Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Cơ sở lý luận về thanh toán bằng séc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.47 KB, 29 trang )

Cơ sở lý luận về thanh toán bằng séc
I. Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán bằng séc
trong nền kinh tế:
1.Sự cần thiết khách quan của thanh toán séc:
Xuất phát từ sơ đồ tổng quát của một chu kỳ sản xuất T-H-H’-T’ ta có thể thấy
rằng thanh toán là khâu mở đầu của một chu kỳ sản xuất khi các doanh
nghiệp, các nhà sản xuất thực hiện nhập các yếu tố máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu, lao động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Và nó cũng là
khâu cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản xuất, thu hồi vốn để thực hiện tái sản
xuất tiếp theo. Bởi vậy khi thanh toán được tổ chức tốt sẽ có tác dụng rất lớn
trong việc thúc đẩy sản xuất - lưu thông phát triển và ngược lại. Vì vậy thanh
toán tiền tệ là sự cần thiết khách quan và đóng vai trò quan trọng đối với quá
trình sản xuất của nền kinh tế hàng hoá. Nói cách khác nền kinh tế hàng hoá
gắn với thanh toán và chu chuyển tiền tệ, kinh tế hàng hoá càng phát triển thì
thanh toán chu chuyển tiền tệ càng mở rộng để có thể phục vụ đắc lực cho lưu
thông hàng hoá.
Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn với sự ra đời và phát triển của
sản xúât hàng hoá. Và quan hệ thanh toán giữa người mua và người bán cũng
phát triển theo khi trình độ sản xuất và lưu thông hàng hóa còn ở mức độ thấp
khối lượng hàng hoá sản xuất còn ít chưa đa dạng phong phú phạm vi tiêu
dùng hàng hoá mới chỉ bó hẹp trong một khu vực một địa phương lúc này
phạm vi thanh toán còn hẹp. Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt tỏ ra rất có
hiệu quả, linh hoạt, giúp cho quan hệ giữa người mua và người bán diễn ra
một cách nhanh chóng, thuận tiện. Nhưng khi sản xuất hàng hoá ngày càng
phát triển khối lượng sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ trên phạm vi rộng
khắp không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà vượt ra khỏi phạm vi của một
quốc gia làm cho quan hệ thanh toán ngày càng mở rộng và phức tạp vì không
chỉ thanh toán nội địa mà cả thanh toán với nước ngoài. Như vậy nền kinh tế
ngày càng phát triển thì yêu cầu đối với công tác tổ chức thanh toán ngày càng
cao trong khi đó thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế: Nó
không thể đáp ứng linh hoạt kịp thời và đầy đủ mọi nhu cầu thanh toán. Việc


thanh toán một khối lượng hàng hóa lớn cần một lượng tiền mặt lớn làm tăng
chi phí vận chuyển, bảo quản và không an toàn; đồng thời thanh toán bằng
tiền mặt nó còn làm tăng các chi phí xã hội như: Chi phí in ấn, phát hành, bảo
quản, tiêu huỷ tiền nó không chỉ gây ra những bất lợi đối với việc tổ chức điều
hành lưu thông tiền tệ của các nhà quản lý mà còn gây ra một sự lãng phí vốn
lớn không được tập trung, tận dụng cho việc phát triển kinh tế do lượng vốn
lớn của nền kinh tế nằm trôi nổi ngoài lưu thông. Thanh toán bằng tiền mặt đã
trở thành vật cản trở cho tốc độ chu chuyển và tuần hoàn vốn của chu kỳ sản
xuất. Hơn nữa, nó còn tạo ra những sơ hở khó kiểm soát nổi thuận lợi cho
những hành vi tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản xã hội, tình trạng trốn thuế
ngày càng gia tăng.
Trước những thực trạng đó đòi hỏi phải có một phương thức thanh toán
tiên tiến hơn, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Và thanh toán không
dùng tiền mặt ra đời đã phát huy tốt lợi thế của nó đó là sự nhanh chóng, tiện
lợi an toàn và chính xác hơn nữa lại rất kinh tế: giúp giảm các chi phí vận
chuyển, in ấn, phát hành, bảo quản và giúp NHNN thực hiện tốt chức năng
quản lý của mình. Đây là phương thức thanh toán không có sự xuất hiện trực
tiếp của tiền mặt mà thanh toán bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của
người chi trả và tài khoản của người thụ hướng mở tại ngân hàng hoặc bằng
cách thanh toán bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng.
Đây là hình thức thanh toán hiện đại, phù hợp với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và thể hiện sự hoàn thiện của tiền tệ với chức năng là
phương tiện thanh toán.
Trong quá trình thực hiện chức năng trung gian thanh toán của mình
NHTM đã tự tạo ra được các công cụ tài chính thay thể tiền làm phương tiện
thanh toán - đáng chú ý nhất là séc một trong những công cụ chủ yếu để tiền
vận động qua ngân hàng. Vậy nên cũng có thể coi “séc là tiền” trong quan hệ
trao đối hàng hoá. Thật vậy, ta biết rằng từ khi xuất hiện việc mua bán trao đối
hàng hoá dịch vụ, tiền - là vật thể trung gian thực hiện thanh toán. Nhà kinh tế
Mỹ Frederic S. Mishkin đã định nghĩa rất đơn giản dễ hiểu “tiền là bất cứ cái gì

