Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước -Tiểu luận cao học,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.42 KB, 27 trang )

1

MỞ ĐẦU
Từ khi ra đời cho đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được lịch sử cách mạng và được xã hội thừa nhận như một tất yếu của lịch sử. Điều
4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận Đảng Cộng sản
Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng được
coi nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, là vấn đề mang tính nguyên
tắc và quy luật của cách mạng Việt Nam.
Để tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đòi hỏi phải không ngừng xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó Đảng
ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nhờ vậy,
phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Trong khi khẳng định bước tiến đã đạt được trên lĩnh vực này, Đại hội XI của
Đảng cũng chỉ ra rằng: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm
đổi mới”1.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công băng, văn minh, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân với những thiết chế vừa mở rộng dân chủ, nâng
cao dân trí, vừa tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội. Tình hình đó đòi hỏi vừa phải
đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, vừa đổi mới và nâng cao chất lượng
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Với những lý do trên tôi chọn vấn đề: “Đổi
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011,
tr. 175.




2

mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay” làm tiểu luận
kết thúc học phần Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo các lĩnh vực trọng yếu.


3

NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC

Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là để lãnh đạo nhân dân Việt Nam
làm cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, mưu cầu hạnh
phúc cho nhân dân. Lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Đảng trở thành
người lãnh đạo Nhà nước. Song, việc nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước cũng không phải ngay lập tức đạt trình độ thuần thục của nó và
do đó, trong thực tiễn, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng có
sự hoàn thiện dần từng bước với hiệu quả tương ứng.
Đại hội IV của Đảng chưa sử dụng khái niệm "phương tức lãnh đạo của
Đảng", nhưng ở đó đã nêu ra nhiều chỉ dẫn quan trọng về vấn đề này:
- Về nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, ở đó chỉ rõ: Sự lãnh
đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, bảo đảm
tốt sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một điều kiện quyết định để tăng
cường Nhà nước, nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Mặt khác, Đảng không thể lãnh
đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu
không có Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân thể hiện

tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua Nhà nước. Phải thường
xuyên kiện toàn bộ máy nhà nước, nâng cao không ngừng quyền lực và hiệu quả
quản lý của Nhà nước mới hoàn thành được những nhiệm vụ chính trị do Đảng đề
ra, mới thực hiện được sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Nâng cao năng lực tổ
chức của Đảng trong việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy Nhà nước với
tư cách là một công cụ sắc bén nhất để tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của


4

Đảng. Vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng cao là dấu hiệu quan
trọng nhất nói lên trình độ và năng lực cầm quyền của Đảng.
- Về cách thức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Đảng
quyết định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của Nhà nước và những
vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp. Thông qua Nhà nước,
đường lối, chính sách của Đảng biến thành quyết định của bản thân quần chúng.
Đảng dựa vào các tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng để kiểm tra sự hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Tiếp tục những tư tưởng cơ bản trên đây, Nghị quyết Đại hội V của Đảng
cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trước hết là lãnh đạo thật tốt việc
xây dựng và củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, ngày nay, Đảng lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng chủ yếu thông qua Nhà nước. Năng lực lãnh đạo của tổ chức
đảng thể hiện ở chỗ không lơi lỏng sự lãnh đạo đối với những vấn đề quan trọng về
đường lối, chính sách, chủ trương, nhưng không sa vào những việc quản lý và điều
hành cụ thể, không lấn át quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước. Tổ chức
đảng ở một địa phương, một cơ sở phải biết lựa chọn đúng những việc thuộc phạm
vi lãnh đạo của Đảng. Cần cải tiến các phương pháp, hình thức lãnh đạo của tổ
chức đảng đối với cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp.
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng - Đại hội đánh dấu thời kỳ đổi mới toàn

diện đất nước - đặt vấn đê đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Ở Đại hội này,
tư tưởng đổi mới, chủ trương đổi mới, cho đến khái niệm “đổi mới” được đề ra
trong phần thứ năm - phần về Đảng - một cách tập trung và rõ nét hơn cả trong
phần thứ hai về kinh tế, và được phát triển khá kỹ về bốn mặt: đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong
cách lãnh đạo và công tác. Tuy nhiên, ở đó chỉ nói về đổi mới phong cách làm việc
chung của Đảng, hoàn toàn không đề cập đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối


