Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.19 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHTM.
I. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN ĐỐI VỚI NHTM.
1. NHTM và chức năng của NHTM.
1.1. Khái niệm NHTM.
Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường là tất yếu dẫn
đến sự ra đời của các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là các NHTM.
Ở Việt Nam, từ năm 1988 mới hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp,
bao gồm:
- Ngân hàng Trung ương: cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
- Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh
tiền tệ.
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”.
Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan
nhà nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ
phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật
pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của
bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam


và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
Vậy NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín
dụng hay NHTM là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Có thể nói NHTM
đã có một quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng
về sau, theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các nghiệp
vụ của các ngân hàng càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay các NHTM
có xu hướng phát triển ngày càng cao với quy mô rộng để tạo khả năng huy
động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát
triển của các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi quốc gia mà mang tính
chất toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB)… việc trang bị hệ thống máy móc thiết bị hiện đại càng làm cho hoạt
động ngân hàng trở nên hoàn hảo.
Ở Việt Nam cũng vậy, quá trình xây dựng và phát triển ngân hàng đã
phải trải qua những giai đoạn khó khăn, phức tạp nhưng sự phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam có những nét khác biệt so với các ngân hàng trên
thế giới. Trải qua hơn 10 năm đổi mới, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành nghị định 53 HĐBT (26/3/1988) với
nội dụng “Cải tổ ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một cấp duy nhất
trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thành định chế ngân hàng
hai cấp theo hướng kinh tế thị trường”. Ngày 23/5/1990 nhà nước đã ban
hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngày 26/12/1997, hai pháp lệnh trên được
thay thế bằng hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng, tạo được một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động ngân hàng.
Bộ mặt ngành ngân hàng đã thay đổi, hoạt động sôi nổi và đầy ý nghĩa, đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành.
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định
được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi
chính sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho
vay đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của

mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự
quản lý của Ngân hàng Trung ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống
NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ
hơn vê NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của NHTM đối với quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu chức năng, vai trò của
NHTM.
1.2. Chức năng của NHTM.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong những năm gần đây thường
xuyên đổi mới nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế năng động và sự
điều chỉnh của pháp luật. Xét về mặt hình thức, tuy vẫn là những nghiệp vụ cơ
bản như nhận tiền gửi, cho vay, chi trả hộ nhưng ngân hàng đã mở rộng cả về
quy mô, phương thức đặc biệt là công nghệ. Cho nên các NHTM ngày càng
khẳng định được vị thế của mình trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Điều này được minh họa thông qua chức năng của NHTM sau đây:
1.2.1. Chức năng trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế đó là: cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập; do đó họ là những
người cần bổ sung vốn; loại cá nhân và tổ chức thứ hai là những người thặng
dư trong chi tiêu, tức là thu nhập của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng
hóa và do đó họ có tiền để tiết kiệm.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan
trọng trong việc điều chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn khi
họ có nhu cầu bổ sung vốn. Cụ thể, NHTM thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong
xã hội thông qua các phương thức huy động vốn khác nhau với những thời hạn
khác nhau nhằm tập trung một lượng vốn để đáp ứng nhu cầu của các thành
phần kinh tế. Chính việc điều chuyển này mà các NHTM có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức
sống của dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Qua đó, NHTM góp phần quan

trọng vào việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế
lạm phát.
Nhờ việc đi vay để cho vay, NHTM có nguồn thu chủ lực không những
đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi để duy trì bộ máy hoạt động, đảm bảo
cho sự phát triển không ngừng cho bản thân ngành ngân hàng.
1.2.2. Chức năng tạo phương tiện thanh toán.
Trong quá trình kinh doanh tiền tệ các chủ ngân hàng đã phát hành ra
giấy chứng nhận tiền gửi, tín phiếu được khách hàng sử dụng để chi trả các
khoản nợ. Vì vậy vàng được chuyển đổi ra tiền giấy và được các ngân hàng
đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng để thay thế cho tiền vàng hoặc bạc.
Sáng kiến này được xã hội chấp nhận và đây chính là phát minh có giá trị nhất
trong lịch sử hoạt động tiền tệ. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng
thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập
trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức duy nhất đó là Bộ Tài
chính hoặc Ngân hàng Trung ương. Từ dó chấm dứt việc các NHTM tạo ra các
giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại,
đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu
thông (M
0
) thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách
hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các khoản tiền gửi tiết kiệm và
tiền gửi có kỳ hạn…
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tiết kiệm thanh toán của khách hàng
tăng lên khác hàng có thể dùng để mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, bằng việc
cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán
(tham ra tạo ra M
1

