Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.43 KB, 31 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DNVVN
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Theo quan điểm của Mác thì “Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng, sau một thời gian
nhất định sẽ thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”.
Theo nhà kinh tế Pháp, Louis Baundin, định nghĩa: “ Tín dụng là một sự
trao đổi tài hóa hiện tại lấy một tài hóa ở tương lai.”
Theo luật ngân hàng các nước định nghĩa: “ Cấu thành một nghiệp vụ tín
dụng bất cứ động tác nào, qua đó một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một
người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, bảo
chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”
Theo tôi, tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả. Trong
quan hệ này thể hiện các nội dung sau:
+ Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.
+ Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định,
sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận giữa người đi vay và
người cho vay, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng
với khoản chi phí cơ hội mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt
hơn.
+ Thông thường, giá trị được hoàn trả lớn hơn lúc hai bên kí kết hợp đồng
tín dụng.
1.1.2. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan trọng
nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, đây là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở
phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Như đã đề cập ở trên, ta có thể hiểu “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín
dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ- với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó
ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay”


Với định nghĩa trên thì ta có thể hiểu khi đề cập đến tín dụng ngân hàng là
đề cập đến cả hai hoạt động :
- Đi vay: huy động vốn. Hoạt động này do Bộ phận Nguồn vốn đảm nhận.
- Cho vay: Hoạt động này do bộ phận Tín dụng đảm nhận.
Như vậy, sẽ phù hợp hơn khi sử dụng định nghĩa sau khi đề cập về tín dụng
ngân hàng: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó
ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân trong xã
hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào 1 thời điểm xác
định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”.
Theo định nghĩa này, tín dụng ngân hàng ở đây mang nghĩa hẹp hơn, giới
hạn bên cho vay là ngân hàng. Đây là định nghĩa mang tính chuyên nghiệp ngân
hàng hơn là mang tính lý luận, tránh được sự nhầm lẫn khi nghiên cứu về các
nghiệp vụ của NHTM, và đây cũng là khái niệm được sử dụng trong luận văn.
1.1.3. Bản chất của tín dụng ngân hàng
Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua
các ngân hàng. Bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác nhau,
Ngân hàng huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông , tạo thành nguồn vốn
lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay với lãi
suất lớn hơn với lãi suất tiền gửi. Phần chênh lệch sẽ tạo ra lợi nhuận cho Ngân
hnàg trong quá trình hoạt động. Là trung gian nên NH là cầu nối giữa người có
vốn và người cần vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các
doanh nghiệp nói riêng, trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà
phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, thông qua chức năng tạo tiền Ngân hàng
có thể nhận nguồn tiền gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền, và qua đó Ngân
hàng đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội.
1.1.4. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau tùy theo tiêu phân loại. Trên thực tế, người ta
thường đề cập đến các hình thức tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức phân
chia sau:

1.1.4.1. Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
* Tín dụng có kỳ hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả
nợ. Theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với
quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN/ ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, khi phân loại theo thoiừ hạn cấp tín dụng thì:
- Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng,được xác định phù hợp với chu
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay được
xác định phù hợp với thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của
khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
- Cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động
còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và
không quá 15 năm đối với các dự án đâu tư phục vụ đời sống.
* Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản
vay mà không xác định rõ thời hạn trả nợ.
1.1.4.2. Phân loại theo thành phần kinh tế
Trên cơ sở Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, khi phân theo
thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành:
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước
- Cho vay kinh tế tập thể
- Cho vay kinh tế tư nhân
- Cho vay kinh tế cá thể
- Cho vay kinh tế hỗn hợp
Mỗi thành phần kinh tế lại có những đặc điểm riêng nên ngân hàng cần
phải có thái độ ứng xử rất khác nhau khi cho các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế này vay vốn. Tuy nhiên, đây là cách phân loại không được nhấn mạnh
trong nền kinh tế TBCN nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN như nước ta thì việc phân loại này rất có ý nghĩa thực tiễn. Bởi lẽ, đối
với chúng ta, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết và định
hướng và sẽ quyết định tới khối lựơng cũng như cơ cấu cho vay đối với các

thành phần kinh tế còn lại.
1.1.4.3. Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được phân
chia theo hai loại sau: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
- Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào
thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thế được hoàn trả theo
thoả thuận trong hợp đồng, chẳng hạn theo tháng, quý hoặc năm.
- Cho vay trả góp: Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần
trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay hoàn trả một lần
thường được áp dụng đối với các khoản vay ngắn hạn.
1.1.4.4. Phân loại theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều thường hợp, ngân hnàg yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo khi nhận tín dụng. Lí do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro
trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Những biến cố
khong mong đoiự có thể gây cho ngân hnàg những tổn thất lớn. Chính vì vậy,
trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo
khi nhận tín dụng của ngân hàng.
- Các tài sản được đem thế chấp thường là các bất động sản trong khi các
tài sản được đem cầm cố thường là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng
khoán và các giấy tờ khác.…Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản được đem thế
chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức phải có khả năng thanh lý
được.
- Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững mạnh
và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan thì NH có thể cho vay không
cần đảm bảo, điều này các ngân hàng ở Việt Nam gọi là cho vay tín chấp.Điều
này giải thích tại sao các Ngân hàng có thể cung cấp cho một số khách hàng
những khoản tín dụng lớn mà không cần đảm bảo, đó là những doanh nghiệp có
quan hệ vay trả sòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính

