Tình hình và sử dụng tài khoản của khách hàng tại
NHNo&PTNT quận Ba Đình
I. Khái quát hoạt động của NHNo Ba Đình
1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội quận Ba Đình
Cùng với sự phát triển chung của kinh tế đất nước, kinh tế Hà nội đã
có bước tăng trưởng đáng kể, mặc dù những năm gần đây do cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực, kinh tế Hà nội cũng bị ảnh hưởng nhiều
nhưng nhờ có sự chỉ đạo kịp thời của các cấp, các ngành cùng với sự sáng
tạo của các nhà kinh tế, doanh nghiệp và nhân dân nên nền kinh tế vẫn
chuyển biến tích cực và tương đối toàn diện. Trên địa bàn thành phố Hà
Nội tính đến nay có trên 30.000 doanh nghiệp, trong đố có gần 600 doanh
nghiệp nhà nước, hầu hết là những doanh nghiệp tiềm lực tài chính và lĩnh
vực hoạt động rộng với đủ thành phần kinh tế và các ngành nghề. Các
doanh nghiệp đang không ngừng đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất
thực hiện theo chủ trương “Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá“ đất nước.
Ngoài ra còn phải kể đến có khoảng 63.000 số hộ kinh doanh thương
nghiệp và cá thể cùng tiến hành sản suất kinh doanh. Đây là một nơi có
tiềm vốn lớn, đồng thời là nơi có hoạt động ngân hàng rất sôi nổi với 4
NHTM quốc doanh có gần 30 chi nhánh hoạt động, 12 Chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài, 3 Ngân hàng liên doanh, 15 Ngân hàng cổ phần..
Ba Đình là một quận lớn nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội có diện tích
9,25 km
2
với dân số khoảng 220.900 người, mật độ dân số 22.390
người/km
2
. Đây là nơi tập trung đủ các thành phần kinh tế và các cơ quan
đầu não từ trung ương đến địa phương. Trên địa bàn không có sản xuất
nông nghiệp, nông thôn và nông dân đo đó Ba Đình cũng nằm trong quĩ
đạo phát triển chung của thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn quận có tới hàng
chục chi nhánh ngân hàng cùng hoạt động, cũng có dịch vụ tín dụng cơ bản
giống nhau, cùng cạnh tranh, tồn tại và cùng phát triển. NHNo quận Ba
Đình là một ngân hàng trong số ấy được ra đời trước đòi hỏi bức xúc của
cơ chế thị trường.
2. Khái quát hoạt động của NHNo &PTNT quận Ba Đinh.
2.1. Sự hình thành và phát triển.
Những năm đầu thập kỷ 90 nền kinh tế Việt Nam mới chuyển từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển hướng trên đã làm
cho ngân hàng phải thay đổi cơ bản để đáp ứng tiến trình đổi mới của nền
kinh tế, từng bước ngân hàng đã có những bước phát triển mạnh mẽ, hội
nhập với thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cơ chế thị trường, hoạt động ngân
hàng được đổi mới về cơ bản và toàn diện. Hai pháp lệnh Ngân hàng ngày
23/05/1990 hệ thống ngân hàng nước ta chuyển từ ngân hàng 1 cấp sang
ngân hàng 2 cấp tách biệt 2 chức năng quản lý và kinh doanh.
NHNo&PNNT Hà Nội là một trong những thành viên của NHNo Việt Nam,
ra đời vào năm 1988 thời gian đầu hoạt động chủ yếu tại các huyện ngoại
thành. Đến năm 1992 tách các NHNo ngoại thành Hà Nội, lúc này hoạt
động chủ yếu phục vụ khách hàng trên địa giới hành chính thuộc khu vực
nội thành. Sau một thời gian cùng với sự phát triển của cơ chế thị truờng,
NHNo Hà `Nội đã thành lập các chi nhánh ở các quận để phục vụ các tầng
lớp nhân dân và các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Trận địa của NHNo
lúc này không phải là “nông nghiệp nông thôn và nông dân”, khách hàng
đến với NHNo Hà Nội là các doanh nghiệp, cá nhân sản xuất và kinh doanh
hàng hoá..
