Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tiểu luận cao học, biên tập báo chí, phân biệt ngụy biện, ngụy tạo, ngộ biện cho thí dụ tiểu luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.95 KB, 20 trang )

A. LÝ THUYẾT
I.

LỜI MỞ ĐẦU
Sự lạm dụng ngôn từ là công cụ lớn nhất của lối mánh khóe và ngụy biện,

của các đảng phái, bè lũ và phe cánh trong xã hội.
Abuse of words has been the great instrument of sophistry and chicanery,
of party, faction, and division of society.
John Adams
Trong thực tế cuộc sống thường ngày cũng như trong khoa học và kỹ
thuật ta thường gặp những suy luận nhìn bề ngoài thì có vẻ đúng, có vẻ hợp
lý, nhưng nếu xem xét kỹ thì thấy chúng vi phạm các quy tắc logic. Người ta
gọi những sai lầm không cố ý trong suy luận là sự ngộ biện, còn những sai
lầm cố ý thì được gọi là sự ngụy biện.
Ngụy biện, ngụy tạo hay ngộ biện xuất hiện chủ yếu trong các cuộc tranh
luận. Tranh luận trên các diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến
không thể thiếu được trong một xã hội văn minh. Ở nhiều nước, lưu lượng
của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một dấu hiệu của
một xã hội lành mạnh. Ở các nước phương Tây, hầu như ngày nào báo chí
cũng có những bài của những cây bỉnh bút tranh luận về một vấn đề nóng
nào đó. Trên tivi cũng có những cuộc tranh luận trực tiếp giữa hai hay nhiều
người về những chủ đề từ “đại sự” đến những vấn đề tưởng như nhỏ nhất.
Trong các hội nghị khoa học, trước một vấn đề còn trong vòng nghi vấn,
người ta cũng có những chuyên gia tranh luận dưới dạng những bài giảng
khoa học.
Không phải ai cũng có thể đứng ra tranh luận, phải đảm bảo những qui
tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng
những lí lẽ logic, với thái độ thành thật và cởi mở, chứ không phát biểu theo
cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.



Xét thấy sự ngụy biện đang lan tràn trong tất cả các cuộc tranh luận trên
mạng, trên không gian báo chí, không loại trừ cả không gian học thuật.
Điều đáng chú ý là những lỗi lầm về ngụy biện, ngộ biện và ngụy tạo ở
người Việt lại hay thấy trong giới có học. Chỉ cần điểm qua báo chí,
websites, blog, v.v... chúng ta dễ dàng thấy rất nhiều cái-gọi-là "tranh luận"
thật ra chỉ là ngụy biện. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết đó là những
ngụy biện, mà thậm chí còn hết lời khen ngợi kẻ ngụy biện là ... uyên bác!
Điều này cho thấy trong những người Việt học cũng có người rất lười biếng
suy nghĩ và chẳng phân biệt được thật và giả, không có khả năng nhận dạng
được ngụy biện. Phải ghi nhận một điều là internet đã rất tuyệt vời, vì qua
những "tranh luận" và chửi bới của những kẻ tham gia trên internet, chúng ta
biết được bộ mặt xấu xí đằng sau những người mang nhãn mác "trí thức" hay
"có học". Những kẻ này tương đối nguy hiểm, vì với cái nhãn mác "có học"
đó, họ có cơ hội làm lũng đoạn xã hội và trở thành những con vi khuẩn làm
nhiễm trùng nền học thuật nước nhà. Do đó, cần phải giúp họ nhận ra đâu là
ngụy biện và đâu là logic.
Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài phân biệt ngụy biện, ngụy tạo, ngộ biện.
Không chỉ dừng lại ở việc phân biệt mà còn mong muốn ý thức rõ hơn vấn
đề này trong cuộc sống và đặc biệt là báo chí – cơ quan ngôn luận của Đảng
và Nhà nước, có ý nghĩa định hướng dư luận, công chúng.


II.

NỘI DUNG
1. Khái niệm
Ngụy là một từ gốc Hán trong tiếng Việt có nhiều nghĩa tùy thuộc vào

văn cảnh và từ ghép với nó. Nghĩa hay gặp có nghĩa là làm cho giống như trong

từ ngụy trang và một nghĩa khác chỉ phần thừa ra, phần không chính thống,
không được công nhận như là trong ngụy triều, ngụy binh, ngụy quân, ngụy
quyền.
Người ta gọi những sai lầm không cố ý trong suy luận là sự ngộ biện, còn
những sai lầm cố ý thì được gọi là sự ngụy biện.
Ngụy biện là sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mục
đích đánh lạc hướng người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng
cái sai là đúng và cái đúng là sai.
Ngụy tạo là cố ý tạo ra những sự vật, sự việc vi phạm quy tắc logic trong
su luận và hiện thực khách quan nhằm đánh lừa những người xung quanh, cũng
khiến cho người khác nhầm cái sai thành cái đúng và cái đúng thành cái sai.
Hay nói ngắn ngọn là ngụy tạo là hành động làm cho người khác hiểu sai vấn
đề.
Như vậy, dù có vô tình như ngộ biện hay cố ý như ngụy biện và ngụy tạo
đều đưa những thông tin sai, thiếu chính xác,…khiến cho những người tiếp cận
có cái nhìn sai lệch.
Và trong báo chí, việc ngụy biện, ngụy tạo và ngộ biện là một vấn đề cần
phải hạn chế tối đa.
2. Lịch sử vấn đề
Về lịch sử nghiên cứu ngụy biện, có một số mốc đáng chú ý sau:
- Trước thế kỉ XX, ngụy biện là vấn đề thuần túy logic học, trong đó các
tiền đề không bổ trợ cho kết luận. Vì thế, đó là một lỗi lập luận.