).
Toàn bộ hệ thống NHTM cũng tham ra tạo phương tiện thanh toán khi
các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trên
cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi
trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức là tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng
khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi
không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn
bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện
thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
1.2.3. Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hóa, dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi
phí, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử,
kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn
thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc
thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng
càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó ngày càng được mở
rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các
nhà quản lý sử dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp
phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không những giữa các ngân hàng
trong cùng một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các
trung tâm thanh toán quốc tế được thành lập đã làm tăng hiệu quả của thanh
toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan
trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Do thực hiện chức năng thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền
gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn
vốn cho vay, đầu tư và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ những chức năng của NHTM ta thấy chúng có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau, hỗ trợ cho nhau. Khi NHTM là trung gian tín dụng thì NHTM sẽ huy
động vốn bằng nhiều cách khác nhau, có thể huy động từ các tổ chức kinh tế ,
huy động vốn từ dân cư thông qua các hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu…. Qua đó
ngân hàng sẽ tập trung được một lượng vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh
tế khác nhau và khi họ chưa có nhu cầu sử dụng hoặc chưa đến thời hạn thanh
toán. Ngân hàng sẽ sử dụng chúng để cho vay đối với những người có nhu cầu
vay vốn. Khi các bên có nhu cầu chi trả, thanh toán Ngân hàng sẽ đứng ra làm
trung gian thanh toán. Như vậy, giữa các chức năng của ngân hàng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Khi vai trò trung gian thanh toán làm tốt, khách
hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng và sẽ gửi tiền nhiều vào ngân hàng nhờ
thanh toán hộ. Như thế vốn ngân hàng huy động được sẽ tăng lên, ngân hàng
có thêm vốn để đáp ứng nhu cầu đi vay và chức năng trung gian tín dụng của
ngân hàng lại càng phát huy.
Với chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng trong nền
kinh tế quốc dân, hệ thống các NHTM đã tăng khối lượng tiền lên gấp bội
thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản. Điều này đã làm cho các chức
năng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng tới các hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Tất cả các chức năng trên của NHTM đều đáng lưu tâm. Tuy nhiên, ở
mỗi thời kỳ khác nhau, hoàn cảnh khác nhau của nền kinh tế mà người ta chú
trọng đến một chức năng cơ bản của hệ thống NHTM. Với mục tiêu ổn định
tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì chức năng tạo tiền được lưu tâm hàng đầu. Với
mục tiêu huy động vốn cho đầu tư phát triển thì chức năng nhận tiền gửi để
cho vay của ngân hàng được chú trọng phát huy hơn cả. NHTM còn là trung
gian thanh toán thỏa mãn nhu cầu thanh toán, giao dịch trong nền kinh tế
hàng hóa…
1.3. Vai trò của NHTM.
1.3.1. NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại hay tiến hành bất kỳ một hoạt động
kinh doanh nào cũng đều cần phải có vốn, bởi vốn là giá trị của các tài sản xã

hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Chính vì vốn
có vai trò quyết định trong việc tạo ra của cải vật chất và những tiến bộ xã hội
nên nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, dù hoạt động ở lĩnh vực nào thì vốn cũng
là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả hoạt động của
nó. Trong lĩnh vực thương nghiệp vốn làm tăng khả năng dự trữ hàng hóa, đẩy
nhanh tốc độ vận chuyển hàng hóa đến tay người tiêu dùng góp phần thúc đẩy
việc tiêu thụ sản phẩm. Trong lĩnh vực tài chính, vốn giúp chính phủ cải thiện
được tình hình thiếu vốn của Ngân sách vì thu nhập của Nhà nước không phải
lúc nào cũng đủ để bù đắp chi phí. Bên cạnh đó, cùng với việc thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, vốn sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, đồng thời nó tạo ra quá trình đào
thải đối với những doanh nghiệp mà nguồn vốn tích lũy thấp, sử dụng vốn kém
hiệu quả, sản xuất nhỏ, lạc hậu không đủ sức cạnh tranh.
Từ những lý do trên, ta thấy vốn đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng nguồn vốn đó lấy từ đâu? ai là người
cung ứng vốn cho nền kinh tế? Thực tế ở nước ta cho thấy, do thị trường
chứng khoán chưa phát triển nên NHTM đóng vai trò là tác nhân quan trọng
trong việc cung ứng vốn. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng đã tạo ra
khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực. Đồng
thời, khi thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tư vấn, hỗ trợ cho các hoạt động
sản xuất của các doanh nghiệp đã góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển
hàng hóa, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. NHTM còn đóng vai trò quan trọng
trong việc tài trợ dự án, các chương trình xây dựng cơ bản, tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật của đất nước và hỗ trợ các chương trình dự án tạo việc làm
cho người lao động, tạo điều kiện nâng cao mức sống của họ.
Nhưng không phải chỉ có những nước chưa có thị trường chứng khoán
hoặc thị trường chứng khoán chưa phát triển mà ngay tại các nước có thị

