Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ ĐẦU TƯ TÍN DỤNG VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.17 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ ĐẦU TƯ TÍN DỤNG VÀ DỰ ÁN ĐẦU
TƯ.
1. khái niệm và bản chất của đầu tư
1.1 Khái niệm
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bất cứ một doanh nghiệp, một tổ chức
hay một cá nhân nào đó muốn hoạt động được thì cần phải hội tụ đủ ba yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất đó là tư liệu sản xuất, vốn và sức lao động, đây
là ba yếu tố cơ bản cần thiết ban đầu để tiến hành một hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thật vậy khi một doanh nghiệp sản xuất dự kiến sẽ đi vào hoạt
động thì doanh nghiệp đó cần phải có vốn, có địa điểm sản xuất, có nhà xưởng
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất, có công nhân làm việc
mới có thể đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được những
mục đích cụ thể mà doanh nghiệp đã đề ra. Hoặc khi một doanh nghiệp thương
mại hoạt động đòi hỏi doanh nghiệp đó cần phải có địa điểm bán hàng,
phương tiện bán hàng, có vốn lưu động ban đầu để mua hàng hoávà thuê nhân
viên bán hàng... Quá trình sử dụng các nguồn lực trên đây được coi là quá trình
đầu tư.
Đầu tư là một phạm trù kinh tế và đã có nhiều cách hiểu về nó nhưng xét theo
nghĩa chung nhất thì có thể định nghĩa hoạt động đầu tư như sau:” Đầu tư là
sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm
thu về cho người đầu tư những kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó”.
Những kết quả ở đây có thể là sự tăng lên của tài sản tài chính ( tiền vốn ),
tài sản vật chất ( nhà xưởng, của cải vật chất khác ), tài sản tí tuệ ( trình độ
văn hoá, chuyên môn) nguồn nhân lực có đủ khả năng làm việc với năng suất
cao hơn trong nền sản xuất xã hội, như vậy chỉ có đầu tư mới đem lại sự phát
triển cho xã hội.
1.2 Bản chất của đầu tư
Trong nền kinh tế quốc dân có ba lĩnh vực đầu tư: đầu tư tài chính, đầu tư
thương mại, đầu tư phát triển
-Đầu tư tài chính là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc


mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc
vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Đầu tư thương mại là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng
hoá sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giákhi
mua và khi bán
Cả đầu tư tài chính và đầu tư thương mại nếu không xét đến yếu tố quan hệ
quốc tế thì không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài
sản tài chính của chủ đầu tư.
- Đầu tư tài sản vật chất hay đầu tư phát triển là đầu tư trong đó người có
tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động để tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm
tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện
chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi thành
viên cho xã hội đồng thời nó là động lực của sự tăng trưởng và phát triển.
2. Vai trò của đầu tư đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Từ khái niệm và bản chất của đầu tư cho thấy đầu tư là nhân tố quan trọng
để phát triển kinh tế là chìa khoá của sự tăng trưởng. Đầu tư có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tăng trưởng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất
kinh doanh của các cơ sở kinh doanh nói riêng, điều đó được thể hiện trong vai
trò của đầu tư. Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế vai trò của đầu tư được thể
hiện như sau:
2.1 Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
a.Về mặt tổng cầu
Tác động của đầu tư được thể hiện thông qua công thức tính tổng cầu:
AD = I + G +C +( X- M )
Trong đó AD là tổng cầu, I: đầu tư, G: chi tiêu của chính phủ, C: tiêu dùng của
dân cư, X: giá trị xuất khẩu, M: giá trị nhập khẩu
Như vậy đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cầu và là một yếu tố chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế, đầu tư thường chiếm
khoảng 24%-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Với
tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự

tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng sẽ dẫn tới sự tăng lên của giá cả.
b.Về mặt tổng cung:
Khi thành quả của đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng, các năng lực mới
bắt đầu đi vào hoạt động thì tổng cung sẽ tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm
năng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng và điều đó sẽ tiếp tục kích
thích sản xuất hơn lữa.Sản xuất phát triển chính là nguồn gốc cơ bản của sự
phát triển kinh tế.
2.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sư ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định nền kinh
tếcủa mọi quốc gia.
Khi tăng đầu tư cầu các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá cả hàng hoá
có liên quan tăng đến một mức độ nào đó sẽ dẫn dến tình trạng lạm phát. Khi
đó sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn thâm
hụt ngân sách lớn kinh tế sẽ phát triển chậm lại.Mặt khác, khi tăng đầu tư làm
cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng sản xuất của các nghành này phát
triển, thu hút thêm lao động nâng cao đời sống của người dân,giảm tệ nạn xã
hội sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vai trò này được thể hiện qua công thức tính ICOR và tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
ICOR=
Y
K