- Trong thế kỉ XX, tiếp tục quan điểm trên, trường phái Amsterdam cho
rằng ngụy biện là một lỗi lập luận trong hội thoại, và sử dụng nhiều phương
pháp phân tích hơn so với trước đây.
- Nghiên cứu của Hamblin (1970) mang tính bước ngoặt, chỉ ra được các
hạn chế của cách tiếp cận trên. Hamblin cho rằng “Ngụy biện là một luận cứ có
vẻ như có hiệu lực, nhưng thực ra là không”.

- Sau Hamblin, các nhà nghiên cứu ngụy biện nhấn mạnh vào hướng
nghiên cứu dụng hành – tương thoại, cho rằng ngụy biện là một vấn đề của giao
tiếp chứ không phải của logic thuần túy.
3. Phân loại
Một số loại ngụy biện thường gặp:
Ngụy biện có rất nhiều kiểu khác nhau. Sự phân loại ngụy biện đầu tiên
được Aristote tiến hành. Ông chỉ ra 13 loại ngụy biện, hay nói chung là sai lầm
logic, khác nhau. Các nhà logic học về sau này xác định thêm hàng chục loại
ngụy biện khác nữa. Nếu căn cứ vào cấu trúc của một phép chứng minh thì ta có
thể chia ngụy biện ra thành ba loại: ngụy biện liên quan đến luận cứ, ngụy biện
liên quan đến luận đề, và ngụy biện liên quan đến lập luận. Nhưng cụ thể hơn,
người ta có thể phân chia ngụy biện thành các loại căn cứ vào các thủ pháp mà
nhà ngụy biện sử dụng. Sau đây ta sẽ xét một số kiểu ngụy biện theo cách phân
chia này.
1. Ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân
Trong kiểu ngụy biện này, đáng lẽ phải đưa ra dẫn chứng, đưa ra chứng cứ cho
lập luận của mình, thì nhà ngụy biện lại dựa vào uy tín của người khác để thay
thế. Làm như vậy là ngụy biện, bởi vì uy tín của một người không đảm bảo chắc
chắn rằng tất cả những điều mà người đó nói đều đúng. Không phải uy tín làm


cho câu nói của người ta đúng, mà ngược lại, chính cái đúng của những câu nói
của một người tạo nên uy tín cho người đó.
Thí dụ: Trích “Trong bài trả lời phỏng vấn của mình, ca sỹ Mỹ Linh cho
rằng; Thuế chồng lên thuế, phí chồng lên phí, chất lượng công trình giao thông
chưa tương xứng với những khoản tiền mà dân phải đóng… và cuối cùng là kết
luận một câu xanh rờn “Đề xuất giải pháp đó, theo tôi, chứng tỏ anh Đinh La
Thăng quá kém cỏi!”
Chỉ chờ có thế, các trang mạng đua nhau đăng lại bài phỏng vấn ca sỹ này
với tiêu đề “Bắt dân đóng phí, anh Đinh La Thăng quá kém cỏi!” Đã không ít

người tung hô cho bài phỏng vấn này của Mỹ Linh, đơn giản vì đó là lời nói của
một người nổi tiếng. Tuy nhiên, để nói về hàm lượng kiến thức hay tư duy trong
câu nói thì cũng chưa được nhiều cho lắm”.
Về khía cạnh nghiệp vụ báo chí, để đảm bảo tính khách quan, nhà báo
không được sử dụng tính từ, phó từ, nhất là các tính từ và phó từ mang tính
phán xét, nặng hơn nữa là có hàm ý miệt thị. Các động từ, nếu không đảm bảo
trung tính, cũng không được dùng. Trong đoạn viết trên đây, tác giả Hoàng
Thắng, ngược lại, đã sử dụng ít nhất ba từ không khách quan; “xanh rờn”, “đua
nhau”, “tung hô”.
Suy luận “đơn giản vì đó là lời nói của một người nổi tiếng” là quá đơn
giản. Người ta “tung hô” (nếu có) ý kiến của ca sĩ Mỹ Linh có thể còn vì nhiều
nguyên nhân khác, như; cô ấy đẹp, cô ấy là dân thường (giống người ta) chứ
không phải lãnh đạo, cô ấy là phụ nữ, cô ấy đã nói đúng điều người ta thích, v.v.
2. Ngụy biện dựa vào đám đông, dựa vào dư luận
Ngụy biện dựa vào đám đông thường xảy ra ở những cuộc tranh luận
trước một đám đông người. Nhà ngụy biện sử dụng khả năng hùng biện của
mình, lợi dụng truyền thống, tình cảm, quyền lợi, thói quen, … của đám đông
để tranh thủ cảm tình và sự ủng hộ của đám đông đó, tạo áp lực buộc những