trường chứng khoán phát triển thì ngân hàng vẫn là một tác nhân quan trọng
trong vấn đề cung cấp vốn vì không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đủ điều
kiện để tham gia thị trường chứng khoán. Hơn nữa, thị trường chứng khoán
hoạt động thì NHTM vẫn có vai trò như là một chiếc cầu nối giữa thị trường
tiền tệ và thị trường chứng khoán. Ngoài ra khi thực hiện chức năng trung
gian tín dụng, trung gian thanh toán NHTM còn góp phần giám sát kỷ luật tài
chính quốc gia trong quá trình triển khai các hoạt động tiền tệ – tín dụng.
1.3.2. NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là một bộ phận quan
trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế – tài chính vĩ mô của Chính phủ.
Chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà Ngân hàng Trung ương
thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu
thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất
nước trong từng thời kỳ nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, mức cung tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến
tăng trưởng kinh tế, thông qua sự thúc đẩy mức tăng giảm tổng sản phẩm
quốc nội (GDP). Do đó sự điều tiết của Ngân hàng Trung ương đối với khối
lượng tiền trong lưu thông là rất cần thiết sao cho phù hợp với những diễn
biến của nền kinh tế để góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định, kiềm chế
được tốc độ gia tăng của lạm phát. Muốn điều tiết được khối lượng tiền tệ này,
Ngân hàng Trung ương phải thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và gián
tiệp như: lãi suất cơ bản, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết
khấu, hoạt động của thị trường mở…. Nhưng phần lớn các công cụ thực hiện
chính sách tài chính – tiền tệ của Ngân hàng Trung ương chỉ được thực thi có
hiệu quả khi có sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các NHTM. Đó là việc
chấp hành quy chế dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt,
đến việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
NHTM chịu sự quản lý của nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của
Ngân hàng Trung ương nên khi thực hiện các nghiệp vụ của mình NHTM đều

phải tuân theo các quy chế , văn bản do Ngân hàng Trung ương ban hành.
Từ chức năng, vai trò của NHTM ta thấy NHTM thực chất là tổ chức kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, là một tổ chức trung gian tài chính với
chức năng nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán
2. Vốn và nguồn vốn của NHTM.
Hoạt động của NHTM luôn gắn liền với công tác huy động vốn. Vậy ta
hiểu như thế nào là vốn?
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tạo nguồn vốn và
đầu tư vốn là công việc của Nhà nước, nghĩa là Nhà nước đóng vai trò vừa
là người cấp phát vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế, vừa là người tiêu
thụ các sản phẩm mà các thành phần kinh tế đó sản xuất. Vốn của các doanh
nghiệp chủ yếu do ngân sách của Nhà nước cấp hoặc vay tín dụng ngân
hàng với lãi suất thấp. Thực tế cho thấy, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp
là rất lớn trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp lại có hạn và nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư không thu hút được,vì chính sách huy động vốn
chưa hợp lý, thủ tục gửi tiền và rút tiền còn rườm rà… Như vậy cơ chế bao
cấp đã làm cho đồng tiền không được lưu thông và sử dụng có hiệu quả,
không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường. Mặt khác cơ chế huy động
vốn và sử dụng vốn trong thời kỳ này chưa được quan tâm đúng mức.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, với chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã khuyến khích các thành
phần kinh tế tự bỏ vốn đầu tư. Điều đó làm cho vốn trở thành yếu tố quan
trọng hàng đầu và là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu tư sản xuất
kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước không thể bỗng dưng mà có được
vốn vì không được cấp vốn như trước nữa, cho nên buộc họ phải tìm cách
mua vốn trên thị trường tài chính. Như thế người mua vốn phải trả lãi cho
người có vốn trên thị trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn
trong thời gian xác định. Thông qua thị trường, vốn được lưu chuyển rộng
rãi, từ đó nó mới có thể thể hiện đủ bản chất và vai trò của mình. C.Mác đã
khái quát hoá phạm trù vốn là: “Tư bản” qua định nghĩa hết sức cô đọng: “tư