5

với Nhà nước. Điều đó có thể xuất phát từ quan niệm cho rằng, những nội dung cơ
bản có liên quan tới vấn đề này đã được xác định tương đối đầy đủ trong văn kiện
Đại hội IV, Đại hội V và những nội dung đó còn nguyên giá trị, chưa cần bổ sung,
nên không nhắc lại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội
được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua đã làm rõ nội dung cơ bản trong
phương thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác: bằng công tác
tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương
mâu của đảng viên. Đàng giới thiệu những đảng viên ưu tu có đủ năng lực và phẩm
chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng
không làm thay công việc của các tố chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”1.
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1994) khẳng định rằng sự lãnh
đạo của Đảng được thực hiện bằng cách: “Đảng đề ra đường lối, chính sách xây
dựng và bảo vệ đất nước; nắm vững tổ chức và cán bộ để bảo đảm thực hiện có kết
quả đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể

lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông
qua cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo
dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn
nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ
không điều hành thay Nhà nước”2.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật,
Hà Nội. 1991, tr. 21.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội. 2005, tr. 438-439.


6

Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị;
đề ra đường lối, chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước, nắm vững tổ chức và cán
bộ để bảo đảm thực hiện có kết quả đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua
tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết
định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện,
khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc. Đảng lãnh đạo phát huy
mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không điều hành thay Nhà nước.
Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và
chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình”1.
Có thể nói, lúc này, quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng và nội
dung đổi mới nó đã đạt được độ chín muồi. Do vậy, Đại hội IX của Đảng tập trung
làm rõ vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:
“Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối,

chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước”2.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ: “Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện
hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo
đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp,
từng loại hình tổ chức nhà nước” 3. Đó chính là sự đổi mới nhằm phát triển và tiếp
tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996,
tr. 150.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001,
tr. 144-145.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006, tr.
138.


7

Đại hội XI khẳng định: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
trong đó cần “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng
bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình
trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà
nước”1.


II. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
– VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ QUAN NIỆM

1. Vị trí, vai trò phương thức lãnh đạo của Đảng
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011,
tr. 264.


8

Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được lịch sử chứng minh và được xã hội thừa
nhận như một tất yếu lịch sử, Điều 4 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyển lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”1.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tô quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, là
vấn đề có tính nguyên tắc, tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện có
hiệu quả vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn luôn nghiên cứu, tìm tòi phương
thức lãnh đạo hợp lý, đúng đắn, phù hợp với những đòi hỏi khách quan của từng
giai đoạn lịch sử nhất định.
Gần 30 năm đổi mới vừa qua, để đưa công cuộc đổi mới tiến lên, Đảng ta
xem phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, phát triển văn hoá để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Việc
thực hiện nhiệm vụ đó đòi hỏi Đảng phải có bước phát triển toàn diện; vì vậy, đã
có nhiều chủ trương nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, tổ chức; coi trọng nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên,

không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo của mình. Nhờ đó, sức chiến đấu
của Đảng được nâng lên, vai trò lãnh đạo của Đảng được củng cố và tăng cường,
niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố vững chắc... Tuy
nhiên, không phải mọi vấn để liên quan tới công tác xây dựng Đảng đều đã có
bước tiến tương xứng với yêu cầu của quá trình đổi mới.
Là một đảng duy nhất cầm quyền, đã và đang lãnh đạo toàn dân tộc thực
hiện sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn coi phương thức lãnh đạo là một vấn đề có vị
trí quan trọng hàng đầu, cùng với nội dung lãnh đạo, bộ máy tổ chức hợp thành
hoạt động lãnh đạo của Đảng. Vấn để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
1

Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.14.


