Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 166 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI QUỐC HƯNG

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI QUỐC HƯNG

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Nguyễn Minh Hoàn
2. TS Phan Mạnh Toàn



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Bùi Quốc Hưng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

6
6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho giáo
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của tư
tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến phương hướng, giải pháp

phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.4. Khái quát kết quả các công trình đã tổng quan và những vấn đề luận án
cần tiếp tục nghiên cứu

13

21

2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng trị quốc Nho giáo
2.2. Tư tưởng trị quốc của Nho giáo Trung Quốc
2.3. Tư tưởng trị quốc của Nho giáo Việt Nam

24
28
28
34
57

CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI
VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

78

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO

3.1. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay

3.2. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.3. Nguyên nhân ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giao đối với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH
HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ
TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Phương hướng cơ bản
4.2. Một số giải pháp chủ yếu
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

78
82
116

124
124
132
149
151
152


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội lớn của Trung Quốc, ra đời từ
rất sớm trong điều kiện nhà Chu đang bị suy yếu về địa vị kinh tế và vai trò
chính trị. Với chủ trương xây dựng đất nước thái bình thịnh trị theo khuôn
mẫu của vua Nghiêu, vua Thuấn, tư tưởng trị quốc là một trong những nội
dung chủ chốt của học thuyết chính trị - xã hội Nho giáo.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ những năm đầu công nguyên
trong quá trình đô hộ của chính quyền phương Bắc. Khi mới truyền vào Việt
Nam, mặc dù lúc đầu sự thâm nhập và ảnh hưởng của nó có phần khó khăn
hơn so với các học thuyết khác như Phật giáo và Đạo giáo. Nhưng, trong quá
trình phát triển của lịch sử, nó đã từng bước chiếm ưu thế và có ảnh hưởng
sâu sắc đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và con
người Việt Nam, góp phần vào việc hình thành các giá trị truyền thống của
dân tộc. Từ thời Lê, “Nho giáo đã thành quốc giáo” [24, tr.21] và là hệ tư
tưởng chính thống chi phối toàn bộ đời sống tinh thần, tư tưởng ở nước ta.
Lúc ấy, nó đã trở thành công cụ phục vụ đắc lực để trị nước, tổ chức nhà nước
và quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Nho giáo bàn nhiều về vấn đề trị quốc. Tư tưởng trị quốc được ghi lại
rõ ràng, khá nhiều trong các kinh điển Nho giáo. Các di sản tư tưởng ấy
không những không xa lạ, mà còn gần gũi với văn hóa và con người Việt
Nam trong lịch sử. Nó không chỉ ảnh hưởng đến xã hội và con người Việt
Nam trong quá khứ mà cả trong giai đoạn hiện nay, dù Nho giáo không còn
giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị. Trong nội dung tư tưởng trị quốc của Nho
giáo, bên cạnh những giá trị và những yếu tố có tính hợp lý nhất định thì
những hạn chế có tính lịch sử của nó là điều không tránh khỏi. Vì thế, ảnh
hưởng của nó đến đời sống xã hội nói chung, đến quá trình xây dựng, hoàn


2
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay nói riêng là
sự ảnh hưởng mang tính hai mặt mà chúng ta phải tính đến.

Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tại Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng đã chính thức nêu vấn đề
“Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam”
[14, tr.56] và khẳng định, đó là “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân” [14, tr.56]. Quan điểm đó ngày càng được thể hiện rõ trong các kỳ
Đại hội tiếp theo. Nhất quán tinh thần ấy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII xác định: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn
thiện hệ thống pháp luật” [19, tr.79]. Trước thực tế diễn biến phức tạp hiện
nay, như sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ công chức nhà nước; tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu ở không ít cơ quan công quyền đang là vấn đề nhức nhối thì việc
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hướng đến một “nhà nước
liêm chính”, một “chính phủ kiến tạo” theo yêu cầu của đất nước và xu thế
thời đại là một đòi hỏi bức thiết.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
văn minh”, đòi hỏi phải xem xét ảnh hưởng của những tư tưởng, lý thuyết
chính trị xã hội trong lịch sử, bởi chúng có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực
đến quá trình ấy. Trong số đó, tư tưởng trị quốc Nho giáo có ảnh hưởng sâu
đậm đến con người Việt Nam và đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những điều có ý nghĩa tiến bộ như
quan niệm về xây dựng xã hội ổn định, có trật tự, mọi người sống có đạo đức,
có tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng đồng; tư tưởng lấy dân làm gốc,
chủ trương bảo đảm cho người dân có đời sống vật chất, tinh thần tương đối


3
đầy đủ; đào tạo cán bộ công chức nhà nước có phẩm chất, năng lực gắn với

nhu cầu của đất nước trong những giai đoạn lịch sử cụ thể..., nó cũng có
những ảnh hưởng tiêu cực như tư tưởng địa vị ngôi thứ, đầu óc gia trưởng
thiếu dân chủ, bệnh gia đình trị, cục bộ địa phương; tâm lý thiếu tôn trọng
pháp luật trong một bộ phận nhân dân...
Ảnh hưởng mang tính hai mặt của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Chừng nào những nguyên nhân ấy còn thì tư
tưởng trị quốc Nho giáo sẽ còn ảnh hưởng ở những mức độ nhất định. Do đó,
việc nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, từ đó tìm
ra nguyên nhân, có phương hướng và giải pháp phù hợp để phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó là vấn đề mang ý nghĩa
thực tiễn rõ rệt.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh
chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành triết học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Làm rõ nội dung chủ yếu của tư tưởng trị quốc Nho giáo; phân tích
thực trạng ảnh hưởng và nguyên nhân, đề xuất phương hướng và những giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:


4
- Làm rõ cơ sở hình thành, những nội dung cơ bản trong tư tưởng trị

quốc Nho giáo và sự biến đổi của nó ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho
giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc
Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nho giáo và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay là những vấn đề có nội dung rất rộng, vì thế, luận án
chỉ nghiên cứu về tư tưởng trị quốc của Nho giáo trong mối tương quan, ảnh
hưởng của nó đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Bàn về tư tưởng trị quốc Nho giáo, luận án chủ yếu phân
tích những nội dung của nó được thể hiện trong Nho giáo sơ kỳ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhà nước pháp quyền và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp luận của
CNDV biện chứng và CNDV lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số
phương pháp cụ thể như: phân tích - tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; lịch sử lôgíc; thống kê, đối chiếu, so sánh...