người tranh luận với ông ta phải chấp nhận quan điểm của ông ta. Trong kiểu
ngụy biện dựa vào dư luận, thay cho việc đưa ra luận cứ và chứng minh luận
điểm, người nói lại cho rằng luận điểm là đúng vì có nhiều người công nhận
như vậy. Đây là lập luận ngụy biện, vì nhiều người cho là đúng chưa đảm bảo
tính đúng đắn của luận điểm; ngược lại, nhiều người cho là sai cũng không có
nghĩa là luận điểm chắc chắn sai.
3. Ngụy biện dựa vào sức mạnh
Trong kiểu ngụy biện này, nhà ngụy biện sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực để ép người khác tin vào và chấp nhận luận điểm của mình. Ở đây, sức
mạnh chứ không phải là tính chân lý của luận điểm bắt người nghe phải tin theo.

Thí dụ: Một giám đốc ra lệnh cho kế toán phải chi một khoản tiền sai nguyên
tắc. Người kế toán phản đối, nói rằng làm như vậy là trái nguyên tắc tài chính.
Khi đó, vị giám đốc nói:“Cứ làm như tôi nói, chắc chắn sẽ đúng. Nếu anh không
làm, tôi sẽ cho anh biết…”.
Ở đây, cụm từ “tôi sẽ cho anh biết…” hàm ý đe dọa.
4. Ngụy biện bằng cách đánh vào tình cảm
Trong kiểu ngụy biện này, thay vì đưa ra các luận cứ và lập luận để chứng tỏ
luận điểm của mình đúng, nhà ngụy biện tìm cách tác động vào tâm lý, tình cảm
của người nghe để gợi lên lòng thông cảm hoặc thương hại để được thừa nhận là
đúng.
Thí dụ: Một người bị cáo buộc phạm tội ăn cắp. Ra trước tòa, anh ta kêu oan.
Thay vì đưa ra các chứng cứ để chứng minh rằng mình vô tội, anh ta lại đi kể lể
về tình cảnh gia đình khó khăn, nghèo đói, nhân thân tốt,… để hy vọng hội đồng
xét xử thông cảm mà kết luận anh ta vô tội.
5. Ngụy biện đánh tráo luận đề


Đây là kiểu ngụy biện rất phổ biến. Trong kiểu ngụy biện này, trước hết nhà
ngụy biện thay thế luận đề ban đầu bằng một luận đề mới trong quá trình tranh
luận. Luận đề mới này không tương đương với luận đề ban đầu. Sau đó ông
ta chứng minh luận đề mới một cách rất chặt chẽ và cuối cùng tuyên bố là mình
đã chứng minh được luận đề ban đầu. Vì hai luận đề là không tương đương với
nhau nên tính chất ngụy biện lộ rõ. Để thực hiện kiểu ngụy biện này, nhà ngụy
biện hay sử dụng những hiện tượng ngôn ngữ đồng âm khác nghĩa, một từ có
nhiều nghĩa, hoặc đem đồng nhất cái bộ phận với cái toàn thể, đồng nhất cái
toàn thể với cái bộ phận; hoặc diễn tả mơ hồ để muốn hiểu theo cách nào cũng
được,…
Thí dụ: Người ta đi chứng minh rằng cái bánh không thể biến mất được như
sau: Cái bánh là vật chất, mà vật chất thì không biến mất, vậy cái bánh không
biến mất.

Trong suy luận này người ta thay luận đề ban đầu bằng luận đề “vật chất không
biến mất”, rồi dựa vào triết học để chứng minh luận đề thứ hai này. Tuy nhiên
đây là suy luận ngụy biện, vì hai luận đề này không tương đương với nhau, bởi
lẽ từ “vật chất” được hiểu với hai nghĩa khác nhau.
6. Ngụy biện ngẫu nhiên
Trong loại ngụy biện này một sự kiện ngẫu nhiên xảy ra được nhà ngụy biện coi
là có tính chất quy luật.
Thí dụ: Một người lập luận rằng khi làm những việc quan trọng trong đời như
cưới xin, làm nhà, lập công ty kinh doanh, v.v. ta phải chọn ngày lành, nếu
không thì sẽ không thành công, hoặc không hạnh phúc. Cặp chàng trai và cô gái
nọ - anh ta nêu ví dụ - yêu nhau thắm thiết, được gia đình và bạn bè ủng hộ. Họ
tổ chức cưới vào một ngày lẻ theo âm lịch, một ngày không tốt. Và chỉ một năm
sau họ đã chia tay nhau.