9

cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan phù hợp với xu thế chung của lịch sử và cũng là
đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, sự tìm tòi một phương
thức lãnh đạo đúng đắn, khoa học là cả một quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn
mà ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã đặt ra.
Đảng ta xác định phương thức lãnh đạo là một nội dung cơ bản và quan
trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm giữ vững và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Phương thức lãnh đạo là một bộ phận có vai trò ngày càng quan
trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Đảng. Phương thức lãnh đạo có vị trí rất quan trọng trong việc
hiện thực hóa nội dung lãnh đạo, trong việc hoàn chỉnh nội dung lãnh đạo; nó quy
định việc tổ chức hệ thống Đảng, các cơ quan tham mưu của Đảng, cách thức hoạt
động của các cơ quan đó và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tham mưu của
Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng còn phản ánh trình độ khoa học lãnh đạo

của Đảng ta trong từng giai đoạn lịch sử; phản ánh bản lĩnh lãnh đạo, trình độ nắm
bắt tình hình và đưa ra những quyết sách kịp thời; phản ánh trình độ của cán bộ,
đảng viên, cấp uỷ trong việc vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào trong
thực tiễn; nó cũng phán ánh trình độ dân chủ, dân trí của xã hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ liên quan đến Đảng, mà có
ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến phương thức hoạt động của cả hệ thống
chính trị. Nó liên quan đến cách thức tổ chức, kết cấu bộ máy, cán bộ và
phương thức hoạt động cụ thể của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính
trị - xã hội...
2. Quan niệm về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mói tư duy về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, có thể hiểu:


10

Thứ nhất, "phương thức lãnh đạo của Đảng" - đó là hệ thống các phương
pháp, hình thức, biện pháp, lối làm việc mà thông qua đó, Đảng tập hợp, quy tụ,
phát huy mọi lực lượng của các tổ chức trong hệ thống chính trị và đông đảo nhân
dân nhằm thực hiện thắng lợi đường lối chính trị, nhiệm vụ chính trị đề ra; là cách
thức (tổng hợp các hình thức, phương pháp, biện pháp) Đảng sử dụng để tác động
làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị và cả xã hội hướng hoạt động của
mình vào mục đích chung của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một hệ thống
những nguyên tắc, những quy tắc được rút ra từ hiện thực, trước hết từ Nhà nước đối tượng lãnh đạo, và từ Đảng với tư cách thực thể lãnh đạo - nhằm phát huy sức
mạnh của Nhà nước trong việc hiện thực hóa Cương lĩnh, đường lối, tư tưởng chỉ
đạo, quan điểm cơ bản của Đảng để xây dựng toàn diện một xã hội mới theo những
chuẩn mực, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, mục tiêu căn bản trong lành đạo của Đảng đối với Nhà nước là phát
huy vai trò của Nhà nước trong việc quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào quá
trình xây dựng xã hội mới nhằm làm cho mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách
mạng nói chung, của từng thời kỳ nói riêng được thực hiện có hiệu quả cao; là phát
huy vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hoá, tổ chức thực hiện có hiệu qủa
những quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại; là phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá
trình xây dựng xã hội mới...
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có tác động mạnh mẽ tới
chính bản thân Đảng về tất cả mọi phương diện (như xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh); đến khả năng của Đảng hoàn thành nhiệm vụ của mình trước dân tộc;
đến uy tín chính trị của Đảng đối với nhân dân. Tính đúng - sai trong phương thức