5
5. Đóng góp mới của luận án

- Khái quát và trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản
trong tư tưởng trị quốc Nho giáo và du nhập, biến đổi của nó trong tiến trình
lịch sử Việt Nam.
- Phân tích ảnh hưởng có tính hai mặt của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối
với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay trên một số phương diện cơ bản cùng nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho
giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm các nội dung cốt lõi trong tư tưởng
trị quốc Nho giáo thông qua các tác phẩm kinh điển của học thuyết ấy, vị thế
của nó trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc và trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
- Góp phần nhận diện rõ hơn thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trị
quốc Nho giáo và sự cần thiết phải phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu,
giảng dạy về lịch sử tư tưởng Việt Nam và cho những ai quan tâm đến các
vấn đề về Nho giáo, về nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.


6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
TRỊ QUỐC NHO GIÁO

Nghiên cứu về Nho giáo có không ít công trình của các nhà khoa học
trong và ngoài nước. Trong số đó, có những công trình đã bàn về các khía
cạnh liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho giáo.
Ngay ở Trung Quốc, nơi sản sinh ra học thuyết Nho giáo cũng đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu khá công phu. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn
lịch sử, do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nên những nhận định, đánh giá về Nho
giáo nói chung, tư tưởng trị quốc nói riêng cũng rất khác nhau. Có những lúc
người ta quá đề cao, nhưng có những khi người ta lại phủ định sạch trơn
những giá trị nhất định của nó. Một số công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học Trung Quốc cũng đã được dịch ra tiếng Việt, tiêu biểu như:
Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc của Lã Trấn Vũ được ấn hành
lần đầu tiên vào năm 1936 tại Nam Kinh. Đây là công trình nghiên cứu khá
công phu, được trình bày qua 10 phần với những nguồn tư liệu khá phong
phú. Trong công trình nghiên cứu này, không chỉ đề cập đến những tư tưởng
chính trị của Nho giáo, tác giả còn phân tích tư tưởng chính trị của các học
thuyết khác, như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... thông qua những đại biểu tiêu
biểu của nó qua các giai đoạn lịch sử, kể từ thời kỳ cổ đại cho đến thời kỳ
chiến tranh nha phiến. Mặc dù có những nhận định cần phải suy xét thêm,
nhưng nhìn chung đây là công tình có giá trị, cung cấp nguồn tư liệu quan
trọng cho việc nghiên cứu Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc của Nho
giáo nói riêng.
Tổng quan tư tưởng pháp luật Nho gia của Du Vinh Căn được công bố
vào những năm 90 của thế kỷ XX. Tác phẩm này ra đời đã gây một tiếng


7
vang lớn trong giới nghiên cứu học thuật Trung Quốc lúc bấy giờ, được đánh

giá rất cao và nhận được nhiều giải thưởng lớn tầm cỡ quốc gia. Công trình
này có những phát hiện khá mới mẻ so với những quan niệm truyền thống
trước đó khi nghiên cứu, đánh giá về học thuyết Nho giáo nói chung, tư tưởng
chính trị - xã hội của Nho giáo nói riêng. Với 9 chương của công trình nghiên
cứu này, tác giả đã trình bày khá mạch lạc, từ tư tưởng pháp luật của Khổng
Tử đến tư tưởng pháp luật của Mạnh Tử, Tuân Tử cùng những diễn biến lịch
sử của tư tưởng pháp luật Nho gia, nhằm chứng minh quan điểm tư tưởng
pháp luật Nho gia là tư tưởng pháp luật luân lý. Đồng thời, tác giả cũng khẳng
định, tư tưởng pháp luật luân lý thực sự là dòng chính của văn hóa pháp luật
cổ đại Trung Quốc và cũng là nét đặc sắc của hệ thống pháp luật Trung Hoa.
Những tư liệu được dẫn chứng và những nhận định của tác giả là tài liệu tham
khảo có giá trị cho việc nghiên cứu các nội dung của luận án.
Bên cạnh đó còn phải kể đến một số công trình tiêu biểu khác, như Bàn
về Khổng Tử của Quan Phong - Lâm Duật Thời; Bàn về tư tưởng cổ đại
Trung Quốc của Hầu Ngoại Lư - Triệu Kỉ Bân - Đỗ Quốc Tường; Nho gia với
Trung Quốc ngày nay của Vi Chính Thông… Đó cũng là những tài liệu cần
thiết, cung cấp những tư liệu quan trọng, giúp tác giả luận án có thêm những
cứ liệu vững chắc để nghiên cứu về tư tưởng trị quốc Nho giáo.
Bên cạnh đó, có không ít nhà nghiên cứu phương Tây cũng quan tâm
nghiên cứu về Nho giáo, trong đó có đề cập ít nhiều đến tư tưởng trị quốc của
học thuyết ấy. Trong tác phẩm Bàn về Trung Quốc, công trình rất nổi tiếng
của Henry Kissinger [53] có mục bàn về “Khổng Tử”. Trong mục này, Henry
Kissinger coi trọng, đánh giá cao Khổng Tử. Ông cho rằng, các giá trị chiếm
ưu thế trong xã hội Trung Quốc phát sinh từ những quy định của một triết gia
cổ xưa được thế hệ sau biết tới với cái tên Khổng Phu Tử (hoặc Khổng Tử
theo phiên âm La tinh). Kissinger khẳng định, những lời dạy của Khổng Tử
được các môn sinh ghi lại thì vẫn còn mãi mãi. Theo tác giả, Nho giáo là một