được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá hoặc dịch vụ
hoặc trong việc trả nợ”. Hay nói cách khác, tiền là một vật thể, nếu được mọi
người nhận nó trong quá trình thanh toán hàng hoá dịch vụ. Chính từ khái
niệm này mà từ thời xa xưa đến nay tiền đã trải qua rất nhiều loại từ vỏ sò, vỏ
hến rồi đến kim loại quý như vàng, bạc và hiện nay là tiền giấy. Tiền giấy đang
là công cụ thanh toán chủ yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong các
công cụ thanh toán, séc cũng được coi “như một lọai tiền” nó hoạt động bền
vững, hiệu quả bên cạnh tiền giấy.
Thế mạnh của tiền giấy thì khỏi phải nói, hầu hết người dân trên toàn
khắp thế giới đều rất quen thuộc và chắc chắn nó còn trường tồn trong nền
kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, sự phát triển không ngừng của công nghệ mới và
tiền - là đối tượng luôn có sự phát triển, thay thể vì nó luôn có hạn chế như
mệnh giá hạn chế, các chi phí phát sinh xung quanh việc sử dụng tiền. Séc ra
đời và là người đồng hành của tiền làm đa dạng môi trường thanh toán, bổ
sung những điều “khiếm khuyết” của tiền, cho dù bản thân séc còn tồn tại
nhiều vấn đề khó sửa.
Việc đưa séc vào sử dụng trong thanh toán là một điểm mới, có tính chất
làm thay đổi hoạt động thanh toán bằng tiền mặt trước đó và cải thiện hệ
thống thanh toán. Người ta đã đưa ra 5 “ cái được” và “hai cái chưa được” của
séc. - Thứ nhất: Mệnh giá của một tờ séc cao hơn rất nhiều so với một đồng
tiền thực thụ. Do đó, khâu bảo quản, kiểm điếm đơn giản, các chi phí liên quan
đến thanh toán séc thấp.
- Thứ hai: Thông thường trong giao dịch có món thu, món chi (món đi và
món về) séc có lợi thể hơn hẳn tiền mặt là khả năng bù trừ rất tốt. Điều này
nếu thanh toán bằng tiền mặt sẽ phải chuyển một lượng tiền mặt khả lớn để
thanh hàng hoá dịch vụ, đồng thời lại nhận được một lượng tiền mặt không
nhỏ khi bán hàng hoá dịch vụ.
- Thứ ba: Khi sử dụng séc, giảm thiểu chi phí hành chính, có lợi ích về
kinh tế là khá rõ rệt.
- Thứ tư: Một tiện lợi khác của séc mà tiền giấy không thể có được đó là

