng là một doanh nghiệp, mà hoạt động của doanh nghiệp nào đi
nữa thì mục đích cuối cùng vẫn là lợi nhuận. Hoạt động chính của một ngân
hàng gồm 2 mảng chính. Một là tập hợp nguồn vốn, thứ hai đó là hoạt động cho
vay. Hoạt động tập hợp vốn (nhận tiền gửi hoặc huy động vốn từ các nguồn
khác) cùng với việc quản lý vốn làm phát sinh chi phí. Do đó thì hoạt động cho
vay chính là hoạt động chính tạo ra thu nhập của ngân hàng. Đối với một doanh
nghiệp thì đầu ra là quyết định, trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, chúng ta
chỉ quan tâm đến sản xuất cái gì, chứ không quan tâm đến sản xuất cho ai, ai sẽ
mua và mua bao nhiêu, nhưng giờ đây quan niệm đã thay đổi cùng với thời

gian, do đó xuất hiện rất nhiều ngân hàng với mục đích cho vay khác nhau: cho
vay tiêu dùng, cho vay sản xuất…
Do đó, đối với chính bản thân ngân hàng thì nghiệp vụ cho vay là nghiệp
vụ quan trọng hàng đầu, quyết định tới lợi nhuận, khả năng cạnh tranh cũng như
ảnh hưởng tới sự phát triển trong tương lai của ngân hàng.
Nói tóm lại, nghiệp vụ cho vay có vai trò đặc biệt quan trọng, đối với bản
thân ngân hàng nói riêng và với tòan bộ nền kinh tế cũng như xã hội nói chung.
1.1.3. Các phương thức cho vay của ngân hàng thương mại.
Có rất nhiều cách để phân loại các hình thức cho vay, tùy vào mỗi cách thức
cụ thể mà ta có thể chia làm nhiều loại khác nhau. Có thể đơn cử một vài ví dụ
sau:
 Căn cứ vào mục đích:
 Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai…
 Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lãnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
 Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao
động, nhiên liệu…
 Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay nân hàng còn thực hiện các
khỏan cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống
thông qua phát hành thẻ tín dụng.
 Thuê mua và các loại khác.
 Căn cứ vào thời hạn cho vay:
 Cho vay ngắn hạn: có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiều ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại thì cho
vay ngắn hạn chiếm tỉe trọng là cao nhất.

 Cho vay trung hạn: theo quy định hiện thời của ngân hàng nhà nước
Việt Nam thì cho vay trung hạn có thời gian từ 1 năm đến 3 năm, còn
đối với các nước trên thế giới thì có thể lên đến 7 năm. Mục đích chủ
yếu của bên đi vay là để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc
đổi mới trang thiết bị kĩ thuật, công nghệ và mở rộng sản xuất kinh
doanh
 Cho vay dài hạn Việt Nam là 3 năm trở lên (nước ngòai là 7 năm).
Mục đích cho vay dài hạn là để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng
các xí nghiệp mới.
 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
 Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa
vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt,
trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị hiệu
quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
 Cho vay đản bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
 Căn cứ vào hình thái giá trị:
 Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của khoản cho
vay là bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và
việc thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước,
thấu chi, dễ dãi ngân quỹ, tín dùng thời vụ….
 Cho vay bằng tài sản là hình thức cho vay mà hình thái giá trị của
khoản cho vay là tài sản.
 Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
 Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàng trả vốn
gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho
vay bất động sản nhà ở, cho vay tiêu dùng và cho vay đối với những

người kinh doanh nhỏ.
 Cho vay phi trả góp là loại cho vay được thanh tóan một lần theo từng
kỳ hạn đã thỏa thuận.
 Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
 Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
 Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời
hạn thanh tóan.
Trên thực tế thì các hình thức cho vay rất đa dạng phong phú – là sự kết
hợp của bất kì các thành tố nào trong các phương pháp phân loại đã nêu ở trên,
có thể chỉ dẫn ra một số hình thức cho vay phổ biển nhất trên thực tế mà pháp
luật quy định: căn cứ theo Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày
03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành
theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN; Quyết định số 738/2005/QĐ-NHNN
ngày 31/5/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung
khoản 6 Điều 1 của Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN; Quyết định số
966/2003/QĐ-NHNN ngày 22/8/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư
trú; các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.:
Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phương
thức cho vay:
1- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng
thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
2- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời
gian nhất đình.