11

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò quyết định hiệu quả hoạt động của
Nhà nước. Chẳng hạn, khi Đảng bao biện làm thay, ôm việc phụ, bỏ việc chính
trong việc lãnh đạo Nhà nước sẽ không phát huy được vai trò của Nhà nước, làm
cho cán bộ nhà nước vừa ỷ lại, dựa dẫm, không sử dụng được quyền lực nhà nước
để quản lý đất nước một cách có hiệu lực và hiệu quả.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một bộ phận của khoa
học lãnh đạo, nó đòi hỏi phải am hiểu và vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa
học: triết học, tâm lý học, xã hội học, chính trị học, luật học sử học, địa lý học, dân
tộc học, tin học, văn hóa học,...
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao giờ cũng được thực
hiện trong một hoàn cảnh, điều kiện cu thể với những đối tượng cụ thể, do đó, nó
luôn có sự thay đổi khi tình hình có sự thay đổi. Nhưng dù cho phương thức lãnh
đạo có sự thay đổi như thế nào, thì cũng chỉ nhằm phát huy tốt hơn vai trò của Nhà
nước trong việc tổ chức triển khai đường lối, quan điểm của Đảng, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân.
Phương thức lãnh đạo là một hình thức biểu hiện của trình độ khoa học và
nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Phương thức lãnh đạo không bao giờ thoát ly khỏi nội dung lãnh đạo, ngược
lại, nó phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo. Chính yêu cầu về nội dung lãnh đạo đòi
hỏi phải có phương thức lãnh đạo phù hợp để tác động đến đối tượng nhằm thực
hiện nội dung. Ngoài ra, phương thức lãnh đạo còn phụ thuộc vào những yếu tố chủ
quan và khách quan sau đây:
+ Tổ chức bộ máy của Đảng và cơ chế vận hành, mối quan hệ, tác động qua
lại giữa các bộ phận trong bộ máy tổ chức của Đảng.
+ Tổ chức bộ máy của Nhà nước, nguvên tắc phân công và phối hợp giữa
các cơ quan quyền lực nhà nước.


12

+ Cơ chế tổ chức bộ máy và mối quan hệ qua lại giữa tổ chức, bộ máy của
Đảng với các tổ chức của Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trình độ cán bộ của Đảng.
+ Đạo đức và phong cách của những người lãnh đạo chủ chốt của Đảng.
+ Bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và thế giới.
+ Ý thức chính trị của quần chúng...


13

II. THỰC TRẠNG VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC


1. Đối với Quốc hội
* Thành tựu:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Trong những năm đổi mới, cùng với quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc
hội, hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới, dân chủ, phát huy được vai trò,
chức năng của Quốc hội. Quốc hội ngày càng thực quyền hơn, hiệu quả lãnh đạo
của Đảng ngày càng nâng lên, thể hiện ở chỗ:
- Các văn kiện của Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
các khóa đã xác lập được quan điểm đúng đắn làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới
tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra các nghị quyết để đưa ra
Quốc hội những định hướng lớn về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp; định hướng, yêu
cầu về tổ chức bầu cử Quốc hội cho từng nhiệm kỳ; định hướng xây dựng các đạo
luật lớn, các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng; định hướng phát triển kinh tế - xã
hội hằng năm; Ban Chấp hành Trung ương quyết định việc giới thiệu nhân sự để
Quốc hội bầu vào chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ. Bộ Chính trị quyết định việc giới thiệu nhân sự bầu vào chức vụ Phó Chủ tịch
nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các ủy ban
của Quốc hội,…


14

- Sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị đối với Quốc hội thể hiện ở
tầm quan điểm, chủ trương, chính sách lớn. Vai trò lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp
là Bộ Chính trị đối với Quốc hội ngày càng theo phương thức là Đảng chỉ nêu định

hướng, nguyên tắc, quan điểm, chủ trương, giải pháp lớn; còn để Quốc hội thảo
luận, dân chủ quyết định theo thẩm quyền những điều khoản của các đạo luật, chỉ
tiêu kinh tế - xã hội hằng năm,… Có những vấn đề tuy lớn nhưng Bộ Chính trị chỉ
nêu phương hướng để Quốc hội thảo luận một cách dân chủ, quyết định về mặt nhà
nước, không áp đặt.
- Đảng lựa chọn và giới thiệu đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất
tốt sang hoạt động ở Quốc hội. Bố trí một số Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên
Trung ương Đảng cần thiết tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội và làm chủ
nhiệm các ủy ban, hội đồng của Quốc hội.
- Trung ương Đảng và Bộ Chính trị thông qua Đảng đoàn Quốc hội và các
đảng viên là đại biểu Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội. Đảng đoàn
Quốc hội chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Quốc hội thực
hiện chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
bộ máy nhà nước; thực hiện đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng, quyết định
những vấn đề về tổ chức, cán bộ theo sự phân công, phân cấp của Bộ Chính trị.
Kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt
động của Quốc hội.
Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội, các cơ quan có liên quan thực
hiện tốt việc chuẩn bị cho các kỳ họp của Quốc hội, bảo đảm cho dự án luật,
những vấn đề quan trọng khác trình tại kỳ họp và các quyết định của Quốc hội phù
hợp với đường lối của Đảng, đồng thời lắng nghe để tiếp thu ý kiến xây dựng của
đại biểu Quốc hội, tôn trọng quyết định của Quốc hội, tăng cường thảo luận, tranh
luận, chất vấn đại biểu Quốc hội, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Quốc hội. Nhờ