khi thanh toán, séc chạy qua ngân hàng, làm tăng khả năng tập trung và vòng
quay của vốn, giúp cho việc quản lý, phân tích và xây dựng tốt chính sách tiền
tệ quốc gia.
- Thứ năm: Séc có tính hơn hẳn hệ thống thanh toán điện tử là có chứng
từ gốc. Ngày nay việc áp dụng các công nghệ mới trong thanh toán séc đã sử
dụng mã khoá, lưu trử séc thông qua file ảnh, thông tin xử lý thông qua hệ
thống truyền thông là những lợi thể không thể phủ nhận đựơc.
Tuy nhiên hai cái không được của nó là: Người thụ hưởng séc không
được sử dụng ngay số tiền mà khách hàng thanh toán hàng hoá dịch vụ, bởi nó
phải chờ đợi sự xác nhận của ngân hàng phát hành séc. Thời gian chậm trể
này có thể kéo dài 3-4 ngày có khi lâu hơn. Hạn chế này của séc đã được rút
ngắn nhiều nhờ áp dụng công nghệ mới trong chu trình luân chuyển của tờ
séc. Tuy vậy, nó vấn là trở ngại chính cho người nhận tiền bằng séc sơ với nhận
bàng tiền mặt. Thứ hai, khi thanh toán bằng séc, người thụ hưởng luôn phải
xuất trình những giấy tờ tuỳ thân để khẳng định nguồn gốc của séc khi có sự
cố, đồng thời phải có một hệ thống pháp lý đầy đủ mới có thể “hợp thức hoá”
sự tồn tại của séc, đây cũng là những khó khăn cho việc thanh toán bằng séc.
Từ giữa thế kỷ XX séc đã được các nước phát triển sử dụng và mang lại
hiệu quả kinh tế rất cao. Hiện nay ở các nước này người dân thích sử dụng séc
hơn tiền mặt bởi tính an toàn của nó rất cao “mệnh giá” uyển chuyển và hệ
thống thanh toán séc phát triển nhanh, độ trể của séc không làm người nhận
khó chịu vì vậy việc sử dụng séc trong hệ thống thanh toán của Việt Nam sẽ là
cầu nối thu hút các nhà đầu tư và du lịch nước ngoài.
2. Vai trò của thanh toán bằng séc:
TTKDTM có vai trò hết sức quan trọng, có tác dụng hầu hết lên mọi lĩnh
vực của nền kinh tế và có tác động không nhỏ đến việc ban hành và thực thi
chính sách tiền tệ của NHNN. Hơn nữa nó là một nhân tố không thể thiếu trong
việc ổn định và phát triển kinh tế.
Séc là một trong những công cụ thanh toán không dùng tiền mặt rất hữu
ích, có nhiều lợi thế hơn hẳn so với các công cụ thanh toán không dùng tiền

mặt khác. Sử dụng séc trong thanh toán sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cụ thể
như sau:
2.1 Đối với khách hàng:
-Việc sử dụng séc rất an toàn: Bởi vì nếu sử dụng tiền mặt trực tiếp
trong thanh toán thì mức độ rủi ro rất cao: có thể bị mất do trộm, cướp, bị
cháy, bị rách. Trong khi áp dụng phương thức thanh toán bằng séc, khách hàng
có thể yên tâm trong việc bảo quản, đảm bảo an toàn về số tiền của mình trong
ngân hàng. Khi thanh toán thì tiền được chuyển trong hệ thống ngân hàng
bằng cách chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác .
Nhờ vậy giảm được chi phí bảo quản, vận chuyển tiền; Giảm được mất mát và
tổn thất tài sản của khách hàng; Hơn nữa khi đánh mất séc khách hàng có thể
báo ngay với ngân hàng để dừng việc thanh toán tờ séc bị mất đó nên sự an
toàn trong sử dụng séc là rất cao.
- Tính kinh tế, hiệu quả của việc sử dụng séc: Đối với khách hàng mục
tiêu cao nhất của họ là tối đa hoá lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh
doanh.Việc sử dụng phương thức thanh toán bằng séc giúp họ giảm bớt được
rất nhiều chi phí cho sử dụng tiền mặt gây ra nhiều chi vận chuyển, bảo
quản...chỉ phải trả một khoản phí nhỏ cho ngân hàng khi thực hiên dịch vụ
thanh toán. Giúp cho họ có thể tiết kiệm chi phí tăng lợi nhuận. Mặt khác thanh
toán qua ngân hàng không bị giới hạn về mặt địa lý mà khách hàng có thể thực
hiện thanh toán mọi lúc, mọi nơi, cả trong nước và quốc tế với tốc độ cực
nhanh và chính xác. Điều này có ý nghĩa quan trong giúp cho khách hàng- đặc
biệt là doanh nghiệp có thể tập trung hơn vào quá trình sản xuất kinh doanh,
nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp.
- Sự thuận tiện, linh hoạt: Séc được xem là công cụ thanh toán linh hoạt.
Thể hiện ở chổ khách hàng có thể thanh toán với bất cứ số tiền nào và có thể
sử dụng các loại séc khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của mình. Séc chuyển
khoản thì thủ tục phát hành đơn giản, đòi hỏi phải có sự tín nhiệm lẫn nhau,
còn séc bảo chi đảm bảo an toàn hơn cho người bán, séc chuyển tiền giúp
khách hàng chuyển tiền đến một địa điểm khác mà không phải mang theo một