8

học thuyết bao gồm những giá trị được ghi nhận, khẳng định, đồng thời phải
suy ngẫm, coi xét cả những tư tưởng, kỳ vọng của Khổng Tử không thể trở
thành hiện thực. Về tư tưởng trị quốc của Khổng Tử, Henry Kissinger nhận
xét khái quát: “Những quan điểm của ông là các nguyên tắc cai trị (trị quốc,
quản lý quốc gia) bằng tình thương” [53, tr.32]. Kissinger viết: “Khi sự đổ
máu kết thúc và Trung Quốc một lần nữa được thống nhất, nhà Hán (206
trước công nguyên - 220 sau công nguyên) đã áp dụng tư tưởng của Khổng
Tử làm triết lý trị nước chính thức của đất nước” [53, tr.32].
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về Nho giáo, trong đó có đề
cập những vấn đề liên quan đến tư tưởng trị quốc cũng không ít. Tiêu biểu như:
Nho giáo của Trần Trọng Kim, xuất bản lần đầu năm 1932 và đến nay
đã được tái bản nhiều lần. Qua 20 thiên của cuốn sách, với mong muốn “vẽ
lấy cái bản đồ” của một ngôi nhà cổ đã hoang tàn, đổ nát, tác giả đã tái hiện
lại khá hệ thống và tương đối chi tiết quá trình hình thành và phát triển của
Nho giáo qua các giai đoạn lịch sử với những đại biểu điển hình của nó ở mỗi
thời kỳ lịch sử và sự du nhập vào Việt Nam của học thuyết ấy. Mặc dù tư
tưởng trị quốc không phải là vấn đề được đặt làm trọng tâm của cuốn sách,
song nó cũng được thể hiện thông qua việc trình bày quan niệm của các nhà
nho tiêu biểu ở mỗi giai đoạn, từ Tần - Hán đến Minh - Thanh sau này. Có thể
nói, cuốn sách cung cấp nguồn tư liệu quan trọng và cần thiết, có thể kế thừa
để phục vụ mục đích của luận án.
Trong cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu [5], một bộ sách biên
khảo có giá trị, được viết theo những sự tâm đắc của tác giả đã diễn giải một
số nội dung cơ bản trong sách Luận ngữ, Đại học, Trung dung, những quan
niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử và một số đại biểu thuộc “Khổng học viễn phái”.
Một số chỗ được tác giả giải thích và có những nhận định trên một tinh thần
khá mới, song đây là một tác phẩm ra đời ở một giai đoạn khá đặc biệt trong
cuộc đời của tác giả nên có những điều lý giải và nhận định chúng ta cần phải



9
cân nhắc thêm. Tuy vậy, đó là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu,
giải quyết các nhiệm vụ của luận án.
Trong bộ sách Lịch sử triết học phương Đông của Nguyễn Đăng Thục
[127], ở chương 4, tập 1 của bộ sách này, tác giả bàn về 5 vấn đề lớn, trong đó
có những nội dung liên quan đến tư tưởng trị quốc của Nho giáo. Chẳng hạn,
khi bàn về thuyết chính danh của Khổng Tử, tác giả giải thích: mỗi danh có
một định nghĩa của nó, nó trỏ vào vật mà danh ấy đã áp dụng, chứ không vào
vật khác được. Nghĩa là, danh là cái bản chất của vật hay là khái niệm. Cái mà
định cho danh “quân”, “thần”, “phụ”, “tử” ở câu quân quân, thần thần, phụ
phụ, tử tử, là cái bản chất của “quân” do đấy mà là “quân”, v.v.. Hoặc khi
phân tích và so sánh quan niệm về “đạo nhân” của Nho, tác giả cho rằng: Phật
giáo và Cơ Đốc giáo chủ trương về chữ nhân có ý nghĩa bác ái bình đẳng, còn
Khổng Tử chủ trương về nhân có thứ bậc trình tự tiến hóa, và Nho giáo ngoài
chủ trương đạo nhân, thừa nhận sự thực về xã hội tiến hóa còn chú trọng vấn
đề tu sửa và dưỡng dục nhân cách con người. Mặc dù không bàn trực diện về
tư tưởng trị quốc Nho giáo, song những nội dung mà công trình này đề cập
cung cấp những tư liệu cần thiết, giúp tác giả luận án có thêm căn cứ để khái
quát về tư tưởng trị quốc Nho giáo Trung Quốc.
Trong cuốn Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên [150], các
tác giả bàn về Khổng Tử cùng với học thuyết về chính trị và tư tưởng triết học
của Nho gia. Theo các tác giả, hoài bão chính trị trước sau của Khổng Tử là
kế thừa sự nghiệp của Văn Vương, Chu Công, lập lại kỷ cương của nhà Chu.
Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, Khổng Tử xây dựng nên học thuyết
Nhân - Lễ - Chính danh. Theo Khổng Tử, “Nhân” là hạt nhân, là nội dung,
“Lễ” là hình thức của “Nhân” và “Chính danh” là con đường để đạt đến điều
“Nhân”, “Chính danh” là vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, v.v., và
là điều căn bản của việc làm chính trị, đưa xã hội từ “loạn” trở lại “trị” (an
bình). Về tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử, các tác giả cho rằng: Mạnh