3- Cho vay theo dự án đầu tư Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
4- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có
một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín
dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế
này và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ban hành.
5- Cho vay trả góp; Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra
để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
6- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín
dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu
lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự
phòng.
7- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ
chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và
rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của
tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức
tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
8- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng
thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có
trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán
qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
9- Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với

quy định tại Quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức
tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay.
Trong các phương thức trên được pháp luật quy định thì hai phương thức
đầu tiên là phổ biến nhất, do đó trong bài viết này tôi sẽ tập trung phân tích hai
phương pháp: Cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng.
1.1.3.1. Phương thức cho vay từng lần.
Phương thức cho vay từng lần là phương thức cho vay mà ngân hàng căn cứ
vào từng kế hoạc, phương án kinh doanh, từng khâu hoặc từng loại vật tư cụ thể
để cho vay.
Đối tượng áp dụng trong phương thức cho vay này có thể là:
 Các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, liên tục, như vậy
mỗi lần đi vay thì khách hàng sẽ làm một thủ tục hồ sơ mới để xin vay
vốn.
 Các khách hàng có số vòng vay vốn lưu động trong kinh doanh ít, nhu
cầu vốn lưu động trong mỗi vòng vay vốn là không cao.
 Các khách hàng mà hệ số tín nhiệm với ngân hàng thấp, không đủ tin
tưởng để cho vay thường xuyên và cho vay các khỏan lớn. Ngân hàng
cảm thấy cần fải giám sát các khoản cho vay thông qua cho vay từng lần.
Thủ tục để làm hồ sơ cũng khá rắc rối. Bên đi vay khi nhận thấy có
nhu cầu vay vốn thì họ fải gửi đến ngân hàng cho vay bộ hồ sơ gồm các
giấy tờ sau: Đơn xin vay, các tài liệu thuyết minh cho đơn xin vay: hồ sơ
pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, tài liệu thế chấp, cầm cố tài sản.
Ngân hàng sau khi thu được các tài liệu trên, cán bộ làm công tác cho
vay cần tiến hàn đánh giá, thẩm định, thu thập và phân tích thông tin trên
những mặt quan trọng sau:
 Tư cách và điều kiện của người vay vốn.
 Tính hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu, giấy tờ trong hồ sơ xin vay vốn.
 Tiềm lực tài chính của khách hàng.
 Mục đích vay vốn và hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn vay, khả
năng trả nợ Ngân hàng khi đến hạn thanh tóan.

 Tài sản thế chấp, cầm cố của bên đi vay.
Nếu dùng từ ngữ chuyên ngành thì đây chính là khâu thẩm định dự án tài
chính. Nó xem xét dự án trên 2 khía cạnh: tính khả thi của dự án và khả năng
thanh tóan của khách hàng. Khi thấy tính khả thi của hồ sơ cho vay thì giám đốc
ngân hàng (hoặc giám đốc chi nhánh) sẽ quyết định phê duyệt hay không để
phản hồi lại cho khách hàng là món vay của họ được chấp nhận hay không.
Tiếp đó thì hồ sơ xin vay đã được thủ trưởng của cơ quan ký (giám đốc ngân
hàng hoặc chi nhánh) sẽ được chuyển trực tiếp cho cán bộ có thẩm quyền phụ
trách các món vay (thông thường là cán bộ tín dụng) để cán bộ tín dụng hướng
dẫn khách hàng lập hợp đồng (tín dụng). Sau đó đơn xin vay và hợp đồng vay
tiền được cán bộ tín dùng chuyển tiếp cho bộ phận kế tóan để họ thực hiện
nghiệp vụ kế tóan vào sổ sách và xuất tiền vay cho khách hàng. Cũng tùy vào
nhu cầu sử dụng tiền vay mà có thể khỏan vay được xuất ra dưới dạng tiền mặt
hoặc được chuyển thẳng vào tài khỏan giao dịch của khách hàng, qua đó khách
hàng có thể thực hiện giao dịch qua tài khoản liên ngân hàng hoăc sử dụng các
công cụ khác như séc bảo chi, thư tín dụng…
Thông thường thì thời hạn cho vay được hai bên: khách hàng và ngân hàng
thỏa thuận khi thiết lập hợp đồng vay. Sự thỏa thuận này căn cứ vào nhiều thành
tố khác nhau, có thể dẫn ra một vài thành tố cơ bản chi phối đến quyết định về
thời hạn như sau:
 Thời hạn sử dụng vốn của bên đi vay, có thể ngắn, dài tùy vào dự án
của họ và mục đích sử dụng vốn.
 Lượng và tính chất vốn cho vay, nếu lượng vốn cho vay là ít thì có thể
cho vay trong thời gian dài, còn lượng vốn cho vay lớn hơn thì hai bên fải
thỏa thuận.
 Lãi suất cho vay, điều này quyết định đến lợi ích của cả hai bên, đây là
một yếu tố khá nhạy cảm, thông thường thì ngân hàng đưa ra lãi suất cho
vay theo một khung có sẵn, tuy vậy hai bên cũng có thể thỏa thuận với
nhau.
 Độ rủi ro mà ngân hàng fải đối mặt, thường thì xuất phát chủ yếu từ