Sự trùng lặp giữa việc cưới vào ngày lẻ và sự tan vỡ hạnh phúc của gia đình trẻ
nói đến trong ví dụ này chỉ là một điều ngẫu nhiên, nhưng lại được nhà ngụy
biện coi là có tính phổ biến, tất yếu, có tính quy luật.
7. Ngụy biện đen - trắng
Ngụy biện đen - trắng xảy ra khi trong lập luận chỉ nhìn thấy và nêu lên các khả
năng đối lập nhau, các thái cực, từ đây cho rằng không phải là cực này thì là cực
kia, loại bỏ tất cả các khả năng khác.
Thí dụ: Có người khẳng định rằng khi răng nanh của trẻ em mọc chênh ra bên
ngoài (răng khểnh) thì nên nhổ bỏ, vì nếu để nguyên như vậy thì “cái duyên” do
nó mang lại không bù được sự khó khăn khi làm vệ sinh răng miệng, và vì thế
mà dễ bị sâu răng.
Trong lập luận này người nói chỉ nêu lên hai thái cực: hoặc để nguyên răng mọc
lệch như vậy, hoặc nhổ bỏ răng đó. Trong khi đó thì trên thực tế còn có khả
năng thứ ba, đó là tiến hành chỉnh nha cho trẻ nhỏ, để răng mọc đúng.
8. Ngụy biện bằng cách dựa vào nhân quả sai

Ngụy biện bằng cách sử dụng lập luận trong đó quan hệ nhân quả giữa các hiện
tượng được hiểu sai có nhiều phân loại.
(a) Đánh đồng nguyên nhân với nguyên cớ
Trong loại ngụy biện này nhà ngụy biện cố tình lấy nguyên cớ thay cho nguyên
nhân để biện minh cho hành động của mình, hay để thuyết phục người khác.
Nguyên nhân thật sự của việc các chính quyền Mỹ và Anh tiến hành chiến tranh
với Iraq là các nguồn lợi dầu mỏ to lớn ở quốc gia này, nhưng họ lại nói rằng
nguyên nhân là chính quyền Saddam Husein phát triển và cất giữ nhiều lọai vũ
khí hủy diệt hàng loạt. Thật ra đó chỉ là cái cớ mà thôi.
(b) Sau cái đó vậy là do cái đó


Trong mối liên hệ nhân quả thì nguyên nhân bao giờ cũng xảy ra trước kết quả,
tuy nhiên như vậy không có nghĩa là một hiện tượng, sự kiện xảy ra trước bao
giờ cũng là nguyên nhân của một hiện tượng, sự kiện xảy ra sau. Ngụy biện sau
cái đó vậy là do cái đó là kiểu ngụy biện trong đó khi thấy hai sự kiện, hiện
tượng A và B xảy ra lần lượt theo thời gian cho rằng A là nguyên nhân của B.
Thí dụ: Một người hy vọng làm giàu bằng cách mua vé xổ số. Anh ta đã mua
khá nhiều vé xổ số, nhưng chưa trúng giải nào cả. Anh ta bèn lên chùa cúng vái,
cầu xin Đức Phật cho anh ta trúng xổ số. Vài ngày sau anh ta trúng giải đặc biệt
nhờ mua vé xổ số. Anh ta kết luận rằng nhờ cầu xin Đức Phật nên trúng giải đó.
Ở đây việc lên chùa cầu xin là sự kiện xảy ra trước, nó không phải là nguyên
nhân của sự kiện trúng xổ số xảy ra sau đó.
9. Dựa vào sự kém cỏi
Đây là kiểu ngụy biện trong đó người ngụy biện căn cứ vào việc ai đó không
chứng minh được một mệnh đề (hoặc lý thuyết, giả thuyết,…), hoặc không tìm
thấy được một đối tượng nào đó để khẳng định rằng mệnh đề trên sai, hoặc đối
tượng đó không tồn tại.
Thí dụ: Có thể khẳng định rằng không thể có sinh vật có trí tuệ nào khác trong
vũ trụ ngoài con người, vì nếu có thì khoa học đã phát hiện ra các sinh vật đó

rồi.
Đây là khẳng định sai lầm, vì ngay cả khoa học ở thời đại chúng ta cũng còn có
rất nhiều hạn chế, nên có thể các sinh vật có trí tuệ khác tồn tại trong vũ trụ,
nhưng vì sự hạn chế, sự kém cỏi của mình mà khoa học hiện nay không phát
hiện được.
10. Lập luận vòng quanh