lượng tiền mặt lớn. Rất thuận tiện cho khách hàng khi sử dụng.
2.2 Đối với ngân hàng:
Việc cung cấp dịch vụ thanh toán séc giúp ngân hàng mở rộng các hoạt
động của mình nói chung và đa dạng hoá các dịch vụ của ngân hàng nói riêng.
Nó vừa tạo thu nhập cho ngân hàng vừa giúp cho ngân hàng thực sự trở thành
trung tâm thanh toán - là cầu nối giữa các khách hàng của mình. Mặt khác
thông qua các tài khoản tiền gửi thanh toán mà khách hàng mở tại ngân hàng
và số dư được duy trì trên tài khoản để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Ngân
hàng có thể tập trung một lượng vốn lớn nhàn rỗi tạm thời để cho vay, đầu tư
đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Ngoài ra ngân hàng có thể nắm rõ hơn tình hình tài chính của khách
hàng thông qua biến động số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng. Là cơ
sở đánh giá mức độ tin tưởng của ngân hàng đối với khách hàng khi cho vay
và theo dỏi quá trình giải ngân, quá trình sử dụng vốn của khách hàng, giảm
thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
2.3 Đối với nền kinh tế:
Thanh toán bằng séc đã giúp cho vốn luân chuyển nhanh. Từ đó thúc đẩy
nhanh tốc độ lưu chuyển tiền tệ, thúc đẩy sản xuất - lưu thông phát triển. Đồng
thời tạo điều kiện cho NHNN quản lý được một cách tổng thể quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua các công cụ TTKDTM đặc biệt là thanh
toán séc NHNN có thể kiểm soát được một lượng tiền trong nền kinh tế cũng
như mức tạo tiền của các NHTM, góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ
quốc gia và các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Có thể nói rằng séc là một phương tiện thanh toán có vai trò rất lớn trong việc
thúc đẩy sản xuất phát triển. Thế nên tạo cơ sở để cho séc phát huy hết tính ưu
việt của nó và để cho séc đi vào trong hoạt động thanh toán của người dân
cũng như các tổ chức kinh tế xã hội - như là một “sân chơi” hấp dẫn không chỉ
có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn là một trong những nhân tố thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế đất nước với khu vực và quốc tế.
II Một vài nét về séc theo luật séc quốc tế.

Séc là một phương tiện thanh toán, đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng
rất phổ biến trên thế giới- Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, cho
nên séc phải có những quy định về nội dung và hình thức theo luật định. Năm
1931 nhiều nước Tư Bản Chủ Nghĩa như: Đức, Pháp, ý, Đan Mach, Hà Lan, Na
Uy, Thuỵ Điển, áo, Bồ Đào Nha đã họp ở Giơnevơ để ký một công ước quốc tế
về séc. Công ước Giơnevơ về séc năm 1931 được nhiều nước tư bản chủ nghĩa
áp dụng.
Theo đó séc được định nghĩa như sau: Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền
vô điều kiện do một khách hàng ký phát, ra lệnh cho ngân hàng phục vụ mình
trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng
có tên trên séc hoặc cho người cầm séc.
Như vậy các chủ thể tham gia thanh toán séc gồm:
- Người ký séc: Đó là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng.
- Người thụ lệnh: Ngân hàng (thực hiện về trích tài khoản người phát
hành trả cho người thụ hưởng) .
- Người thụ hưởng: Người được hưởng số tiền ghi trên tờ séc.
Những nội dung ghi chú bắt buộc trên tờ séc
Séc phải được làm bằng văn bản và có một hình mẵu nhất định. ở các
nước Tư Bản Chủ Nghĩa, ai cũng có quyền phát hành séc nên hình mẫu thế nào
là do người phát hành séc quyết định còn ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, NHNN
in mẫu séc thống nhất trong toàn quốc. Các chủ tài khoản muốn phát hành séc
thì phải đến ngân hàng xin nhượng séc theo thủ tục của ngân hàng nước sở
tại.
Nội dung ghi trên tờ séc phải ghi đầy đủ những yếu tố sau:
- Phải có tiền đề “séc”: vì nếu không có tiền đề này ngân hàng sẽ từ chối
việc thực hiện lệnh của người ký phát.
- Lệnh trả tiền vô điều kiện
- Số tiền ghi trên tờ séc: phải được ghi rõ ràng, đơn giản, dể nhận biết Số
tiền ghi bằng chữ và bằng số phải thống nhất với nhau. Nếu có sự chênh lệch
giữa số tiền ghi bằng số và số tiền ghi bằng chữ thì tờ séc vẫn được thanh