Trước tình hình mới NHNo Hà Nội phải kinh doanh thực thực thụ như
một NHTM trên địa bàn thủ đô. NHNo&PTNT quận Ba Đình là một trong
bảy chi nhánh của NHNo&PTNT Hà Nội đó là NHNo&PTNT quận Hai Bà
Trưng, quận Hoàn Kiếm, quậnTây Hồ, quận Cầu Giấy, quận Thanh Xuân,
quận Đống Đa và quận Ba Đình. Tiền thân của NHNo&PTNT Ba Đình bây
giờ là NHNo khu vực Giảng Võ được thành lập và đi vào hoạt động từ
tháng 7/1996 theo quyết định số 18/QĐ-NHNo ngày 1/4/1996 của Tổng
Giám Đốc NHNo Việt Nam. Sau một thời gian kinh doanh, thử nghiệm có
hiệu quả, để có thể đứng vững và phát triển trên thương trường,
NHNo&PTNT quận Ba Đình đã được thành lập theo quyết định số 340/QĐ-
NHNo-02 ngày 19/6/1998 của Tổng Giám Đốc NHNo&PHNT Việt Nam.
Đất nước thời mở cửa, để tồn tại và phát triển kinh doanh trong môi
trường cạnh tranh đầy khốc liệt này thì buộc tự bản thân ngân hàng phải
tự chủ, tự lo hoạt động, phải năng động tìm kiếm khách hàng, thị trường
kinh doanh thì mới có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Song so với các chi
nhánh trong cùng địa bàn như NHCT Ba đình, sở giao dịch NHNo Việt
Nam ..thì trụ sở của NHNo Ba Đình hiện nay là quá nhỏ bé không tương
xứng với qui mô cần thiết của một ngân hàng giữa thủ đô Hà Nội nên ít
nhiều lòng tin của khách hàng cũng bị giảm sút.. Chính vì vậy sự cạnh
tranh của chi nhánh hiện nay trên địa bàn là rất khó khăn và không tưởng.
Chi nhánh nhận thức rõ điều này và xác định hoạt động ngân hàng trên địa
bàn Hà Nội vừa có những thuận lợi song lại tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Để tồn
tại và phát triển không còn cách nào khác chi nhánh phải tự vươn lên bằng
chính nội lực của mình.
Một ngân hàng nông nghiệp mới thoát thai trong cơ chế thị trường
hoạt động trong lòng thành phố sẽ xoay sở ra sao? Đó là câu hỏi mang tính
nghi ngờ của nhiều người.. Sự định hướng đúng đắn cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là vô cùng quan trọng. Trong khi đó lâu nay người
dân thành phố Hà Nội đã quen với các Ngân hàng có tên tuổi như NHCT,
NHĐT, NHNT, đối với các NHNo chưa in sâu vào tiềm thức họ , nhất là đối
với khách hàng lớn. Rất nhiều người còn chưa hiểu tại sao NHNo lại đóng
trụ sở ở giữa địa bàn thủ đô, đó là hạn chế thách thức lớn nhất đối với
ngân hàng nông nghiệp non trẻ như NHNo&PTNT quạn Ba Đình.
Bằng sự chỉ đạo nạy bén phù hợp với cơ chế mới từ Ban lãnh đạo đến
nhân viên NHNo Ba Đình đã đồng lòng đồng sức tổ chức tốt hoạt động kinh
doanh. Từ tổ chức tốt công tác tiếp thị đến công tác giao tiếp và phục vụ tốt
khách hàng với những dịch vụ mình có, không quản ngại thời gian và vất
vả, kiên trì vượt lên khó khăn. Bằng việc tự tìm đến các doanh nghiệp vừa
và nhỏ và doanh nghiệp mới thành lập lôi kéo họ chủ yếu bằng chính sách
phục vụ ”hết lòng vì khách của mình” như phục vụ tại chỗ, kể cả việc cho
vay cũng như việc gửi tiền, dịch vụ chuyển tiền đảm bảo đúng chế độ, an
toàn tuyệt dối “khi khách hàng cần là ngân hàng có ngay”.. Bên cạnh đó
nhờ sự quan tâm chỉ đạo hoạt động của ngân hàng cấp trên, chi nhánh
luôn phát triển những dịch vụ mới có nhiều tiện ích cho khách hàng như
dịch vụ chuyển tiền bằng điện, điện tử đó chính là thế mạnh của ngân hàng
nông nghiệp nhờ vào mạng lưới rộng khắp của NHNo trên toàn quốc.
Chính cách phục vụ tận tâm đó đã giúp cho chi nhánh hiểu khách hàng của
mình hơn và ngược lại khách hàng hiểu ngân hàng hơn và chừng mực nào
đó đã hấp dẫn khách hàng. Có thể nói sự vận dụng đúng qui luật thị trường
đã giúp cho chi nhánh NHNo quận Ba Đình đứng vững trong cơ chế thị
trường và hạn chế được nhiều rủi ro.