10
Tử đưa ra thuyết “Nhân chính” chống lại việc dùng vũ lực thôn tính lẫn nhau
giữa các nước, đòi hỏi bọn quý tộc phải để cho nhân dân có tài sản riêng thì
họ mới yên tâm làm ăn, phải quý trọng dân. Có thể nói, cuốn sách cung cấp
những kiến thức cơ bản về một số nội dung của học thuyết Nho giáo qua các
giai đoạn phát triển của nó, giúp tác giả luận án có cái nhìn tổng quan về
những nét chính trong tư tưởng trị quốc Nho giáo.
Trong cuốn Khổng Tử của Nguyễn Hiến Lê, khi nhận định về Khổng
Tử, tác giả cho rằng: “một phát kiến của ông là thuyết chính danh” [57,
tr.130]. Theo sự giải thích của tác giả, thuyết chính danh không mới mẻ gì.
Trước Khổng Tử các sử gia đã có truyền thống chép đúng sự thực những hành
vi xấu, tốt của vua chúa và các quan lớn nhỏ và phê bình một cách công tâm
những hành vi đó… Nhưng Khổng Tử đã có công tạo ra danh từ chính danh
và lý luận, giảng giải, đặt nó thành một quy tắc… Ông bảo danh với thực phải
hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý luận
sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp không định được
mà xã hội sẽ hỗn loạn [57, tr.131,132]. Bàn về tư tưởng trị quốc của Nho
giáo, tác giả nhận xét, chính danh là bước đầu đưa tới chính sách đức trị, là
điều kiện của đức trị… Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư
cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho
dân, phải giáo hóa dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị. Ông đã đạo
đức hóa chính trị và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ đức trị,
mà danh từ này có nghĩa là người trị dân phải có đức, phải trị dân bằng đức,
chứ không bằng bạo lực [57, tr.140,141].
Đây là công trình nghiên cứu khá cơ bản về tư tưởng của Khổng Tử người sáng lập Nho giáo, cung cấp một cách nhìn tổng quan về những nội
dung trong tư tưởng Khổng Tử, trong đó có những vấn đề liên quan đến tư
tưởng trị quốc Nho giáo mà tác giả luận án có thể tham khảo.



11
Trong cuốn Mạnh Tử cũng của Nguyễn Hiến Lê, tác giả tập trung luận
bàn về đời sống, hoạt động chính trị, tư tưởng chính trị, học thuyết tính thiện,
v.v. của Mạnh Tử, với tư cách là người bổ túc, hoàn thiện Nho giáo. Bàn về tư
tưởng trị quốc của Mạnh Tử, tác giả cho rằng, Mạnh Tử chủ trương “dân vi
quý”. Thượng đế sinh ra vạn vật, làm chủ vạn vật, nhưng không thể săn sóc
riêng từng vật, đặc biệt là từng người một, cho nên mới giao quyền cho vua
thay mình để trị dân. Nhưng vua cũng không thể trông nom mọi việc được,
cần có các quan giúp đỡ. Vậy vua và quân, tức hạng “cai trị người” sở dĩ có là
vì có hạng “bị cai trị” và bổn phận của họ là phải làm lợi cho hạng này, tức là
cho dân chúng [60, tr.86].
Trong cuốn Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc của Lê Văn Quán,
với 22 chương, tác giả đã khảo sát lịch sử tư tưởng Trung Quốc từ thời kỳ tiên
Tần đến thời kỳ cận đại; từ tư tưởng kinh tế đến tư tưởng chính trị, tư tưởng
triết học, tư tưởng sử học, văn học, quân sự... Cuốn sách là tài liệu tham khảo
hữu ích, cung cấp những tư liệu quan trọng mà tác giả luận án có thể tiếp thu,
phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong cuốn Các bài giảng về tư tưởng phương Đông của Trần Đình
Hượu [39], tác giả đề cập đến quan điểm chính trị đạo đức của Khổng Tử trên
một số phương diện, như: chính danh, đức trị, thượng hiền trong khuôn khổ
thân thân, ba đạt đức của người quân tử: nhân, trí, dũng... Đây là những vấn đề
liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho giáo mà tác giả luận án có thể tham khảo,
phục vụ cho việc nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ của đề tài luận án.
Trong cuốn Đức trị và pháp trị trong Nho giáo của Vũ Khiêu [43], tác
giả đã dụng công trích dẫn những nội dung trong các kinh điển của Nho giáo
bàn về vai trò của việc dùng đức để cai trị, về phẩm chất của người quân tử
cầm quyền, về tư tưởng trọng dân, trọng hiền; quan niệm về pháp luật, về
binh lực...Mặc dù không bình luận nhiều, song cuốn sách cung cấp những tư