trong đó
K


:khối lượng vốn gia tăng

Y

:mức tăng tổng sản
lượng quốc gia
Để đánh giá tốc độ gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia ( Y ), các nhà
kinh tế thường bắt đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm
đầu ra thuần tuý được tạo ra từ đầu tư thuần. Theo Harrod-Domar tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ số vốn đầu tư sản lượng và năng
suất cuả vốn đầu tư:
g=
Y
Y

=
KY
KY

∆∆
*
*
=
Y
K
K
Y ∆


*

=
Y
I
ICOR
*
1
Trong đó g : tốc độ tăng trưởng
I : vốn đầu tư
tăng thêm
Y
I
: tỷ lệ vốn
đầu tư trong GDP
Qua công thức trên ta thấy hệ số ICOR góp phần quan trọng trong việc
xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ đầu tư trong GDP với tốc độ tăng trưởng kinh
tế.
2.4. Đầu tư có ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm các nước cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng
nhanh, đạt tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển
nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm ngư
nghiệp do hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học nên đạt được tốc độ
tăng trưởng cao là rất khó, việc đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ
sẽ tăng cường tỷ trọng của các ngành này trong GDP. Mặt khác đầu tư có tác
dụng giải quyết những mất cân đối về sự phát triển giữa các vùng lãnh thổ,
đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối
đa các lợi thế của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp
thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Như vậy chính sách đầu tư đúng
đắn sẽ quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
2.5. Đầu tư sẽ tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước

Đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và tăng cường khả năng
khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay. Có hai con đường cơ bản để có được
công nghệ đó là tự nghiên cứu phát minh và nhận chuyển giao công nghệ. Cả
hai con đường này đều cần có vốn đầu tư. Mọi phương án đầu tư đổi mới công
nghệ sẽ là không khả thi nếu như chúng ta không gắn liền với nguồn vốn đầu
tư.
3. Đầu tư tín dụng
Đầu tư tín dụng là hoạt động tài trợ vốn trung và dài hạn cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân. Hay nói cách khác đầu
tư tín dụng là hoạt động sử dụng vốn tín dụng nhằm tiến hành các hoạt động
tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật
nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có, làm tăng tài sản mới và năng lực sản xuất
mới cho các cơ sở sản xút kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói chung.Vốn
tín dụng được huy động từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thông
qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn này được vay để
cho vay đầu tư phát triển, đầu tư cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp khi vay vốn tín dụng của ngân hàng để triển khai thực
hiện dự án của mình đòi hỏi dự án trong quá trình vận hành cần phải thu hồi
đủ vốn và đem lại lợi ích cho chủ đầu tư.
3.1Đặc điểm của đầu tư tín dụng
-Đầu tư tín dụng có sự tham gia của ngân hàng vào dự án đầu tư: Khi doanh
nghiệp muốn vay vốn tín dụng để đầu tư họ phải có dự án đầu tư, dự án đó
phải được ngân hàng thẩm định về các mặt như hiệu quả tài chính, hiệu quả
kinh tế xã hội , thị trường ...Khác với hoạt động đầu tư bằng tự tài trợ khi mà
doanh nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu qủa của dự án, đầu tư tín
dụng có sự tham gia của ngân hàng vào việc xét duyệt hiệu quả đầu tư của dự
án và quyết định đưa ra sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả thu hồi vốn vay.Hơn nữa
ngân hàng có chuyên môn trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án
nên dự án được xem xét toàn diện hơn. Trong quá trình sử dụng vốn ngân
hàng cũng tham gia vào dự án thông qua việc xem xét vốn có được sử dụng