15

vậy, hoạt động của Quốc hội ngày càng chất lượng, hiệu quả cao, sôi động hơn, thu
hút sự quan tâm ngày càng rộng rãi của dư luận xã hội trong nước.
* Hạn chế:

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Quốc hội cũng còn một số hạn chế sau đây:
- Còn lúng túng trong nhận thức về phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị
quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị thành luật,
nghị quyết của Quốc hội. Nhận thức về mối quan hệ giữa quyền của Quốc hội với
tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong việc quyết định những chính
sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội… với quyền quyết
định của Đảng với tư cách là đảng lãnh đạo chính quyền còn nhiều điểm chưa rõ.
- Chất lượng nhiều dự thảo luật còn thấp, năng lực làm luật còn nhiều hạn
chế, khiến cho một số quy định pháp luật không mang tính khả thi hoặc thiếu chặt
chẽ nên phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần; việc chuẩn bị một số dự án luật còn
kéo dài, Quốc hội mất nhiều thời gian thảo luận về những vấn đề kỹ thuật. Một số
luật từ văn bản luật chuyển thành nghị định, thông tư rất lâu nên luật chậm đi vào
cuộc sống.
- Việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội còn lúng túng, hiệu quả
chưa cao. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong điều kiện một đảng cầm quyền chưa
được nghiên cứu sâu và toàn diện về lý luận và thực tiễn.
2. Đối với chính phủ và các bộ, ngành thuộc Chính phủ
* Thành tựu:
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội,


16

Trong quá trình đổi mới, Đảng đã có đổi mới quan trọng về phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ, ngày càng phù hợp với vị trí và trách nhiệm
của Đảng cầm quyền cũng như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ là
cơ quan công quyền, vừa không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa

nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Chính phủ; giảm bớt tình trạng bao biện,
làm thay, “lấn sân” giữa Đảng và Chính phủ, thể hiện ở chỗ:
- Đã xây dựng được một hệ thống quan điểm, nguyên tắc đúng đắn về thẩm
quyền và trách nhiệm, về tổ chức bộ máy của Chính phủ. Tổ chức các bộ và cơ
quan ngang bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Chính phủ thống nhất
quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ, các bộ ngành tập trung thực hiện chức
năng đề xuất dự án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy hoạch, chính
sách quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và kiểm tra việc
thực hiện. Chính phủ điều hành vĩ mô, là người cầm lái và giám sát, kiểm tra, kiến
tạo sự phát triển, bảo đảm hiệu lực của bộ máy hành chính nhà nước thông suốt từ
trung ương đến cơ sở.
- Xác định ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ, giữa Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị với Ban Cán sự đảng của Chính phủ. Với tư
cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề về quan điểm,
tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện.
Đảng không quyết định những chủ trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính
phủ. Đảng không làm thay chính quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị
xem xét, quyết định những phương hướng, chủ trương, chính sách lớn trên các lĩnh
vực bảo đảm đúng định hướng chính trị của Đảng. Chẳng hạn, về kinh tế - xã hội,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét, quyết định mục tiêu, phương
hướng kế hoạch, phương hướng ngân sách nhà nước, chính sách về các thành phần