12
liệu từ các tác phẩm kinh điển của Nho giáo, giúp tác giả tiết kiệm rất nhiều
thời gian và công sức trong việc tra cứu.
Trong bộ sách Đại cương triết học Trung Quốc gồm 2 tập của Giản Chi
- Nguyễn Hiến Lê [6], khi phân tích vấn đề “Chính trị luận” ở phần thứ năm
của tập 2, các tác giả đã khảo sát một số quan điểm cơ bản của các trường
phái triết học Trung Quốc khi bàn về quốc gia lý tưởng, về chủ trương cai trị,
về vai trò của vua và dân... Đây là những tư liệu cần thiết và quan trọng, giúp
tác giả có những căn cứ đáng tin cậy để khái quát về những nội dung trong tư
tưởng trị quốc của Nho giáo.
Trong cuốn Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) của Nguyễn Thanh
Bình [3], ở chương 1, tác giả tập trung luận giải về Nho giáo với tính cách là
một học thuyết chính trị - xã hội ở Trung Quốc cổ đại. Đề cập đến một số tư
tưởng cơ bản của Nho giáo về chính trị - xã hội, tác giả phân tích 3 nội dung:
quan điểm về con người, về xã hội lý tưởng và về đường lối trị nước. Đây là
một cách tiếp cận mà tác giả luận án có thể tham khảo, lựa chọn những yếu tố
hợp lý của nó để từ đó tìm cách tiếp cận riêng của mình.
Trong bài “Tư tưởng Nho giáo về cơ sở của sự ổn định xã hội” đăng
trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc của Nguyễn Minh Hoàn, tác giả có đề
cập một số vấn đề thuộc nội dung tư tưởng trị quốc của Nho giáo. Theo tác
giả, mục tiêu trị quốc của Nho giáo là “một xã hội thực sự tốt đẹp - thái bình
thịnh trị chỉ có thể là quay về thời kỳ Nghiêu - Thuấn trước kia” [34, tr.54].
Về đường lối trị quốc, quản lý, lãnh đạo quốc gia, đưa đất nước từ “loạn” trở
lại “trị”: 1) Phải chính danh, 2) Khổng Tử đòi hỏi người cầm quyền phải luôn
chú ý đến việc thực hiện lẽ công bằng và sự yên ổn cho dân, 3) Phải giúp dân
“có đủ ăn, đủ mặc và làm giàu”, phải giáo dân “không phân biệt trên dưới,
thân sơ, quý tiện, sang hèn” như chủ trương của Khổng Tử”, 4) Để tránh
chiến tranh liên miên, Mạnh Tử khuyên vua “hà tất phải nói đến lợi, chỉ cần



13
nói tới nhân nghĩa mà thôi” [34, tr.57]. 5) Quan hệ giữa vua và bề tôi, theo
Khổng Tử, “vua dùng lễ sai khiến bề tôi, bề tôi lấy hết lòng trung thờ vua”, và
theo Mạnh Tử chỉ giáo thêm, “mặc dù người cai trị có được người dưới cung
phụng, nhưng ngược lại, người cai trị cũng phải thực hiện trách nhiệm, nghĩa
vụ với những người mà mình cai trị” [34, tr.60]. Đây là một số, chứ không
phải tất cả, nội dung của tư tưởng trị quốc trong Nho giáo, được tác giả bài
viết tiếp cận để làm sáng rõ cơ sở của sự ổn định xã hội theo quan niệm, chủ
trương của Nho giáo Khổng Mạnh.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu, trong đó có sự tìm
hiểu nhiều, ít khác nhau về tư tưởng trị quốc của Nho giáo. Chúng tôi coi đây
là những tài liệu quý, có giá trị khoa học cần được tham khảo và kế thừa có
chọn lọc để giải quyết những nhiệm vụ luận án đặt ra.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội và con người
Việt Nam trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay đã có không ít công
trình tiêu biểu, có giá trị. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của tư
tưởng trị quốc Nho giáo đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta thì không nhiều.
Trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng Tháng Tám của Trần Văn Giàu, ở chương ba, tác giả đề cập đến
vấn đề “Tư tưởng Nho giáo Việt Nam thế kỷ XIX”. Theo tác giả, tư tưởng
Nho giáo thế kỷ XIX ở Việt Nam bao gồm bốn vấn đề cơ bản là thiên đạo
quan, lịch sử quan, đạo đức và trị đạo. Về nội dung cơ bản của học thuyết
chính trị Nho giáo, tác giả nhận định: “Cái chính yếu nhất của Nho giáo là
đạo đức. Đạo đức Nho giáo cuối cùng là nhằm phục vụ sự trị nước: trị quốc,

bình thiên hạ là cái đích cao của sự thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia” [24,


14
tr.83]. Theo ông, vấn đề tư tưởng về đạo đức, một nội dung quan trọng trong
Nho giáo “là phương châm, phương hướng lớn của việc trị nước” [24, tr.152].
Nho giáo Trung Quốc nói chung, Nho giáo Khổng Mạnh nói riêng đã xâm
nhập Việt Nam. Nó được người Việt Nam tiếp thu và cải biến đi ít nhiều. Ở
nước ta, vì thế, đã hình thành Nho giáo Việt Nam. Tư tưởng đạo đức trong
Nho giáo đóng vai trò trị quốc, cũng như toàn bộ nội dung của Nho giáo Việt
Nam, theo tác giả còn có những ảnh hưởng tiêu cực: “Nho giáo Việt Nam rõ
ràng là lạc hậu, phức tạp, rối mù, xa lạ với khoa học, bên lề của lý trí lôgíc”
[24, tr.123]. Và tác giả cho rằng:
Nho giáo tuy không hẳn là một tôn giáo..., nhưng kỳ thực nó vẫn
phụ thuộc vào trời, vào thần, trói cột lý trí vào số, vào mệnh trời,
lúc nào cũng chực quay về xưa, càng xưa càng tốt đẹp. Một thiên
đạo quan như thế làm sao có thể giúp cho các chính khách, các nhà
đương cuộc, các bậc chí sĩ nhận định đúng thời thế, về sức địch, sức
ta và những nhiệm vụ quốc tế cần kíp? [24, tr.123-124].
Trong cuốn Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sĩ Thắng chủ biên, tập hợp
gần 30 bài viết của các nhà nghiên cứu qua 2 cuộc hội thảo vào các năm 1973
và 1978 về đề tài “Nho giáo trong lịch sử và tàn dư của nó trong xã hội Việt
Nam”, có một số bài liên quan đến chủ đề luận án. Tiêu biểu như:
- Bài “Nhân dân Việt Nam dưới tác động của Khổng giáo” của Vũ
Khiêu. Trong công trình nghiên cứu đó, tác giả đề cập một số nội dung chính:
1) Khẳng định, ghi nhận giá trị, ảnh hưởng tích cực của Nho giáo Khổng
Mạnh; 2) Phê phán những tác động tiêu cực của Nho giáo bao hàm tư tưởng
trị quốc trong đó. Về giá trị, ảnh hưởng tích cực của Nho giáo Khổng Mạnh,
tác giả nhận xét: “Khổng giáo được du nhập vào Việt Nam và suốt hai nghìn
năm giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị trong thượng tầng kiến trúc phong

kiến. Khổng giáo thực tế đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời
sống tinh thần của nhân dân Việt Nam” [120, tr.236]. Ông cũng khẳng định
thêm về ảnh hưởng của nó trong lịch sử nước ta:


15
Từ đầu thế kỷ XV, nhất là khi Nhà nước phong kiến của Lê Lợi
thiết lập thì chế độ phong kiến Việt Nam đã đi vào giai đoạn phát
triển cao nhất. Khổng giáo đã bắt đầu chiếm địa vị độc tôn trong
thượng tầng kiến trúc phong kiến… Hệ tư tưởng Khổng giáo được
quán triệt vào nhiều chủ trương chính sách của nhà nước phong
kiến và có ảnh hưởng sâu sắc trong mọi lĩnh vực văn hóa đương
thời [120, tr.249].
Bên cạnh sự ghi nhận, đánh giá về ý nghĩa, vai trò, ảnh hưởng tích cực
của Khổng giáo ở một giai đoạn lịch sử nhất định, tác giả còn chỉ ra không ít
ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo. Cụ thể là: 1) “Học
thuyết của Khổng Tử là một học thuyết bảo thủ” [120, tr.251]; 2) “Học
thuyết của Khổng Tử tập trung vào tinh thần trung quân. Thờ vua là điểm
cao nhất của đạo làm người, là yêu cầu đạo đức đầu tiên của những đại
trượng phu, của bậc đại dũng, của anh hùng” [120, tr.253]; 3) Tư tưởng
Khổng giáo là hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến phương Đông.
Đó là phương tiện tinh thần rất độc hại để nô dịch quần chúng… Khổng giáo
rõ ràng là đứng hẳn về phía giai cấp phong kiến nước ngoài, bào chữa cho sự
xâm lược của chúng, thuyết phục nhân dân ta quy thuận sự thống trị của
phương Bắc, thần phục vua chúa nước lớn, coi như vị thiên tử có uy quyền
tuyệt đối với cả thế gian này. Bọn thống trị thông qua Khổng giáo để đào tạo
những nho sĩ bản xứ, sử dụng họ làm tay sai trong bộ máy quan liêu [120,
tr.264,265]; 4) Tư tưởng khinh rẻ phụ nữ là tư tưởng nổi bật trong Khổng
giáo… Thật là một điều sỉ nhục đối với phụ nữ, khi ông (Khổng Tử) quy đạo
đức của phụ nữ vào bốn điểm Dung, Công, Ngôn, Hạnh. Đó là thứ đạo đức

biến người đàn bà thành một công cụ mua vui cho đàn ông [120, tr.269]; 5)
“Khổng giáo củng cố ở nhân dân tư tưởng về tính vĩnh cửu của chế độ
phong kiến” [120, tr.290]; 6) “Khổng giáo giam con người vào một trật tự
phong kiến chặt chẽ từ trên xuống dưới. Lễ giáo Khổng Tử quy định thứ bậc
cho các tầng lớp nhân dân” [120, tr.291].


16
- Bài “Ảnh hưởng Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam” [120,
tr.385-418] của Nguyễn Đức Quỳ. Trong bài viết này, tác giả bàn tương đối
nhiều về ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo, trong đó có những
yếu tố của tư tưởng trị quốc. Về ảnh hưởng tích cực, tác giả cho rằng: “Khi
gặp Nho giáo với toàn bộ kiến thức và quan niệm trình bày mạch lạc, có lập
luận, có dẫn chứng cụ thể về việc thời xưa được ghi lại bằng chữ, thì những
người trí thức bị bắt buộc làm quen với Nho giáo… đã từ chỗ bị ép học, tiến
dần đến chỗ tự nguyện học và vận dụng nó vào đời sống, lấy nó làm kim chỉ
nam cho suy nghĩ và hành động [120, tr.388], và “tư tưởng Nho giáo ảnh
hưởng sâu, mạnh tới toàn bộ tư tưởng Việt Nam” [120, tr.393]. Tác giả nhận
định: “Về trị nước, Khổng Tử chỉ nói có tám chữ nhưng tổng kết được
những yêu cầu cơ bản của một bộ máy cai trị, dù thời xưa hay thời nay: “Túc
thực, túc binh, dân tín chi hỹ” [120, tr.406]. Tác giả nhận xét, theo Khổng
Tử, trong ba nhân tố là kinh tế dồi dào (“túc thực”), quân đội mạnh mẽ (“túc
binh”) và dân tin tưởng nghe theo (“dân tín”) thì nhân tố thứ ba (“dân tín”)
là quan trọng nhất. Theo tác giả, trong vấn đề trị nước, Khổng Tử xác định
được lực lượng quyết định nhất trong mọi sự nghiệp, thành bại, thịnh suy,
hưng vong đều do dân có củng cố không, có tham gia tích cực hay không?
Khổng Tử nói khi được hỏi phép trị nước: “Dân là gốc nước, gốc bền thì
nước yên”… Khổng Tử đã nói dứt khoát… không có dân thì không làm
được gì, có dân ủng hộ mạnh thì sẽ có kinh tế và quân đội. Mọi chuyện đều
từ dân mà ra [120, tr.407].

Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng, tư tưởng trị quốc của Nho giáo có
nhiều ảnh hưởng tiêu cực tại Việt Nam. Đó là tính chất bảo thủ, “tuyệt đối hóa
kinh nghiệm của người xưa” [120, tr.395] trong Nho giáo. Đó là việc “Nho
giáo thường hay cực đoan hóa những khuôn phép đã định ra” [120, tr.396].
Đó là việc trong xã hội còn có giai cấp, còn có bộ máy nhà nước, thì còn có
người thống trị, người bị trị, người lãnh đạo, người bị lãnh đạo, thì đẳng cấp,


17
tôn ty theo một lối nào đó là sự cần thiết khách quan, nhưng Nho giáo đã gây
“một tinh thần tôn ty, đẳng cấp quá khắt khe trong nhân dân” [120, tr.402].
Tác giả còn khẳng định: “Theo tôi nghĩ, ảnh hưởng tinh thần cấp bậc này (của
Nho giáo) còn theo sát chúng ta cho tới bây giờ. Nhiều đồng chí kịch liệt đả
kích đạo Nho, nhưng trong hội nghị, khi lên nói gì thì cũng kính thưa đến 5, 6
bậc, chưa có thể nói gọn một câu “Thưa các đồng chí”, có lẽ sợ như thế là “vô
lễ”, “ngạo thượng” chăng?” [120, tr.403-404]. Đây là bài viết có lập luận chặt
chẽ, dẫn chứng cụ thể, nhiều điểm xác đáng, do vậy có sức thuyết phục cao, là
công trình nghiên cứu có giá trị.
- Bài “Bàn về vai trò lịch sử của Nho giáo” [120, tr.529-534] của
Nguyễn Khắc Viện. Đây là bài viết ngắn gọn về giá trị, ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của Nho giáo. Theo tác giả, Nho giáo bao hàm tư tưởng trị quốc, bình
thiên hạ, song: “Nho giáo vừa là công cụ của phong kiến phương Bắc dùng để
lệ thuộc các dân tộc khác, nhưng vừa là công cụ giúp các dân tộc chống lại
Trung Quốc (xâm lược họ)” [120, tr.531]. Nghĩa là, ảnh hưởng tiêu cực của
Nho giáo là nó làm công cụ cho kẻ xâm lược, nhưng ảnh hưởng tích cực của
Nho giáo là học thuyết này làm công cụ chống xâm lược.
- Trong bài “Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam” của
Trần Văn Giàu, khi phân tích ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo và của tư
tưởng trị quốc trong học thuyết ấy, tác giả viết:
Nho giáo tự phụ là vũ khí vạn năng để trị quốc, bình thiên hạ,

nhưng nó không cứu vãn được nhà Trần khỏi sụp đổ. Nó không
phải là yếu tố chính của cuộc chiến thắng quân Minh. Trái lại, nó là
một nguyên nhân lớn của sự mất nước Việt Nam về tay Pháp. Triều
đình Nguyễn bại vong, phong trào Cần Vương tan rã đều biểu hiện
sự thất bại hoàn toàn của Nho giáo như là hệ ý thức phong kiến…
Nho giáo tàn lụi hết sức nhanh chóng [120, tr.143].


18
Về ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo, tác giả nhấn
mạnh ba yếu tố: Thứ nhất: tư tưởng đức trị, nhân trị, điều này trở ngại cho
đường lối pháp trị xã hội chủ nghĩa. Thứ nhì: chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa
đồng tộc, phương châm trị đạo thân thân, điều này trở ngại cho việc thực hiện
dân chủ, động viên tài năng. Thứ ba: tư tưởng trọng quan khinh dân, nó làm
nền cho thứ chủ nghĩa quan liêu, thơ lại mới [120, tr.149].
Trong cuốn sách đó còn một số bài ít nhiều có liên quan đến chủ đề
luận án, như: “Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo với xã hội Việt Nam”
của Đào Duy Anh; “Cha ông chúng ta đã tiếp thu những gì tích cực ở các ý
thức hệ phong kiến của Trung Quốc” của Trương Chính; “Nho giáo đối với
nước và thiên hạ” của Quang Đạm; “Vị trí và vai trò của Nho giáo ở thời kỳ
cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam” của Nguyễn Đức Sự; “Nho giáo
Triều Nguyễn và sự thất bại hoàn toàn của nó trước thử thách của lịch sử” của
Nguyễn Tài Thư... Mặc dù không trực tiếp bàn về tư tưởng trị quốc Nho giáo
và ảnh hưởng của nó, song đó đều là những tài liệu hữu ích, cung cấp những
cứ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu, khái quát ảnh hưởng của tư tưởng trị
quốc Nho giáo đến xã hội Việt Nam cũng như quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay.
Trong cuốn Nho giáo xưa và nay do Vũ Khiêu chủ biên (gồm hơn 20
bài viết của các tác giả), có một số bài viết liên quan đến chủ đề luận án, như:
“Hiện đại đối thoại với Nho giáo” của Bùi Đăng Duy; “Giá trị của Nho giáo

trong xã hội ta ngày nay” của Hoàng Việt; “Tư tưởng thủ cựu của Nho giáo
trước sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc” của Trần Văn Giàu... Mặc dù các
bài viết đó không trực tiếp đề cập đến ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho
giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, bởi đó không
phải mục đích mà các tác giả hướng đến, song nó gợi mở những điều bổ ích
về mặt phương pháp luận cho tác giả luận án.