đúng mục đích hay không, giải ngân phải theo khối lượng công việc đã hoàn
thành và được nghiệm thu, ngân hàng cũng có thể giúp doanh nghiệp tìm kiếm
thị trường, đối tác đầu tư ...Khi dự án phát huy tác dụng, lợi nhuận có được
phải dành ra để trả vốn gốc và lãi cho ngân hàng, như vậy trong đầu tư tín
dụng lợi ích của bên cung ứng vốn tín dụng gắn liền với hiệu quả của dự án
đầu tư.
-Đầu tư tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro. Đầu tư tín dụng là hoạt động hoạ
động kinh doanh qua tay người khác, dùng lượng tiền huy động được để cho
vay nên bản thân nó chứa đựng nhiều rủi ro. Trước hết đó là rủi ro về nguồn
vốn đầu tư (về phía ngân hàng), khi chi phí về vốn tăng lên làm cho chi phí sản
xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh, ngân hàng không
huy động đủ số vốn cần thiết dẫn đến công tác giải ngân có thể chậm làm ảnh
hưởng đến tiến độ dự án. Thứ hai là rủi ro từ bản thân dự án, một dự án đầu
tư bao giờ cũng chứa đựng nhiều rủi ro do các chi phí bỏ ra thực hiện dự án ở
hiện tại mà kết quả đạt được trong tương lai xa. Hơn nữa để đạt được kết quả
đó quá trình thực hiện dự án chịu tác động của nhiều nhân tố từ bên ngoài
như sự biến động của thị trường, việc thay đổi cơ chế chính sách của nhà
nước ...Gây ra những điều bất lợi cho dự án.
-Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh tế gắn liền với những bước thăng
trầm của nền kinh tế, nó luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp khác. Do đó hiệu quả của việc đầ tư này không phụ thuộc vào
ngân hàng mà nó còn chịu phần lớn tác động của người sử dụng vốn vay.
-Việc đầu tư tín dụng trung và dài hạn luôn kéo theo sự huy động nhiều
nguồn lực khác để phục vụ cho một mục tiêu nào đó. Chính sự huy động đó nếu
đạt hiệu quả sẽ đem lại lợi ích cho nền kinh tế, xã hội, ngân hàng và cho người
vay vốn ngược lại nó sẽ đem lại những tổn thất rất lớn không chỉ cho chủ đầu
tư mà còn cho toàn xã hội.
3.2 Vai trò của đầu tư tín dụng
Đầu tư tín dụng đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã
hội.Chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì điều trước tiên là cần

phải có vốn, sẽ là không tưởng khi nói tới phát triển kinh tế mà không có vốn
hoặc không đủ vốn. Để có vốn thì phải có các tổ chức có đủ thẩm quyền và chức
năng để huy động vốn từ nền kinh tế đem ra sử dụng, ngân hàng bằng hoạt
động đầu tư tín dụng của mình đã giải quyết vấn đề thiếu vốn cho các doanh
nghiệp. Đầu tư tín dụng là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thoả
mãn các nhu cầu vốn để mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật mở rộng sản xuất kinh doanh và cung cấp vốn lưu động tối thiểu giúp
các doanh nghiệp có thể kịp thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh tốt từ đó góp
phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Đầu tư tín dụng còn
là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy việc mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh
tế với các nước trong khu vực và quốc tế không những thế hoạt động đầu tư
tín dụng còn có tác động tích cực dến nhịp độ phát triển kinh tế, thúc đẩy sự
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường góp phần thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế và thu hẹp khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và
giữa các vùng kinh tế.
Những vai trò trên được thể hiện cụ thể trong các nội dung sau:
-Đầu tư tín dụng góp phần huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong nền kinh tế .
Để tiến hành đầu tư tín dụng thì trước hết cần phải có vốn tín dụng, vốn này
không chỉ bao hàm vốn của bản thân ngân hàng mà phần lớn số vốn tín dụng
này được huy động từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế như từ dân cư từ
các tổ chức kinh tế thừa vốn hoặc có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng để đáp ứng
nhu cầu về vốn cho những cá nhân tổ chức thiếu vốn. Như vậy thông qua thông
qua đầu tư tín dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi dều được hy động đưa vào sủ
dungj trong tình hình thiếu vốn hiện nay.
Thông qua việc xét duyệt cho vay đối các dự án, bằng hoạt động thẩm định
dự án ngân hàng sẽ lựa chọn cho vay đối với những dự án khả thi, đem lại hiệu
quả kinh tế, điều này đã giúp cho quá trình phân bổ và sủ dụng vốn một cách
hợp lý hơn giảm lãng phí , thất thoát nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đầu tư
tín dụng đã đẩy mạnh tốc đọ chu chuyển vón từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn ,