bên đi vay, còn lại một phần là do yếu tố thị trường (yếu tố này chiếm
phần ít hơn).
Khi thời hạn cho vay đã được hai bên đồng í thì cán bộ phụ trách nghiệp vụ
tín dụng sẽ ghi thời hạn vào hợp đồng vay tiền. Trên thực tế thì phần lớn các
khoản vay đều được ngân hàng phân kỳ hạn nợ và quyết định mức trả nợ một
lần. Tuy vậy đối với các món vay mà khách hàng không có nguồn thu nhập
thường xuyên hoặc thời hạn vay quá ngắn thì ngân hàng không phân kỳ hạn nợ
mà ghi trên hợp đồng là thời hạn trả nợ cuối cùng. Cũng phải nói thêm: phân kì
hạn nợ là hoạt động chia nhỏ khoản nợ ra các khoản nhỏ rồi quy định thời hạn
trả cho từng khoản đó, như vậy sẽ dễ dàng cho khách hàng có nhu cầu vay
khỏan lớn, có thể dễ dàng trả các khoản nhỏ mà không cần tập trung một lượng
tiền lớn để trả ngân hàng. Trong quá trình cho vay vốn, ngân hàng luôn fải kiểm
tra thường xuyên về khoản cho vay của mình: khách hàng có sử dụng đúng mục
đích không. Thông thường thì trước ngày đến hạn, cán bộ cho vay sẽ phải lập
thông báo và gửi nó đến cho khách hàng, báo với họ về khoản nợ sắp đến hạn
và nhắc nhở họ chuẩn bị trả tiền. Trong trường hợp khách hàng trả trước hạn thì
luôn có một lãi suất thấp hơn lãi suất áp dụng cho khoản vay, đó là do khoản
chiết khấu mà khách hàng được hưởng từ việc trả nợ trước hạn, điều này cũng
thúc đẩy, khuyến khích người đi vay tăng thêm trách nhiệm của họ đối với
khỏan cho vay. Khi thanh tóan với ngân hàng, hình thức chủ yếu có thể là uỷ
nhiệm chi hoặc thanh tóan bằng tiền mặt. Trong trường hợp khách hàng đến hạn
không trả nợ thì tùy vào trường hợp cụ thể mà ngân hàng có thể gia hạn nợ hoặc
chuyển nợ quá hạn. Trong trường hợp do lý do khách quan thì khách hàng cần
fải làm đơn xin gia hạn nợ và gửi trực tiếp đến ngân hàng trước thời gian đến
hạn của món vay.
Như vậy phương thức cho vay từng lần luôn phân định rõ thời gian cho vay
và thời gian trả nợ, trên thực tế mặc dù được sử dụng rất nhiều nhưng nó bộc lộ
khá nhiều ưu và nhược điểm:
• Ưu điểm:
 Đây là phương thức cho vay được đánh giá là linh họat trong

quá trình sử dụng vốn của ngân hàng, giúp cho ngân hàng
mở rộng được kinh doanh, phục vụ các đối tượng của nó mà
vẫn đảm bảo được tính an tòan do kiểm soát tốt được tình
hình dự án mà bên đi vay đang chuẩn bị thực hiện, qua đó
nắm thế chủ động, giúp cho ngân hàng tạo được uy tín do
hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả.
 Với các thời điểm cho vay và trả nợ được xác định trước,
ngân hàng luôn chủ động trong việc huy động, quản lý và sử
dụng nguồn vốn của mình một cách hợp lý, tránh tình trạng
ứ đọng vốn, thay vào đó vốn luôn trong trạng thái luân
chuyển, nói một cách khác, phương thức cho vay từng lần
giúp quá trình quản lý vốn của ngân hàng trở nên hiệu quả
lên rất nhiều.
 Cuối cùng, nhờ có việc quản lý tốt nguồn vốn mà công việc
hạch tóan, kế tóan cho vay, lãi lỗ được thực hiện nhanh
chóng, đơn giản và thuận tiện.
• Nhược điểm:
 Nhược điểm lớn nhất mà khách hàng hay đề cập đến ở
phương thức cho vay này đó chính là ở khâu thủ tục: rườm
rà. Để có một khoản vay nhỏ, khách hàng cũng phải thực
hiện đúng các bước, từ nộp hồ sơ, đợi xét duyệt cho đến thỏa
thuận hợp đồng, như vậy, đối với những khoản vay vớn, có
tính chất cấp bách thì vô hình chung phương pháp cho vay
này đã làm tăng thêm chi phí cơ hội của bên đi vay.
 Bên cạnh đó, việc thường xuyên theo dõi, quản lý nguồn vốn
gây ra một chi phí phụ cho việc quản lý vốn của ngân hàng,
nó làm tăng chi phí đầu vào, làm giảm doanh thu dự kiến của
ngân hàng: đầu tư quản lý nhiều cho một khoản cho vay nhỏ
thu lãi thấp; mặt khác, việc quản lý, giám sát thường xuyên
sẽ gây tâm lý không tốt cho khách hàng, họ có cảm giác bị