Loại ngụy biện này xảy ra khi người ta vi phạm quy tắc đối với luận cứ trong
chứng minh. Cụ thể là ở đây các luận cứ không được chứng minh độc lập với
luận đề.
11. Khái quát hóa vội vã
Đây là kiểu ngụy biện xảy ra khi người ta sử dụng suy luận quy nạp trong
lập luận, trong đó người ta đi đến kết luận tổng quát sau khi khảo sát rất ít
trường hợp riêng.
Thí dụ: Sau bảy phiên giao dịch đầu tiên của Trung tâm giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh, thấy rằng giá cổ phiếu của các công ty đã niêm yết
liên tục tăng tới mức trần, người ta đi đến khẳng định rằng giá cổ phiếu của tất
cả các công ty có niêm yết ở Trung tâm này sẽ luôn luôn tăng đến mức trần.
Suy luận này đưa ra kết luận không đáng tin cậy, vì, như đã biết, kết luận trong
suy luận quy nạp chỉ đúng với một xác suất nào đó mà thôi, không đảm bảo
chắc chắn đúng ngay cả khi các tiền đề đều đúng; và xác suất đúng của kết luận
trong loại suy luận này rất thấp nếu số lượng các trường hợp riêng được khảo
sát nhỏ. Trong ví dụ của chúng ta số lượng các trường hợp riêng được khảo sát
là bảy, quá nhỏ.
12. Câu hỏi phức hợp
Loại ngụy biện này xảy ra khi người ta đưa ra một câu hỏi bên trong đó chứa
hai câu hỏi, và một câu trả lời duy nhất được coi là câu trả lời cho cả hai câu
hỏi.
Thí dụ: Hỏi : “Anh có hay chơi thể thao và đọc tiểu thuyết kiếm hiệp không ?”.

Câu trả lời “có” được coi là câu trả lời cho cả hai câu hỏi “Anh có hay chơi thể
thao không ?” và “Anh có hay đọc tiểu thuyết kiếm hiệp không ?”. Câu trả lời
“không” cũng được diễn giải tương tự.


13. Ngụy biện bằng cách sử dụng những phương pháp suy luận có tính xác
suất
Trong những suy luận kiểu này nhà ngụy biện sử dụng các phương pháp suy
luận cho kết quả đúng với một xác suất nhất định (ví dụ như suy luận tương tự,
suy luận quy nạp), nhưng lại coi các kết luận đó như là những điều khẳng định
chắc chắn.
14. Ngụy biện bằng cách diễn đạt mập mờ
Trong trường hợp này nhà ngụy biện cố tình hành văn một cách mập mờ để sau
đó giải thích theo ý mình.
Thí dụ: Gánh xiếc Bacnum đề nghị Xamlôi - chuyên gia về toán đố vui của Mỹ
ở cuối thế kỷ XIX đưa ra cho một bài toán đố. Ai giải được sẽ được thưởng. Bài
toán như sau:
“Một con chó và một con mèo chạy thi 100 fút lượt đi và lượt về. Con chó chạy
mỗi bước 3 fút, con mèo chạy mỗi bước 2 fút, nhưng nó nhảy được 3 bước thì
đối thủ của nó mới nhảy được 2 bước. Con nào về trước?”
Vì quãng đường cả đi lẫn về là 200 fút, nên mèo phải nhảy đúng 100 bước. Chó
nhảy mỗi bước 3 fút, vậy nó phải nhảy 34 bước ở lượt đi (nếu nhảy 33 bước thì
mới được 33 * 3 = 99 fút) và 34 bước ở lượt về. Như vậy, chó phải nhảy tổng
cộng 68 bước. Mèo nhảy 3 bước thì chó mới nhảy được 2 bước, vậy mèo nhảy
được 100 bước thì chó mới nhảy được
100 * (2/3) = 66,667 (bước) < 68 (bước)
Như vậy mèo về đích trước.
Nhưng Bacnum lại trả lời rằng chó thắng cuộc, vì, ông ta giải thích rằng câu “nó
nhảy được 3 bước thì đối thủ của nó mới nhảy được 2 bước” có nghĩa là chó
nhảy được 3 bước thì mèo mới nhảy được hai bước, từ “nó” ở đây hiểu là chó!



(Theo Phan Thanh Quang “Giai thoại toán học”, tập một, NXB Giáo dục, 1995,
tr. 7)
Ngụy tạo cũng được phân loại tương tự như ngụy biện:
Ví dụ: ngụy tạo dựa vào sức mạnh: Một chủ tịch tỉnh có một người con trộm
cướp, nhưng vì có sức mạnh nên đã yêu cầu các cơ quan chức năng không làm
rõ sự việc để che đậy cho đứa con của mình. Và ông đã chi một khoản tiền cho
những người thực hiện yêu cầu của ông.
Hay ngụy tạo dựa vào tình cảm: Ví dụ như trường hợp của ekip chương trình
“Điều ước thứ 7” gặp phải, khi để tình cảm vào việc phát sóng hoàn cảnh của vợ
chồng hát rong, đã dẫn đến hậu quả rất lớn.
Thí dụ về ngộ biện: Nhiều nhà báo khi đi tác nghiệp, do không tìm hiểu kĩ vấn
đề mà chỉ nghe thông tin từ một phía khiến thông tin đưa ra sai lệch mà vô tình
mắc phải.
4. Trong báo chí
Trong báo chí, ngụy biện, ngụy tạo và ngộ biện đều xuất hiện và ngày càng
nhiều. Nó dẫn đến việc thông tin sai sự thật, tạo dựng những thông tin, sự việc
đánh lừa công chúng nhằm thực hiện mục đích của một cá nhân, tổ chức.
Như đã thông tin, ngày 12/9, Văn phòng Chính phủ có văn bản thông báo ý
kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các cơ quan chức
năng điều tra, xử lý việc một số trang thông tin điện tử (blog, mạng xã hội) đăng
tải thông tin có nội dung vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm
bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước ta,
gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội. Đây là thủ đoạn thâm
độc của các thế lực thù địch. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an
chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng
tập trung chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có hành vi vi