toán nhưng thường căn cứ vào số tiền ghi bằng chữ hoặc số tiền nhỏ hơn.
- Ngày tháng và địa điểm ký phát séc.
- Tên người nhận và người trả tiền.
- Địa điểm trả tiền.
- Chữ ký của người ký phát.
Những điều kiện phát hành séc
* Người ký séc phải có tiền trên tài khoản mở tại ngân hàng. Số tiền trên
tờ séc không vượt qua số dư có trên tài khoản tại ngân hàng
Tuy nhiên theo ULC 1931, người ký phát séc có thể phát hành tờ séc mà
tại thời điểm đó trên tài khoản của họ không còn đủ số dư, miễn sao vào thời
điểm lúc thanh toán séc, trên tài khoản có đủ số tiền là được, nếu không tờ séc
đã phát hành vẫn có giá trị thanh toán nhưng người ký phát séc phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật.
* Thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực của séc:
+Thời hạn xuất trình là thời hạn mà người thụ hưởng phải chuyển giao
tờ séc cho ngân hàng theo lệnh để nhận tiền. Trong thời hạn này người phát
hành séc phải duy trì số tiền bằng mệnh giá séc, trên tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng để đảm bảo việc thanh toán cho người hưởng lợi.
Theo ULC 1931 thời gian xuất trình được quy định cụ thể: 8 ngày làm
việc (nếu séc lưu thông trong phạm vi một quốc gia), 20 ngày làm việc (nếu séc
lưu thông giữa các nước trên cùng một lục địa), 70 ngày làm việc (nếu séc lưu
thông giữa các nước khác lục địa).
Thời hạn xuất trình được tính từ ngày ký phát đến ngày xuất trình séc
cho ngân hàng thụ lệnh.
+ Thời hạn hiệu lực: Là thời hạn mà trong đó ngân hàng vẫn đóng vai
trò là người thụ lệnh, thực hiện việc chi trả cho người thụ hưởng.
Thời hạn hiệu lực được quy định là 1 năm, kể từ ngày hết hạn xuất trình.
Sau khi hết hạn hiệu lực của tờ séc, ngân hàng thụ lệnh không có nghĩa
vụ thực hiện việc chi trả. Tuy nhiên, Người ký phát vẫn còn nguyên nghĩa vụ
thanh toán tiền trên tờ séc cho người hưởng lợi vì tờ séc vẫn còn hiệu lực pháp