17

kinh tế, cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, quy hoạch phát triển một số vùng, ngành
trọng yếu, chủ trương xây dựng những công trình lớn, trọng điểm quốc gia; chính
sách về văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế v.v.. Trong lĩnh vực cải cách hành
chính, Ban Chấp hành Trung ương ban hành chủ trương, nghị quyết về cải cách

hành chính, còn Chính phủ có nhiệm vụ xây dựng và ban hành kế hoạch tổng thể
về cải cách hành chính cho từng giai đoạn và tổ chức thực hiện. Như vậy, việc lựa
chọn đúng vấn đề quan trọng liên quan tới hoạt động của Chính phủ mà Đảng cần
bàn và ra quyết định là rất cần thiết để tránh được sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh
đạo của Đảng với chức năng quản lý của Chính phủ.
- Đảng bố trí một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương
Đảng tham gia Ban Cán sự Đảng Chính phủ, tham gia lãnh đạo Chính phủ và các
bộ, cơ quan ngang bộ (thông qua cơ chế Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Đảng lãnh
đạo Chính phủ thông qua Ban Cán sự Đảng Chính phủ trực thuộc Bộ Chính trị, còn
Ban Cán sự Đảng các bộ và cơ quan ngang bộ trực thuộc Ban Bí thư. Ban Cán sự
đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp ủy.
Ban Cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và
quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng. Ban Cán sự đảng Chính phủ chịu trách nhiệm chính trước
Trung ương Đảng toàn bộ hoạt động của Chính phủ về thực hiện đường lối, chính
sách, chủ trương của Đảng trong Chính phủ, là người trình các đề án về chủ
trương, chính sách trước Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Trong công
tác cán bộ, đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đang công
tác tại các cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đề xuất
nhân sự, nhận xét, đánh giá cán bộ, các ban đảng Trung ương thẩm định, trình Bộ
Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định. Đối với cán bộ thuộc diện được phân


18

cấp quản lý của Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng Chính phủ quyết
định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có ý kiến thẩm định của các ban đảng
Trung ương.
- Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội nhân dân,

công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh, tăng cường sự quản lý tập
trung thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng và an ninh.
* Hạn chế và vấn đề đặt ra:
- Trong một số trường hợp chưa phân định rõ quyền lãnh đạo của Đảng đối
với quyền quản lý, điều hành của Chính phủ hoặc bộ, ngành. Do đó, không ít
trường hợp còn chồng chéo, trùng dẫm lên nhau, vẫn còn tình trạng cấp ủy bao
biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của chính quyền. Đồng
thời có cả tình trạng cơ quan chính quyền vì sợ trách nhiệm và để “an toàn” nên
đùn đẩy trách nhiệm cho cấp ủy đảng, thẩm quyền vốn của mình nhưng cứ trình ra
xin quyết định của lãnh đạo Đảng.
- Chưa thật làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Ban Cán sự đảng, mối quan hệ
giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với Ban Cán sự đảng của bộ, ngành, quan hệ
giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với Thường trực Chính phủ, với tập thể Chính
phủ; mối quan hệ giữa Ban Cán sự đảng của bộ, ngành với lãnh đạo bộ, ngành,với
đảng ủy bộ, ngành. Đôi khi sự tồn tại của Ban Cán sự đảng còn mang tính hình
thức. Chưa phát huy tốt vai trò và trách nhiệm cá nhân của những cán bộ đảng giữ
những vị trí chủ chốt trong chính quyền.
- Việc bố trí cán bộ đảng vào bộ máy nhà nước để lãnh đạo Chính phủ và các
bộ ngành là vấn đề cực kỳ quan trọng của Đảng cầm quyền. Cần lựa chọn đúng và
bố trí đúng những cán bộ vừa có năng lực lãnh đạo chính trị vừa có năng lực quản
lý nhà nước, quản lý hành chính. Vì vậy, không nên chỉ lấy tiêu chuẩn cán bộ đảng