phạm theo đúng quy định của pháp luật. (Xem bài: TT Nguyễn Tấn Dũng: Điều
tra việc đăng tin bôi đen lãnh đạo đất nước)
Ngay sau khi Văn phòng Chính phủ truyền đạt ý kiến chỉ đạo nói trên của
Thủ tướng, ngày 13/9, trên một số trang mạng xã hội, blog lại xuất hiện các
thông tin ngụy biện rằng, viết, bình luận trên internet là quyền tự do thông tin,
việc siết chặt quản lý internet là vi phạm “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí”…
Đây là cách giải thích mang tính quy chụp, hoàn toàn không có cơ sở khoa
học. Ở Việt Nam hay nhiều quốc gia trên thế giới, việc thông tin trên internet
đều phải tuân thủ những quy định, nguyên tắc cụ thể, trong đó dù ở nước đang
phát triển hay các nước phát triển, các thông tin đăng tải lên internet phải đảm
bảo tính khách quan, chính xác. Các thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ cá
nhân, tổ chức đều là phạm pháp và người vi phạm phải chịu trách nhiệm trước
luật pháp.

5. Phương pháp loại bỏ ngụy biện, ngụy tạo và ngộ biện.


Phương pháp chung bác bỏ ngụy biện là làm ngược lại những thủ pháp
mà nhà ngụy biện đã sử dụng. Ví dụ, nhà ngụy biện hành văn mập mờ thì ta đòi
hỏi phải hành văn rõ ràng; nhà ngụy biện đánh tráo luận đề, đánh tráo khái niệm
thì ta đòi hỏi xác định lại, định nghĩa lại khái niệm khi tranh luận; nhà ngụy biện
dùng luận cứ không chân thực thì ta chỉ rõ ra điều đó,…
Một phương pháp là nghiên cứu thật nhiều các dạng ngụy biện và các ví
dụ ngụy biện, để khi gặp ngụy biện có thể nhận ra chúng và bác bỏ.
Nói chung, nắm được các quy tắc logic thì ta dễ dàng vạch ra được sự
ngụy biện trong suy luận.
Và từ đó, chính công chúng cũng nhận biết được ngụy biện, ngụy tạo và
ngộ biện trong báo chí, hạn chế được vấn đề này trong báo chí. Như vậy, công
chúng cần là những độc giả, thính giả và khán giả thông minh.



III.

KẾT LUẬN

Việc phân biệt ngụy biện, ngụy tạo và ngộ biện giúp chúng ta biết cách nhận
biết, phát hiện và hạn chế mắc phải.
Ngụy biện và ngụy tạo là bản thân người thực hiện cố ý thực hiện nên cần phải
lên án, xử lý theo mức ảnh hưởng.
Ngộ biện là do vô tình, cũng cần có nhắc nhở, khiển trách và bản thân người
mắc phải cũng biết rút kinh nghiệm.
Báo chí cần hạn chế tối đa những sai sót mắc phải do ngộ biện, ngụy biện, ngụy
tạo này.


B. THỰC HÀNH

C. Báo Thanh niên
D. Những 'công ty 2 sọt'
04/01/2015 09:00
Tôi Viết
Mỗi “công ty” dù chỉ có một ngýời (chủ yếu là phụ nữ), nhýng với chiếc xe máy
cà tàng và 2 chiếc sọt ðầy ắp hàng hóa ðủ loại, có thể phục vụ các “thýợng ðế” ở nõi
thâm sõn cùng cốc và không xu dính túi...

Những bản làng xa xôi ở vùng cao H.Đakrông (Quảng Trị), nơi những “công ty 2 sọt”
đến phục vụ


Một ngày se lạnh, trong chuyến công tác

vùng cao cuối nãm, mải chãm chú nhìn núi
rừng ýớt át khuất dần sau cánh cửa xe, tôi
thoáng giật mình với những cái bóng phụ nữ
thuộc “công ty 2 sọt” lầm lũi rồ ga xe máy ở
phía trýớc.
Cõng chợ lên non
Xe dừng lại gần trụ sở UBND xã Pa Nang,
một xã vùng sâu của H.Ðakrông (Quảng Trị).
Việc lũ trẻ vây quanh và hò hét làm tôi dễ
dàng phát hiện sự có mặt của một cái “chợ di
ðộng” từ ðằng xa. Lại gần mới biết, lũ nhóc
ðang ðổi những bó ðót (một loại cây gần nhý
lau sậy ở trên rừng, có thể bó lại làm chổi quét
nhà) lấy những chiếc chong chóng bằng nhựa
nhiều màu sắc... từ một ngýời phụ nữ ðang bịt
kín mặt mày.