trói buộc nhiều, làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh
doanh bên đi vay.
 Nếu có rủi ro trong lúc trả nợ của khách hàng thì ngân hàng
sẽ là người bị ảnh hưởng rất lớn bởi kế hoạch của họ đã lên
từ trước, nếu khách hàng không trả các khỏan nợ đúng hạn
nhiều khi dẫn đến hiện tượng vốn lưu động của ngân hàng bị
khách hàng chiếm dụng một cách vô lý. Nguyên nhân của
hiện tượng này là do phần lớn thời gian hoàn trả nợ là mang
tính chủ quan của cả hai bên: ngân hàng và người đi vay
vốn.
Như vậy phương pháp cho vay từng lần đã được nêu ở trên tuy được sử
dụng khá phổ biến, nhưng còn rất nhiều bất cập, nhất là trong khâu thủ tục và
việc định thời gian hoàn trả vốn và lãi, ta hãy cùng xem xét phương pháp cho
vay theo hạn mức tín dụng, đây cũng là một phương thức cho vay phổ biến thứ
hai trên thực tế hiện nay tại nước ta.
1.1.3.2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Phương thức thứ hai này được áp dụng cho việc cho vay và thu nợ căn cứ
vào quá trình nhập và xuất vật tư hàng hóa, nó làm giảm tính chủ quan của
phương pháp đầu tiên. Bên cho vay sẽ xuất vốn cho bên đi vay khi bên đi vay
có nhu cầu vốn phát sinh để nhập nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất,
kinh doanh: nhập vật tư hàng hóa, đồng thời thì việc thu nợ sẽ căn cứ vào việc
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp khi họ bắt đầu thu được lợi nhuận
từ hoạt động này. Theo đó thì khách hàng sẽ được ngân hàng cấp cho một hạn
mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một vòng quay
kinh doanh của khách hàng).
Căn cứ vào định nghĩa trên, chúng ta có thể đưa ra được một kết luận đơn
giản: đối tượng của phương thức cho vay từng lần là cá nhân, tập thể, doanh
nghiệp… có nhu cầu sử dụng vốn vay thường xuyên cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Thực vậy, trong thực tế khảo sát thì đối tượng của
phương pháp này thường là:

 Các doanh nghiệp mà trong quá trình hoạt động kinh doanh thường
xuyên có nhu cầu vay vốn.
 Khách hàng có quan hệ lâu dài và thường xuyên với ngân hàng (có độ
tin cậy cao, tình hình tài chính tốt…).
 Khách hàng có số vòng quay lớn trong một chu kì kinh doanh.
Thủ tục và hồ sơ được phải tuân theo quy trình sau: đầu tiên khách hàng cần
làm một đơn xin vay vốn gửi đến đơn vị cho vay (có đi kèm theo với kế hoạch
vay vốn của họ nhưng kế hoạch fải được xuất phát từ thực tiễn đó là chu kì kinh
doanh của doanh nghiệp, bên cạnh đó là kế hoạch tài chính). Tất cả những tài
liệu này gửi trực tiếp tới bộ phận phân tích của ngân hàng để xem xét và tính
tóan về kế hoạch của khách hàng. Trong quá trình lập hồ sơ xin vay vốn, bên đi
vay cần lưu í đưa ra số liệu về nhu cầu vay vốn của họ trong quý, công thức
dưới đây được đưa ra để tham khảo (nó được sử dụng phổ biến trên thực tế):
Nhu cầu vay
vốn
Nhu cầu sản xuất kinh
doanh
Vốn lưu động

=

-
Quý, kế
hoạch
Tự có và tự huy
động
Giải thích các kí hiệu:
 Vốn sản xuất kinh doanh quý kế hoạc là nhu cầu vốn cần thiết để phục
vụ cho họat động sản xuất kinh doanh trong một quý, nó bao gồm các
thành tố đầu vào như vật tư hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu cho tới các

yếu tố đầu ra như chi phí tiêu thụ sản phẩm…
 Vốn lưu động tự có và tự huy động là nguồn vốn mà cá nhân, doanh
nghiệp có thể tự xoay sở được mà không cần tới sự giúp đỡ của ngân
hàng, có rất nhiều nguồn: vốn tự có, vốn góp, vốn do ngân sách cấp, vốn
liên doanh, các khỏan tạm thời sử dụng, lãi chưa phân phối….

×