2.2. Cơ cấu hoạt động của bộ máy NHNo&PTNT quận Ba Đình.
NHNo&PTNT quận Ba Đình là một ngân hàng cấp 3 nên có cơ cấu tổ
chức gọn nhẹ. Từ những ngày đầu khi mới thành lập chi nhánh toàn bộ
công nhân trong ngân hàng chỉ có 8 người nhưng do hoạt động kinh doanh
Ban giám đốc
Phòng nghiệp vụ kinh doanh Phòng kế toán thanh toán, ngân quỹ
ngày càng phát triển, vì vậy hiện giờ cơ cấu tổ chức của chi nhánh đã tăng
lên 20 người.
Sơ đồ bộ máy quản lý của chi nhánh NHNo & PTNT quận Ba Đình:
Ban Giám đốc gồm 2 người
+ Bà Võ Lê Thu Thủy - Giám đốc NHNo&PTNT quận Ba Đình là người điều
hành chung mọi hoạt động của ngân hàng .
+ Bà Lê Minh Thủy -Phó Giám đốc kiêm về kế toán ngân hàng có trách
nhiệm điều hành hoạt động của ngân hàng khi Giám đốc vắng mặt.
-Phòng nghiệp vụ kinh doanh có 6 người (1 trưởng phòng, 1 phó phòng và
4 nhân viên)
Chức năng của bộ phận tín dụng:
+ Xây dựng các dự án nhỏ, thẩm định dự án đầu tư và dịch vụ tín dụng
khác trong địa bàn được phân công heo chỉ định của giám đốc ngân hàng
cấp trên trực tiếp quản lý.
+ Làm dịch vụ cho ngân hàng người nghèo.
+Xác định lựa chọn, xây dựng mạng lưới bán buôn, bán lẻ, làm đại lý giải
ngân cho NHNo Việt nam.
+Chấp hành chế độ báo cáo thống kê chuyên đề theo qui định.
- Phòng kế toán thanh toán và ngân quĩ có 12 người (1 trưởng phòng, 1
phó phòng và 10 nhân viên) có nhiệm vụ về các nghiệp vụ hạch toán kinh
doanh, thanh toán và kho quĩ.
Chức năng của bộ phận kế toán và kho quĩ:
+Hướng dẫn mở tài khoản tại chi nhánh cho khách hàng, thực hiện làm
dịch vụ thanh toán đến cá nhân, tổ chức chuyển tiền nhanh.
+Trực tiếp kế toán hạch toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ, thanh toán
theo qui định của NHNo Việt nam.
+Nhận tiền gửi của khách hàng bằng các hình thức tiết kiệm, có kỳ hạn,
không kỳ hạn và làm dịch vụ thu tiền mặt.
+Quản lý an toàn két quĩ thực hiện mức tồn quĩ, nghiệp vụ thu, chi và vận
chuyển tiển trên đường đi an toàn.
+Tổng hợp lưu trữ hồ sơ, tài liệu.
Mặc dù là một ngân hàng nhỏ, số lượng nhân viên không nhiều nhưng
ngân hàng luôn chú trọng đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ. Đa số
nhân viên đã tốt nghiệp đại học, ngân hàng cũng luôn quan tâm tới việc
phát động phong trào thi đua gây khí thế phấn đấu và hoàn thành tốt
nhiệm vụ của cán bộ công nhân viên trong ngân hàng. Về nghiệp vụ, ngân
hàng luôn chú trọng nâng cao chất lượng công tác hạch toán kế toán và
công nghệ ngân hàng, đảm bảo số liệu chính xác kịp thời giúp cho công tác
điều hành và phân tích kinh doanh có hiệu quả.
2.3. Hoạt động huy động huy động vốn:
Hiện nay trong hoạt động của nền kinh tế thị trường các NHTM hướng
hoạt động kinh doanh của mình theo phương châm ”đi vay để cho vay”, sự
tăng trưởng của nguồn vốn quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.
Công tác huy động vốn của NHNo Ba Đình càng chú trọng theo hướng đó
để nâng cao về số lượng cũng như chất lượng của nguồn vốn huy động. Để
hoạt động kinh doanh của mình được chủ động thì ngân hàng luôn đảm
bảo cho mình một nguồn vốn dồi dào. Chính vì vậy, NHNo Ba Đình đã xác
định cho mình cách thức cũng như chất lượng huy động vốn, nhanh, nhiều
ổn định đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng như định hướng kinh tế của
Nhà nước.