điều chỉnh quan hệ cung cầu vón từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế.
-Đầu tư tín dụng thúc đẩy cơ cấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH.
Đất nước ta tiến hành công cuộc CNH-HĐH từ một xuất phát điểm thấp cơ
cấu kinh tế mất cân đối, cơ sở hạ tầng yếu kém. Để có thể thực hiện thành công
CNH-HĐH thì việc khắc phục hai yếu điểm trên là rất cần thiết. Đảng ta đã chủ
trương khai thác mọi tiềm năng nội lực, thế mạnh của đất nước, khai thác có
hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt chú ý phát triển lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ, kết cấu hạ tầng kết hợp phát triển những vùng kinh tế trọng
điểm với các vùng khác tạo điều kiện để mỗi vùng phát huy hết thế mạnh của
mình cùng phát triển đi lên đẩy lùi khoảng cách về chênh lệch giàu nghèo giữa
các vùng. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi cần có vốn để đầu tư đặc
biệt là vốn trung và dài hạn, đầu tư tín dụng cho phép đầu tư vốn tập trung
cho sự phát triển của các ngành như việc đầu tư vốn tín dụng cho sự phát
triển các làng nghề truyền thống, phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản... Hoặc
cho phép tập trung vốn vào các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế trọng
điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH. Trong đầu
tư tín dụng còn có khoản tín dụng ưu đãi đối với những vùng khó khăn nhằm
tạo điều kiện về vốn giúp cho các vùng này phát triển thoát khỏi đói nghèo rút
ngắn được khoảng cách với các vùng lân cận.
Mặt khác vốn tín dụng là nguồn vốn lớn có khả năng huy động đáp ứng nhu
cầu vốn của các dự án có quy mô lớn nên đầu tư tín dụng có thể giải quyết dứt
điểm các dự án trọng điểm của nền kinh tế, thực hiện các chương trình kinh tế
lớn của nhà nước.
-Đầu tư tín dụng nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi và
ngày càng khắc nghiệt, chỉ những người thắng được trong cuộc cạnh tranh đó
mới có thể tồn tại và phát triển được. Muốn giành được thắng lợi cần phải

nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc đầu tư đổi mới máy
móc thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực
làm việc của người lao động nhằm nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản
phẩm. Đầu tư tín dụng đáp ứng được yêu cầu này. Vốn tín dụng mà các doanh
nghiệp vay chủ yếu dùng để đầu tư mua sắm trang thiết bị, mở rộng sản xuất
kinh doanh, từ đó góp phần tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế. Mặt
khác khi doanh nghiệp vay vốn tín dụng phải đảm bảo được khả năng hoàn trả
cả vốn và lãi theo hợp đồng tín dụng, nếu như vi phạm hợp đồng thì doanh
nghiệp sẽ phải chịu lãi suất quá hạn cao, sẽ mất uy tín đối với các tổ chức tài
chính. Để giữ uy tín doanh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao hiệu quả sản
xuất và khả năng cạnh tranh trên thương trường để kinh doanh có lãi và thu
hồi vốn trả cho ngân hàng. Như vậy đầu tư tín dụng đã góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
3.3 Hiệu quả của đầu tư tín dụng

Trong đầu tư tín dụng ngân hàng và các doanh nghiệp có mối quan hệ mật
thiết với nhau, cùng thúc đẩy nhau phát triển. Ngân hàng là người cung ứng
điều kiện ban đầu là vốn cho nhà đầu tư để thực hiện công cuộc đàu tư. Đồng
vốn đó được sử dụng có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chủ đầu tư. Nếu
không có vốn thì các dự án hiệu quả không được thực hiện do thiếu vốn, ngược
lại vốn được đáp ứng đầy đủ mà dự án không có hiệu quả thì cả hai trường
hợp này đều dẫn tới lãng phí nguồn lực. Do đó hiệu quả của hoạt động đầu tư
tín dụng không chỉ được xem xét ở phía ngân hàng mà còn ở cả phía doanh
nghiệp.
*Về phía ngân hàng :Hiệu quả đầu tư tín dụng được thể hiện thông qua việc
thu hồi vốn và lợi nhuận thu được. Lợi nhuận này được xác định thông qua
công thức sau:
Pi = Cu - ( Rc + Lic + Bd + Pr ) * Ir *
T
Trong đó Pi : Thu nhập lợi nhuận , Pi càng lớn càng tốt.