Phục vụ các thượng đế
vùng cao là phải cưng
chiều hơn vùng đồng
bằng. Họ có rất nhiều
cách mặc cả... lạ. Có
người đòi đổi cả súc gỗ
to chỉ để lấy vài ký thịt
(chẳng ai dám đồng ý vì
làm sao chở gỗ về); có
người chưa biết sử dụng
tiền nên đưa 2.000 bạc
lẻ mà khăng khăng lấy
một con cá to; có người

dắt cả con heo ra không
phải để đổi thực phẩm
mà để đổi chính chiếc xe
máy mà các “chủ chợ”
đang đi

Hàng hóa của cái “chợ” này khá phong phú, từ cá, thịt, rau củ
Chị Mai Thị Tuyết,
quả ðến bánh mì, xúc xích... ðều có. Tất nhiên cũng không thể
chủ một “công ty 2 sọt”
thiếu ðồ chõi và bánh kẹo, ðó là những thứ duy nhất mà lũ trẻ
vùng cao chịu trao ðổi...
Kéo khẩu trang, lấy chiếc nón quạt mồ hôi dù ðang giữa ngày
ðông, ngýời phụ nữ tầm hõn 40 tuổi, “bà chủ” của “công ty 2 sọt”, giới thiệu tên là Nguyễn Thị Hằng, nhà ở tận
TT.Khe Sanh (H.Hýớng Hóa). “Không có công ãn việc làm nên mới sắm xe sắm sọt, mua ði bán lại với ðồng bào
kiếm ít ðồng tiền lời. Ban ðầu tính làm một thời gian rồi nghỉ, ai dè lâu thành quen, cũng ngót chục nãm rồi ðấy”,
bà Hằng kể.
Bà cũng nhý một số ðồng nghiệp khác chia sẻ nhiều thứ về công việc mýu sinh của mình, vốn có cả... lịch sử
hình thành và phát triển hẳn hoi. Nhý những ngýời già ở thôn Ðá Bàn (xã Pa Nang) kể lại rằng mấy chục nãm
trýớc, khi núi rừng thâm u, khi con ðýờng chỉ là ðất sỏi, có những ngýời ðàn bà ði xe ðạp và chở theo rất nhiều
thực phẩm ðến.
“Họ mang ðến cho dân bản những thứ rau củ, cá tôm và nhiều vật dụng của ngýời miền xuôi mà dân bản
không mấy khi ðýợc ãn, ðýợc thấy. Dân bản lạ lắm, nhýng không có tiền ðể mua. Có ngýời mạnh dạn ra hỏi họ
có ðổi chuối, ðổi sắn, ðổi gà không thì thấy họ gật ðầu...”, già Kôn Việt (65 tuổi) kể lại.
Thế rồi, từ từ, những chiếc xe ðạp nay ðã ðýợc thay bằng xe máy. Nhờ ðó, các “công ty 2 sọt” ðã “výõn tầm”
ðến những bản làng xa xôi hõn, “với tay” ðến những khách hàng vốn cả ðời chýa một lần biết về chợ. Vậy mà
mọi thứ bây giờ nhý ðã thành quen, những cái “chợ di ðộng” nay nhý ðã thành một phần không thể thiếu của dân
bản. Giờ ðó, ngày ðó không thấy bóng “chợ”, dân bản lại quay quắt ngóng trông...
Chị Mai Thị Tuyết (trú TT.Krông Klang, H.Ðakrông), chủ một “công ty 2 sọt” chia sẻ rằng: “Phục vụ các
thýợng ðế vùng cao là phải cýng chiều hõn vùng ðồng bằng. Họ có rất nhiều cách mặc cả... lạ. Nhiều lúc không

bán không ðýợc mà bán cũng không xong. Không “lạ” sao ðýợc khi có ngýời ðòi ðổi cả súc gỗ to chỉ ðể lấy vài ký
thịt (chẳng ai dám đồng ý vì làm sao chở gỗ về); có ngýời chýa biết sử dụng tiền nên ðýa 2.000 bạc lẻ mà khãng
khãng lấy một con cá to; có ngýời dắt cả con heo ra không phải ðể ðổi thực phẩm mà ðể ðổi chính chiếc xe máy
mà các “chủ chợ” ðang ði”.
Mặc cả không giống ai


Vì tập tục nên ngýời vùng cao Quảng
Trị không quen hoặc không mấy khi ði chợ. Bằng chứng là
những ngôi chợ vùng cao sau này dù ðýợc xây mới nhýng vắng
hoe vắng hoắt và dần cũng rã ðám. Ấy vậy mà các ngôi “chợ di
ðộng” vẫn tồn tại qua nhiều nãm. Bởi thế, có ngýời ví von rằng
ngoài việc mang lýõng thực, thực phẩm, những ngýời ðàn bà
hóa thân thành những ngôi chợ ấy còn mang lên vùng cao một
chút
vãn
hóa

Cách đây chừng 3 năm, đã có một sự
việc khiến bất kỳ người phụ nữ nào làm
nghề này cũng phải kinh hãi, đó là cái
chết tức tưởi của em Hồ Thị Liễu (lúc
đó mới 16 tuổi, trú xã Tân Lập, Hướng
Hóa) khi đi xe máy, đưa cá vào bán rong
ở xã A Xing. Thủ phạm là một thanh
niên địa phương, y đã giết, hiếp, cướp
tài sản của Liễu và tự tử sau đó 1 ngày
khi lực lượng công an phanh phui vụ
việc.


miền

xuôi...