lý của một hợp đồng dân sự.
Một số loại séc thường sử dụng
- Séc vô danh: Là loại séc không ghi tên người hưởng lợi, thường ghi
“pay to bearer” ( trả cho người cầm séc). Với loại séc này, ai nắm giữ séc sẽ là
người hưởng lợi. Do vậy loại séc này có thể chuyển nhượng dễ dàng bằng cách
trao tay.
- Séc đích danh: Là loại séc chỉ định cụ thể tên người hưởng lợi, do đó
chỉ có người này mới lĩnh được tiền. Loại séc này không chuyển nhượng được.
- Séc theo lệnh: Là loại séc có ghi “pay to the orther” (trả theo lệnh) loại
séc này có thể chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hậu.
- Séc ghạch chéo: Là loại séc mà trên mặt trước của nó có hai gạch chéo
song song chạy từ góc này sang góc kia của tờ séc.Với hai ghạch chéo này,
người ký phát đã chỉ thị cho ngân hàng thụ lệnh chỉ thanh toán cho người thụ
hưởng bằng chuyển khoản, không thanh toán bằng tiền mặt. Có hai loại séc
gạch chéo:
+ Séc gạch chéo thông thường:giữa hai ghạch chéo không ghi tên ngân
hàng nhận thanh toán. Do vậy, loại này ngân hàng nào cũng có thể thực hiện
việc thanh toán.
+ Séc ghạch chéo đặc biệt: Giữa hai ghạch chéo có chỉ định cụ thể tên của
ngân hàng nhận thanh toán cho người hưởng lợi
- Séc chuyển khoản: Là loại séc chỉ chuyên dùng làm thanh toán bằng
chuyển khoản, không lãnh bằng tiền mặt cũng không chuyển nhượng được.
- Séc xác nhận: Là loại séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền. Mục
đích của việc xác nhận nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc, ngăn
chặn việc phát hành séc quá số dư trên tài khoản.
- Séc du lịch: Là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất
cứ chi nhánh hay đại lý nào của ngân hàng đó. Ngân hàng phát hành séc đồng
thời là ngân hàng trả tiền. Người hưởng lợi là khách du lịch có tiền tại ngân
hàng phát hành séc. Trên séc du lịch phải có chữ ký của người hưởng lợi khi
lĩnh tiền tại ngân hàng được chỉ định, người hưởng lợi phải ký tại chổ để ngân

hàng kiểm tra, nếu đúng ngân hàng mới trả tiền. Thời hạn hiệu lực của séc du
lịch do ngân hàng phát hành và người hưởng lợi thoã thuận quy định
Có thể nói rằng công ước Gơnevơ 1931 ra đời được coi là quy ước
chung mang tính quốc tế, điều chỉnh các hành vi và các đối tượng cơ bản có
liên quan đến việc sử dụng séc đồng thời nó cũng tạo ra những nền tảng cơ
bản về mặt pháp lý để các quốc gia căn cứ vào khi xây dựng luật séc quốc gia.
Các nước phát triển thế giới đã có luật séc riêng để điều chỉnh các hoạt động
có liên quan đến thanh toán bằng séc, nhưng ở Việt Nam hiện nay séc chỉ mới
được điều chỉnh bởi nghị định của Chính Phủ.
III. Séc trong thanh toán ở Việt Nam hiện nay :
1 Những quy định chung mang tính nguyên tắc trong thanh toán bằng séc
theo nghị định 30/CPngày 09/05/1996 của Chính Phủ và thông tư 07/TT-
NH1ngày 27/12/1996 của Thống Đốc NHNN:
Séc là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ra đời gần như sớm
nhất, từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch thanh toán - Séc
được coi là một công cụ thanh toán truyền thống. Sự lựa chọn séc ở mỗi quốc
gia là khác nhau: Ở Canada thanh toán bằng séc chiếm 41% về số lượng và
97% giá trị giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt; ở Mỹ thanh toán bằng
séc chiếm 71% về số lượng và 11% giá trị thanh toán không dùng tiền mặt...ở
các nước này đã có luật séc để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thanh toán. Đối với Việt Nam việc sử dụng séc đã có từ rất lâu ngay từ
thời kinh tế tập trung, tuy nhiên hình thức thanh toán này cho đến nay vẫn
chưa được phổ biến lắm, chưa có một luật séc chính thức điều chỉnh các quan
hệ trong thanh toán bằng séc. Hiện nay việc thanh toán bằng séc thực hiện
theo nghị định 30/CP của Chính phủ ngày 09/5/1996 về quy chế phát hành và
sử dụng séc (kèm theo nghị định này là thông tư số 07/TT-NH1 ngày
27/12/1996 của thống đốc NHNN hưởng dẫn thực hiện quy chế phát hành và
sử dụng séc).
Theo đó séc được định nghĩa như sau: “séc là lệnh trả tiền vô điều kiện
của người phát hành lập trên mẫu in sẵn do ngân hàng nhà nước quy định, yêu

cầu đơn vị trả tiền trích một số tiền nhất định từ tài khoản của người phát
hành để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc”.
Như vậy trong quan hệ thanh toán séc gồm có các chủ thể:

×