Cu : Vốn tự có và vốn huy động.
Rc : Dự trữ bắt buộc .
Lic: Vốn thanh khoản hiện hành
Bd : Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi
Pr : Quỹ dự phòng rủi ro
Ir : Lãi suất cho vay
T : Thời gian cho vay
* Về phía doanh nghiệp: Hiệu quả đầu tư tín dụng thể hiện qua việc doanh
nghiệp sử dụng vốn một cách hiệu quả, dự án của doanh nghiệp đi vào hoạt
đọng đem lại hiệu quả cao tức doanh nghiệp thu được lợi nhuận và tạo việc
làm cho người lao động, để đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng có một số chỉ
tiêu sau:
-Chỉ tiêu tỷ lệ giữa lợi ích (B) và chi phí (C): B/C cho biết lợi ích thu được
trên một đồng vốn bỏ ra.
-Chỉ tiêu thu nhập thuần (NPV): Phản ánh quy mô lãi ở thời điểm hiện tại.
-Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư ( RR) :Phản ánh mức độ thu hồi vốn đầu tư
ban đầu từ lợi nhuận thuần thu được hàng năm.
-Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) : Phản ánh khả năng sinh lời của dự án.
-Thời gian hoàn vốn (T) :Phản ánh mức độ thu hồi vốn nhanh hay chậm .
- Chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ của dự án : Được xác định bằng tỷ lệ giữa
khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án và nghĩa vụ hoàn trả.
4. Dự án đầu tư :
Với tầm quan trọng của hoạt động đầu tư đòi hỏi trước khi tiến hành
một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị
này được được thể hiện trong việc soạn thảo dự án, dự án đầu tư thường được
xem xét với nhiều góc độ khác nhau, về mặt hình thức dự án đầu tư là mọt tập
hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi
phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu
nhất định trong tương lai.
Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên

quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc
tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng
các nguồn lực xác định.
Như vậy một dự án đầu tư thường bao gồm bốn nội dung chính đó là:
Mục tiêu của dự án, các nguồn lực để tiến hành các hoạt động cơ bản của dự
án,các kết quả cần đạt được và các hoạt động nhằm thực hiện các kết quả đó.
Dự án đầu tư có vai trò quan trọng, Đối với chủ đầu tư , dự án đầu tư là
cơ sở để xin phép được đầu tư, xin phép nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị từ
nước ngoài, xin vay vốn từ các định chế tài chính trong và ngoài nước, xin
được hưởng các khoản ưu đãi về đầu tư của nhà nước.
Đối với nhà nước và các định chế tài chính thì dự án đầu tư chính là cơ
sởđể các cơ quan này tiến hành thẩm định để ra quyết định đầu tư và tài trợ
cho dự án đó.

II. THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1. Khái niệm và sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư.
1.1 Khái niệm
Các dự án khi được soạn thảo xong mặc dù được nghiên cứu tính toán
kỹ lưỡng thì cũng mới chỉ qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý tính hiệu
quả tính khả thi hay không thì cần phải có một quá trình xem xét kiểm tra
đánh giá một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án . Qúa trình
đó gọi là quá trình thẩm định đầu tư. Có nhiều quan điểm khác nhau về về
thẩm định tuỳ theo tính chất của công cuộc đầu tư và chủ thể có thẩm quyền
thẩm định, song đứng trên giác độ tổng quát thì có thể định nghĩa như sau:
Thẩm định một dự án đầu tư là quá trình một cơ quan chức năng nhà nước
hoặc tư nhân thẩm tra xem áet một cách khách quan khoa học và toàn diện về
các mặt pháp lý các nọi dung cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả tính khả thi tính
hiện thực của dự án để quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư. Như vậy thẩm
định dự án đầu tư nhằm:
-Đánh giá tính hợp lý của dự án : Tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng

hợp (các giấy tờ hợp lệ có liên quan đến dự án ) và ở tưngf nội dung, cách thức
tính toán chỉ tiêu của dự án.
-Đánh giá tính hiệu quả của dự án: Hiệu quả được xem xét trên hai góc độ
tài chính và kinh tế xã hội của dự án tính hiệu quả được ở các chỉ tiêu đánh
giá.
-Đánh giá tính khả thi của dự án: Đây là mục đích hết sức quan trọng trong
thẩm định dự án . Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi tất
nhiên hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi,
nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự
án.

×