19

để bố trí cán bộ chính quyền, không phải cứ là đảng viên, cấp ủy viên thì làm việc
gì cũng được; và cũng không phải bất kỳ vị trí công tác nào trong chính quyền
cũng phải do đảng viên hoặc cấp ủy viên đảm nhiệm, không nhất thiết bộ nào cũng
phải có người đứng đầu là Ủy viên Trung ương Đảng.
Cần có cơ chế, quy chế phát huy cao độ trách nhiệm người đứng đầu Chính

phủ và các bộ, ngành, nhất là trong công tác cán bộ; cần xác định rõ mối quan hệ
giữa Ban Cán sự đảng với các ban, ngành Trung ương trong việc đánh giá, quy
hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ thuộc chính quyền.
- Một số chủ trương, chính sách đúng nhưng chậm được thể chế hóa thành
các quy định của Nhà nước; việc tổ chức thực hiện không kịp thời, thiếu kiên quyết
nên đạt hiệu quả thấp. Ví dụ, trong cải cách nền hành chính nhà nước, đấu tranh
phòng chống tham nhũng, lãng phí,…
3. Đối với Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân
* Thành tựu:
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp.
Trong những năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư
pháp có nhiều đổi mới, góp phần bảo đảm cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mọi người dân, bảo đảm
pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất, thể hiện ở chỗ:
- Đảng đã xây dựng được một hệ thống quan điểm tư tưởng chỉ đạo hoạt
động ngành tư pháp, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị,


20

Ban Bí thư, lãnh đạo thể chế hóa những quan điểm đó thành Hiến pháp năm 1992,
Hiến pháp năm 2013, thành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân (2002), và các đạo luật khác. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 ngày 2 tháng 6 năm 2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,trong đó quy định tương đối toàn diện,

có hệ thống mục tiêu, quan điểm, phương thức, nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm
2020; khẳng định yêu cầu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu
quả và đạt hiệu lực cao; Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp để
xây dựng Đề án cải cách tư pháp và chương trình công tác hằng năm của Ban Chỉ
đạo.
- Đã xác định quan điểm về tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động của cơ
quan tư pháp và tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh tư pháp làm cơ sở cho đổi mới,
hoàn thiện tổ chức của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Kể từ Hiến pháp
năm 1992, tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã có một số đổi mới: Chế độ
bầu thẩm phán trước đây đã được thay thế bằng chế độ bổ nhiệm thẩm phán; lập
mới các tòa chuyên trách (tòa hành chính, tòa lao động, tòa kinh tế). Thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, nhiều quy định của pháp luật về
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng
mới, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, qua đó
góp phần nâng cao chất lượng xét xử của tòa án, hạn chế bớt các trường hợp bị xét
xử oan sai. Trong xét xử đã có quy trình khoa học hơn, nâng cao hiệu quả tranh
tụng, coi trọng vai trò của luật sư.


21

Thực hiện Hiến pháp năm 1992 và chủ trương cải cách tư pháp, chức năng,
nhiệm vụ của viện kiểm sát nhân dân được điều chỉnh nhằm thực hiện có hiệu lực
và hiệu quả chức năng chủ yếu của mình, tránh chồng chéo trong hoạt động với các
cơ quan khác, tập trung thực hiện chức năng công tố và kiểm sát tư pháp, giải
quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và phá sản doanh nghiệp.
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự đã
có tiến bộ, chất lượng công tác kiểm sát được nâng lên. Tòa án các cấp và Viện

Kiểm sát các cấp coi trọng việc rèn luyện phẩm chất, nâng cao trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ tòa án và viện kiểm sát.
- Kiện toàn Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao (đều trực thuộc Ban Bí thư). Xác định chức năng, nhiệm vụ, quy chế
làm việc, quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với
hai ban cán sự đảng này; xác định mối quan hệ làm việc với Đảng đoàn Quốc hội,
… Ban Cán sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao phải chịu trách nhiệm lãnh đạo công tác của ngành theo đúng chủ trương,
đường lối của Đảng và quy định của pháp luật, có trách nhiệm trong giải quyết
công tác cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ
và chức danh của cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp khác theo quy định
của pháp luật.
- Đảng lãnh đạo ngành tòa án nhưng tôn trọng tính độc lập trong xét xử của
tòa án. Khi xét xử, tòa án chỉ tuân theo pháp luật, “Thẩm phán Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Vì vậy, đã giảm
nhiều tình trạng cấp ủy can thiệp vào công tác xét xử của tòa án, nhất là quyết định
mức án cụ thể, giảm nhiều tình trạng “bản án bỏ túi”. Đối với một số vụ án đặc biệt
nghiêm trọng có liên quan đến an ninh chính trị, đối ngoại, đến cán bộ thuộc diện
Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý hoặc theo đề nghị của các cơ quan tư pháp, Bộ