bản là giá trị mang lại thặng dư”.
Như vậy, vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản
tức là vốn phải được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất
định. Mặt khác vốn không chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá
quý…) và phản ánh giá trị những tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai,
nhà cửa…) mà còn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản vô hình
(uy tín, trình độ, phát minh, sáng chế, thông tin, công nghệ…) chính vì sự
biểu hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng đó mà vốn cần phải
được khai thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận cao. Và cũng qua
đó giúp ta phân biệt với tiền lương dễ dàng hơn: nếu có một lượng tiền
được in không được phát hành trên cơ sở giá trị thực của hàng hoá để đưa
vào đầu tư thì đó chỉ là vốn giả tạo chứ không phải là vốn đầu tư, thực chất
chỉ những đồng tiền phát hành trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị thực của
hàng hoá mới được gọi là vốn.
Như ta đã biết trong quá trình vận động, khác với các loại hàng hoá,
điểm xuất phát và điểm kết thúc của vốn đều là tiền. Sau một chu kỳ vận
động vốn được lớn lên và đem lại hiệu quả cao, thể hiện:
Trong doanh nghiệp sản xuất:
T-H..SX..H-T’ T’= T+t >T
Trong NHTM:
T=H-T’
Còn trong các tổ chức tài chính trung gian:
T=T-T’
Tóm lại từ những nét đặc thù trên ta có thể đưa ra khái niệm như sau:
Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả
trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh
vực nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của nó.
Hoạt động ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả mang
lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần phải được quan tâm đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện

công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều
kiện hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh
tế có thể ví như máu trong cơ thể. Thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển.
Song vốn được tạo lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế,
chính sách tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập
và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp
cho ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan
trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
nói riêng cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
Tuy nhiên, nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác.
2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng là bộ phận vốn riêng của ngân hàng, nó
thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Cũng như bất cứ tổ chức kinh tế nào khác,
muốn đi vào hoạt đông sản xuất kinh doanh phải có vốn riêng thuộc sở hữu
của mình. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các tổ chức kinh tế thực hiện
việc kinh doanh.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trên tổng
nguồn vốn nhưng lại có vai trò hết sức quan trọng. Bởi nó mang tính chất ổn
định và có thể sử dụng trong mọi hoạt động kinh doanh và trong quá trình
hoạt động nó, là cơ sở quyết định đến phương hướng phát triển của ngân
hàng. Các nhà quản lý ngân hàng lấy mức vốn chủ sở hữu để xây dựng kế
hoạch, khả năng huy động vốn và việc mở rộng hay chuyển hướng đầu tư
trong quá trình sử dụng vốn.

Các NHTM được phép dùng vốn chủ sở hữu để mua các tài sản cố định
như: nhà cửa, thiết bị văn phòng… để có thể vận hành hoạt động được. Ngoài
ra, đây còn là nguồn bổ sung vào các khoản mục cho vay và đầu tư mà nguồn
vốn huy động không đáp ứng đủ với lý do về thời hạn. Vốn chủ sở hữu của
ngân hàng dùng để chống đỡ sự sụt giảm giá của các tài sản có của NHTM,
đảm bảo khả năng thanh toán cho người gửi tiền… Vì vậy, nguồn vốn chủ sở
hữu có vai trò trong hoạt động của ngân hàng với các chức năng: Chức năng
bảo vệ, chức năng đảm bảo thanh toán, chức năng hoạt động.
Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và nguồn
vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
2.1.1. Vốn điều lệ.
Vốn điều lệ là mức vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng, tối thiểu
phải bằng vốn pháp định. Đây là điều kiện quyết định để ngân hàng được phép
thành lập và hoạt động. Đối với mỗi loại hình sở hữu ngân hàng vốn điều lệ có
nguồn gốc khác nhau. Vốn điều lệ do Ngân sách Nhà nước cấp đối với NHTM
quốc doanh, vốn điều lệ do cổ đông góp đối với NHTM cổ phần, vốn điều lệ do
các bên đóng góp đối với các ngân hàng liên doanh… Mức vốn điều lệ của mỗi
ngân hàng phụ thuộc vào mức góp vốn của mỗi chủ sở hữu ngân hàng song
nhìn chung không được thấp hơn mức vốn pháp định mà Chính phủ quy định.
Vốn điều lệ chính là căn cứ pháp lý để thành lập ngân hàng, là chỉ tiêu phản
ánh quy mô, năng lực hoạt động của ngân hàng.
2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng ngân hàng,
từng loại hình ngân hàng, ngân hàng có thể bổ sung từ lợi nhuận để lại hoặc
bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
Nguồn bổ sung từ lợi nhuận: trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn
không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển
một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy phụ thuộc vào quyết
định của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm,

nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn so với vốn chủ sở hữu hình thành
ban đầu.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở
rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia
tăng thêm vốn chủ sở hữu do Ngân hàng Trung ương quy định… Đặc điểm của

×