Dù vậy, cái nghiệp “vác chợ lên non” không phải nói cũng biết là rất vất vả. Thực tế thì việc kiếm tiền với cái
nghề này là không dễ. Các chủ “công ty 2 sọt” phải ra chợ huyện lúc tảng sáng, chất nhiều loại hàng lên 2 sọt
bằng sắt và bắt ðầu chinh phục những cung ðýờng núi. Làm chợ di ðộng không có chỗ cho những tay lái “gà
mờ” và nếu ðã là chủ “công ty 2 sọt” thì chắc chắn phải nếm mùi... tai nạn. Bởi ðýờng vùng cao ngoài ổ gà ổ vịt,
còn có vô kể những khúc cua cùi chỏ, những con suối với dày ðặc ðá cuội phủ ðầy rong rêu... Ðấy là chýa nói
ðến cảnh phải ðối phó với những “tay lái lụa vùng cao”, thýờng phóng bạt mạng, kẹp 3 kẹp 4.
“Chuyện thủng lốp, ðứt xích... là cõm bữa nên không ít lần tôi phải è cổ ðẩy bộ cả chục km.
Nhýng bây giờ kinh nghiệm rồi, tôi luôn mang theo ðồ nghề sửa xe khi ði bán hàng. Nếu có sự
cố thì làm thợ luôn...”, chị Cao Hồng Liễu, một ngýời có thâm niêm 5 nãm trong nghề tếu táo
kể.

Nếu không có “chợ di động”, bà con vùng cao thật khó khăn khi tìm thực phẩm hằng ngày
- Ảnh: Nguyễn Phúc
Nhýng ðó chýa ðáng bận tâm bằng các tình huống nguy hiểm hõn mà những
ngýời phụ nữ mýu sinh bằng công việc này phải ðối mặt. Ðó là những lúc gặp các gã
say, kẻ xin ðểu, thậm chí là ãn cýớp. “Trýớc thì chỉ biết khóc nhýng sau cũng gan dần
và nộ lại họ. Ngýời vùng cao vốn thật thà, tốt tính, có vài ngýời cũng vì nghèo khó mới


bột phát làm việc xấu. Nên nhiều khi mất hàng, mất tiền tôi cứ an ủi mình rằng thôi thì
coi nhý biếu họ một bữa no”, chị Tuyết chia sẻ.
Nguyễn Phúc

Biên tập bài: Những “công ty 2 sọt”
1. Xác định nội dung chủ yếu của tác phẩm
Quá trình hình thành và phát triển của “công ty 2 sọt” và hoạt động với những

nét đặc sắc của những “công ty” này tại huyện Đakrông (Quảng Trị).
2. Xác định chủ đề tư tưởng của tác phẩm
Vai trò của những “công ty 2 sọt” đối với người dân nơi thâm sơn cùng cốc.
Những khó khăn, nguy hiểm mà “công ty 2 sọt” này gặp phải.
3. Sửa bản thảo
4. Viết nhận xét tổng hợp
Những “công ty 2 sọt” là bài báo thành công, người biên tập cũng đã làm
rất tốt vai trò của mình trước khi bài báo được đăng.
Bài mắc rất ít lỗi, câu văn đơn giản, dễ hiểu, gần gũi như chính con người ở
vùng đất Đakrông hay như chính những người làm chủ “công ty 2 sọt” này.
Cách đặt Tít hay, gây tò mò cho người đọc, bởi bản thân em đã bị thu hút khi
đọc được tít này “Những “công ty 2 sọt” ”
Sapo của bài cũng đã khái quát được nội dung chủ yếu của bài, nhưng không
đưa hết những thông tin lên.
“Mỗi “công ty” dù chỉ có một ngýời (chủ yếu là phụ nữ), nhýng với chiếc xe
máy cà tàng và 2 chiếc sọt ðầy ắp hàng hóa ðủ loại, có thể phục vụ các “thýợng ðế” ở
nõi thâm sõn cùng cốc và không xu dính túi...”


Tít xen cũng đưa ra thông tin trong bài báo: “Cõng chợ lên non” – hình
ảnh ẩn dụ đặc sắc, khiến người đọc muốn tìm hiểu xem quá trình mà những
người phụ nữ này “cõng chợ” như thế nào.
“Mặc cả không giống ai” nhưng nội dung chính của phần này lại phản
ánh sự khó khăn, vất vả mà những người phụ nữ “Cõng chợ lên non”.
Bài còn mắc phải một số lỗi về chính tả, viết tắt gây hiểu sai nội dung.
Bài có ô bổ sung thêm thông tin, đặc biệt là ô bổ sung thông tin về những
khó khăn của những người phụ nữ của “công ty 2 sọt” này, đó là cái chết của em
Hồ Thị Liễu. Qua đó khắc họa được những vất vả, nguy hiểm trên con đường
“cõng chợ lên non” này.
Tóm lại, tác phẩm “Những “công ty 2 sọt” là một tác phẩm hay, được đăng.




×