So với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn thì NHNo Ba Đình có môi
trường hoạt động kinh doanh không mấy thuận lợi, là một ngân hàng mới
thành lập với qui mô hoạt động còn nhỏ lại chịu sự cạnh tranh trong chuỗi
đan xen với không ít các NHTM có tầm cỡ khác. Nhưng không phải vì thế
mà NHNo Ba Đình không ngừng phát triển. Ngân hàng đã khắc phục tình
trạng bằng nhiều biện pháp để khơi tăng nguồn vốn huy động, từ tổ chức
công tác tiếp thị đến công tác phục vụ tốt khách hàng và luôn luôn đề cao
năng lực nghiệp vụ của mình. Năm 2001, ngân hàng đã thu được kết quả
đáng kể trong công tác huy động vốn. Nhờ việc đánh giá đúng tầm quan
trọng của nguồn vốn huy động nên chi nhánh đã phát huy được khả năng
huy động của mình. Để huy động được nhiều vốn nhanh và rẻ chi nhánh đã
có nhiều hình thức huy động phong phú như phát hành kỳ phiếu nội, ngoại
tệ với nhiều kỳ hạn trả lãi trước, trả lãi sau.. Có nhiều loại tiền gửi khác
nhau: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. Tiết kiệm có nhiều kỳ hạn và lãi suất luôn
luôn khác nhau, linh hoạt và hấp dẫn, thỏa mãn được tối đa nhu cầu của
khách hàng. Bên cạnh đó chi nhánh luôn làm tốt công tác chuyển tiền qua
mạng vi tính, chuyển tiền điện tử bảo đảm nhanh chóng và chính xác đã
thu hút được nhiều doanh nghiệp, tư nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng mình, từ đó huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trên tài khoản tiền
gửi thanh toán.
Về hình thức huy động vốn trong năm 2000, 2001 NHNo Ba Đình đã
đạt được kết quả về huy động như sau:
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT quận Ba Đình (Đơn vị
trđ)
Chỉ tiêu Năm 2000
Số tiền Tỷ trọng(%)
Năm 2001
Số tiền Tỷ trọng(%)
So sánh
Số tiền Tỷ trọng (%)
Tổng nguồn vốn
44.050 100 269.300 100 +225.250 511.35
1.Theo kết cấu tiền
gửi
-TG TCKT,TCTD
-TG tiết kiệm
-TG kỳ phiếu
2 Theo đơn vị tièn tệ
- Nội tệ
- Ngoại tệ
44.050 100
4032 9.15
18.923 42.96
21.095 47.59
44.050 100
32.105 72.88
11.945 27.12
269.300 100
153.200 56.88
43.288 16.07
72.812 27.05
269.300 100
243.353 90.36
25.947 9.64
+225.250 +
511.35
+149.168 +3699.6
+ 24.365 + 128.76
+51.717 +245.162
+225.250 +
511.35
+211.248 +657.99
+14.002 +117.22
Như vậy, từ số liệu trên ta thấy nguồn vốn huy động của năm 2001 tăng
gấp 5,1135 lần nguồn vốn huy động năm 2000 tổng nguồn đến
31/12/2001 là 269.300 trđ , trong đó:
Nội tệ : 243.353 trđ
Ngoại tệ: 25.947 trđ
So với cùng kỳ năm 2000 tăng 225.250 trđ, trong đó:
Nội tệ tăng 211.248 trđ
Ngoại tệ tăng: 14.002 trđ
Sở dĩ nguồn vốn tăng lên nhiều như vậy là do nguồn vốn tăng lên ở tất
cả các thành phần và thể loại tiền gửi. Cụ thể tiền gửi kỳ phiếu đã tăng
51.717 trđ (tăng khoảng 245,162%) của năm 2001 so với 2000, tiền gửi
tiết kiệm tăng 24.365 trđ (tăng 128,76%) của năm 2001 so với năm 2000.
Đặc biệt trong công tác huy động nguồn vốn dựa trên cơ chế thị trường “Ai
bán thì mình mua” bảo đảm chênh lệch doanh thu và chi phí và có lãi. Thực
tế chi nhánh đã huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng trên địa bàn có
nguồn vốn nhàn rỗi trong kinh doanh dẫn đến mức tăng tiền gửi của TCTD,
TCKT (chủ yếu là TCTD) lên đến 3699,6%. Số vốn thừa này một phần chi
nhánh đã dùng để cho vay tại chỗ, hòa chung với nguồn vốn khác và vẫn có
lãi. Số phần lớn còn lại chi nhánh đã chuyển cho Trung tâm điều hành và
được hưởng phí điều vốn với thu nhập không nhỏ..Đó cũng là thế mạnh
của các NHNo trong địa bàn thủ đô trong lĩnh vực kinh doanh nguồn vốn vì
được trung tâm điều hành xử lý vốn thừa cho các NHNo khác nhất là đối
với các NHNo tại tỉnh nguồn vốn vốn huy động ở đây thường huy động với
lãi suất cao hơn và khó huy động hơn.
Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn của NHNo Ba Đình cũng tự nhận thấy là
nguồn chưa thực sự ổn định, vững chắc. Tiền gửi của các dân cư còn chiếm
tỷ trọng nhỏ, mà TCTD còn lớn. Nhưng nói chung nguồn vốn huy động đã
tăng trưởng vượt bậc, đó là dấu hiệu đáng mừng, để khặc phục phần nào
thì được sự giúp đỡ của NHNo&PTNT Hà Nội trong tháng 12/2001 chi
nhánh đã tiến hành khai trương 1 bàn tiết kiêm số 28 tại Hoàng Cầu, quận
Đống Đa nhằm mở rộng mạng lưới huy động từ tiền gửi cuả dân cư.
Với sự mở rộng nguồn vốn huy động vượt bậc như trên là do trong
thời gian qua nhờ sự nẵm bắt nhạy bén và vận dụng tình hình kinh tế trên
địa bàn tình hình kinh tế thị trường với việc thực hiện nhiều biện pháp,
chính sách mới đặc biệt là trong chính sách khách hàng, chính sách lãi suất
phù hợp thực hiện một bước quan trọng về đa dạng hóa hình thức huy
động vốn cả nội tệ và ngoại tệ với lãi suất linh hoạt. Ngoài việc khai thác
khách hàng truyền thống, tích cực phát triển thêm nhiều khách hàng mới
với thái độ phục vụ tận tình chu đáo của đội ngũ cán bộ ngân hàng mà
khách hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Đặc biệt là sử dụng thế
mạnh của hệ thống NHNo với mạng lưới các chi nhánh đông đảo trong
toàn quốc từ miền núi đến hải đảo, từ thành thị đến nông thôn..đều có các
chi nhánh của ngân hàng nông nghiệp , điều này có tác dụng kích thích
người gửi tiền, chuyển tiền vừa tăng được thu dịch vụ, vừa tăng được số
dư gửi tiền vãng lai trên tài khoản vãng lai của khách hàng. Mặt khác cũng
chính NHNo rộng khắp đó đã giúp cho việc điều chuyển vốn của trung tâm
điều hành NHNo từ nơi thừa vốn dễ huy động (hưởng phí như NHNo Ba
Đình) đến nơi thiếu vốn, khó huy động (trả phí), điều này giúp cho việc kinh
doanh nguồn vốn luôn “phát đạt “, tăng trưởng liên tục và giúp cho khách
hàng đến với NHNo vì chi nhánh thường xuyên huy động các loại tiền gửi,
kỳ phiếu với thời gian tiện ích và lãi suất hấp dẫn.
2.4 .Tình hình sử dụng vốn:
NHNo Ba Đình cũng như các NHTM khác đều hoạt động theo nguyên
tắc đi vay để cho vay, vì vậy để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả thì
ngân hàng không những chú trọng đến công tác huy động vốn mà phải đặc
biệt quan tâm đến việc sử dụng vốn và nhấtt là công tác tín dụng của ngân
hàng.
Về tình hình sử dụng nguồn dư nợ tính đến 31/12/2001 dạt 50 tỷ đồng
Trong đó - Dư nợ ngắn hạn: 39 tỷ
- Dư nợ trung hạn: 11 tỷ
Tăng hơn so với cùng kỳ năm 2000 là 23 tỷ đồng tăng 185%.
Nợ quá hạn: 109 trđ chiếm 0,2% so với tổng dư nợ (Năm 2000 là 1%)
Thu nợ quá hạn rủi ro: 81 trđ
Thu lãi cho vay đạt: 3600 trđ
Ngoài chỉ tiêu dư nợ, trong năm chi nhánh còn thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh cho 4 đơn vị chủ yếu là bảo lãnh dự thầu và thực hiện hợp đồng.
Doanh số bảo lãnh là 3 tỷ đồng. Dư nợ bảo lãnh đến nay là 2,5 tỷ đồng. Cơ
cấu dư nợ đến năm 2001 như sau :Bảng 2 : Tình hình sử dụng vốn của
NHNo Ba Đình (Đơn vị trđ)