22

Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo về chủ trương xử lý, nhưng không quyết định những
vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của các cơ quan tư pháp4.
- Chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, các chức danh
tư pháp và nhân viên hoạt động trong cơ quan tư pháp, bảo đảm cho cơ quan tư
pháp làm tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện nghiêm minh và thống nhất; góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân, chống

bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội,…
* Hạn chế:
- Vẫn còn tình trạng một số cấp ủy can thiệp sâu vào hoạt động nghiệp vụ
của cơ quan tư pháp. Sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong việc xử lý một số vụ án
vẫn còn vướng mắc. Trong thực hành quyền công tố, còn để lọt tội phạm, nhất là
tội phạm về kinh tế. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy
tố, xét xử.
- Quá trình chỉ đạo các cơ quan tư pháp trong kiện toàn tổ chức, bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều hạn
chế; đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu.

III. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Qua gần 30 năm đổi mới, nhờ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và hệ thống chính trị phù hợp với tình hình mới nên đã vừa giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, vừa phát huy và nâng cao hiệu quả quản
lý kinh tế - xã hội của Nhà nước.


23

Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ phải “tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ
quan quản lý nhà nước”.
Theo yêu cầu trên, trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện các giải pháp sau:
1/ Tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn mô hình tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó Đảng vừa là một bộ phận vừa là
người lãnh đạo của hệ thống.

2/ Tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của các cơ quan, thiết chế nhà nước (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
các cơ quan tư pháp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp); vấn đề phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp,…
3/ Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thẩm quyền và trách
nhiệm của Đảng và của Nhà nước, mối quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước.
4/ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp giữa cơ quan, tổ chức
đảng với cơ quan, tổ chức nhà nước ở các cấp, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội.
5/ Tiếp tục tổng kết và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
trong lĩnh vực xây dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, xây
dựng các đoàn thể chính trị - xã hội.
6/ Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, chỉ đạo sát sao hơn hoạt động
thanh tra và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác.


24

7/ Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác cán bộ
trong hệ thống chính trị, bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ.
8/ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc.
9/ Đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng
từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức
đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ

đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của
Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, giảm bớt giấy tờ, hội
họp; cán bộ phải sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm.
10/ Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về đảng cầm quyền, về
phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền.

KẾT LUẬN
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Đấy là sự lựa chọn của đa số nhân dân vì những đóng góp to lớn
của các thế hệ đảng viên của Đảng cho đất nước. Nhưng để Đảng hoàn thành tốt
chức trách là đảng cầm quyền trong điều kiện từng bước xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhằm mục tiêu


25

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, Đảng ta cần được củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; có đạo
đức trong sáng; có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học.
Trong khi nhấn mạnh tính toàn diện của công tác xây dựng Đảng, Đảng ta
hết sức coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị, trong đó trọng tâm là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước. Đây là một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đảng cầm quyền trực tiếp lãnh đạo Nhà nước thực chất là nhằm phát huy tốt
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đảng mạnh đồng nghĩa với Nhà nước
mạnh và ngược lại, Nhà nước mạnh tức là Đảng mạnh. Vì vậy, việc đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng; việc lựa chọn cán bộ tốt, cán bộ giỏi đưa
sang làm công tác quản lý nhà nước là một việc làm thường xuyên, mang tính
quyết định vận mệnh của quốc gia, dân tộc trong tiến trình đi lên của Đảng ta./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.


×