19
Trong cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, tác giả đã bàn đến
ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam trên nhiều phương diện. Thông
qua các chương bàn về “Đạo đức và chính trị” (Chương III), “Phạm trù: Nhà”
(Chương IV), “Nước” (Chương V), “Và thiên hạ” (Chương VI), “Ai trị ai và ai
nuôi ai?” (Chương VII), tác giả đã phân tích trên tinh thần phê phán những ảnh
hưởng, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đến xã hội và con người
Việt Nam cũng như quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác
giả nhận định: “Ra sức xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngày càng thể
hiện rõ bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân,... Triết lý “sử” và “do” của
Khổng Khâu cũng như những kiểu cách phát động, đạo diễn kể trên không hợp
với hệ tư tưởng và nếp sống của chúng ta” [13, tr.332], và “Xóa bỏ tận gốc
những biểu hiện và những hậu quả ấy là cần thiết để tiến lên” [13, tr.333].
Trong cuốn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, do Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất
Viễn đồng chủ biên, các tác giả có bàn đến vấn đề “Nho giáo và sự ảnh hưởng
của nó đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” [110, tr.258,262]. Các tác giả quan niệm, “Nho giáo là vấn đề của quá
khứ, nhưng cũng là vấn đề quan tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bởi tác động ý thức hệ của nó” [110,
tr.258]. Yếu tố tích cực của Nho giáo được trình bày tại đây là: Lịch sử cho
thấy, ngay sau khi được chính quyền phong kiến thừa nhận làm nền tảng tư

tưởng và đường lối trị nước, Nho giáo đã phát huy được tác dụng, đóng vai
trò tích cực nhất định trong xã hội. Nho giáo đã nêu lên được một số những
nguyên lý, những nguyên tắc, một số đường lối và phương pháp có thể bảo
đảm cho xã hội một sự ổn định nhất định để phát triển [110, tr.259].
Các tác giả cũng nhận xét, ngoài giá trị, ảnh hưởng tích cực, Nho giáo
còn có nhiều dấu hiệu, biểu hiện, ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội, cụ
thể là: Nho giáo không coi trọng mối quan hệ xã hội - mối quan hệ giữa con
người với con người; Nho giáo thủ tiêu đấu tranh vì công lý; Nho giáo không


20
đề cao cá nhân con người. Nho giáo đã đồng nhất cá nhân với cộng đồng;
Nho giáo ít đề cao tài mà thường là đề cao đức [110, tr.260-261].
Trong cuốn Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam
của Vũ Khiêu và Thành Duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, các tác
giả đã phân tích những hạn chế và ảnh hưởng tiêu cực của cả tư tưởng đức
trị và pháp trị của xã hội phong kiến. Tuy Nho giáo và tư tưởng phong kiến
không đồng nhất với nhau, nhưng sự phân tích và luận giải những nội dung
của công trình này giúp tác giả hiểu thêm về ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng trong thời kỳ phong
kiến Việt Nam.
Trong cuốn Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) của Nguyễn Thanh
Bình [3], tác giả nhận định, Nho giáo trở thành cơ sở tư tưởng chủ yếu để
định ra và thực hiện đường lối đức trị, chế định pháp luật và hoạch định việc
giáo dục khoa cử, củng cố ngôi vua, ổn định trật tự xã hội, lựa chọn nhân tài
của các triều đại phong kiến Việt Nam. Mặc dù công trình này chỉ nghiên cứu
ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ
XIX, song nó cung cấp những tư liệu có ích, giúp tác giả hiểu thêm về ảnh
hưởng của học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo trong thời kỳ xây dựng

và củng cố chính quyền phong kiến nước ta, từ đó có căn cứ để nhận định
những ảnh hưởng của nó trong những giai đoạn sau này trên đất nước ta.
Trong bài “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến hoạt động quản lý
nhà nước ở Việt Nam hiện nay” [28, tr.28-31] của Dương Thị Thúy Hằng,
đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận, số 8-2016, tác giả cho rằng, Nho giáo có
những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động quản lý nhà nước, đó là: 1) “Ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây dựng một số bộ luật ở Việt Nam
hiện nay”; 2) “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây dựng tổ chức
bộ máy hành chính”; 3) “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây


21
dựng đội ngũ cán bộ, công chức”; 4) “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến
tư duy quản lý kinh tế” [28, tr.28-30]. Bên cạnh đó, theo tác giả, những hạn
chế của tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động quản lý nhà
nước là: 1) Quá đề cao lễ và đạo đức nên hạn chế tính sáng tạo, tính tự chủ
của con người; 2) “Tư tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận, trọng danh
hơn thực và là cơ sở hình thành nên bệnh hình thức chủ nghĩa”; 3) “Việc đề
cao tôn ti trật tự trong mối quan hệ tam cương của Nho giáo: cha - con, vợ chồng, vua - tôi là nguyên nhân tạo nên tính gia trưởng trong cơ quan nhà
nước hiện nay”; 4) “Tư tưởng duy tình, duy nghĩa của Nho giáo để tình cao
hơn lý tạo nên sự không công bằng trong cơ quan nhà nước” [28, tr.30-31].
Trong khuôn khổ có hạn của một bài báo nên có những vấn đề hầu như mới
chỉ dừng lại ở một số nhận định bước đầu và cần có sự phân tích, luận giải
thêm với những cứ liệu vững chắc hơn.
Đó là một số công trình mà ở đó bàn đến một số nội dung liên quan đến
vấn đề ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo trong tiến trình lịch sử Việt
Nam, cung cấp thêm tài liệu để tác giả luận án có căn cứ nhận định về ảnh
hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN PHƯƠNG

HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Trong cuốn Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của Nguyễn Tài Thư [132], tác giả cho rằng, ngày nay một số yếu
tố của Nho giáo vẫn có mặt ở nước ta và ảnh hưởng của nó có phạm vi rộng
khắp, từ cá nhân đến gia đình, xã hội. Khi bàn đến vấn đề “Nho học và xã hội
Việt Nam ngày nay”, tác giả khẳng định, xã hội ta không thuộc về Nho học,
không có cơ sở để phục hồi chế độ xã hội mà Nho học là nền tảng tư tưởng


×