tương đối vững mạnh, lợi nhuận tương đối ổn định với hệ thống quản lý có hiệu
quả, sản phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận. Trong thời gian vừa qua, các
NHTM quốc doanh Việt Nam cũng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà
nước thông qua hình thức này.
1.1.4.5. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau :
- Chiết khấu thương phiếu: Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, cổ
điển của các NHTM, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và người kí tên trên
thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ Tín dụng ngắn hạn trong
đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho
NH để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi số tiền lãi và
phí hợp đồng.
- Tín dụng thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho
phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được
gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, kỳ thu nhập ngắn.
- Tín dụng thuê mua (leasing): Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê
mua rất phát triển. Đây là hình thức cho thuê bất động sản như: nhà cửa, máy
móc thiết bị, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng…Các chủ thể thuê có thể là:
các NH trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh
thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có thể liên kết với các
nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức tín dụng thuê mua.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí, thuế và lãi kinh doanh Tuỳ từng loại
đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính khác nhau.
Thời hạn thuê mua có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Tuy nhiên, thời hạn
trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn thường ít được sử
dụng.
- Tín dụng trả góp: Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần
trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.Cho vay trả góp thường được áp dụng đối

với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu
bền.
Tín dụng trả góp có ưu điểm là không những phù hợp với đặc điểm sử
dụng vốn của vay mà còn kích thích được lưu thông hàng hoá, mở rộng sản xuất
và tiêu dùng. Mặt khác, người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả
gốc và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải
trả từ đó lập được kế hoach trả nợ.
- Tín dụng bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng
dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh của
ngân hàng sẽ tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro với khách
hàng.
- Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng
và NH với nội dung thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Điều kiện được vay
vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh. Trong một số trường hợp, nếu người vay có uy tín cao thì có thể
không cần bảo đảm bằng tài sản.
Đặc điểm của hình thức tín dụng này là ngân hàng mở cho khách hàng
một tài khoản vay vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập
của người vay đều được ghi vào bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi bên nợ tài
khoản. Khi không còn số dư có, khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng
như đã thoả thuận trong HĐTD với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng
khống chế số dư nợ mà không khống chế số dư có trong tài khoản. Khách hàng
được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản…
1.1.4.6. Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
- Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực
tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng , xem xét tình hình người vay
- Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức
xã hội nhưng ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay.
1.2. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

1.2.1. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được đề cập đến trong nhiều
nghiên cứu, nhưng việc xác định các tiêu thức phân loại vẫn còn chưa được
thống nhất. Để phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn, người ta thường căn
cứ vào các tiêu thức như : Tổng vốn đầu tư, giá trị tài sản cố định, số lượng lao
động thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm hay dịch vụ, lợi nhuận, vốn
bình quân cho một lao động. Tuỳ vào tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia mà các
tiêu thức nào được lựa chọn, tuy nhiên phổ biến là:
- Số lao động thường xuyên được sử dụng trong doanh nghiệp.
- Tổng số vốn đầu tư huy động và sản xuất kinh doanh
Sự phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam cũng dựa trên hai tiêu thức này.
Trước đây, theo công văn số 681/CP-KTN do Chính phủ ban hành ngày
20/6/1998, DNVVN là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng
(tương đương 387.000 USD theo tỷ giá giữa đồng VNN và đồng đô la Mỹ tại
thời điểm đó) và số lao động thường xuyên không quá 200 người.
Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của đất nước, số lượng các doanh
nghiệp ngày một tăng, có không ít doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng
nhưng chưa đủ mạnh để được coi là doanh nghiệp lớn. Vì vậy, Chính phủ ban
hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ra ngày 23/11/2001 về hỗ trợ và phát triển
DNVVN, trong đó có nêu ra định nghĩa sau :
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế-xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các
biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ
tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”. Đây cũng là khái
niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ được sử dụng trong bài luận văn để làm cơ sở
cho những phân tích sau này.
Theo định nghĩa trên, các DNVVN gồm có các loại hình, cơ sở sản xuất

kinh doanh nằm trong những tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn quy định sau:
- Các DNNN đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh Nghiệp
- Các Công ty cổ phần, Công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt
động theo Luật Doanh Nghiệp.
- Các hợp tác xã đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
3/2/2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
Như vậy tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký
kinh doanh và thoả mãn hai tiêu thức : vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người thì đều được coi là DNVVN.
1.2.1.2. Các đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được phát triển một cách chính
thức kể từ khi có sự ra đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp dụng
từ năm 1990 và sửa đổi năm 1994 . Một loạt các bộ luật khác đã thực sự hỗ trợ
cho sự phát triển của khu vực này. Theo các số liệu thống kê cùng kết quả điều
tra các tổ chức kinh tế thì đến cuối năm 1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn
dưới 5 tỷ đồng thuộc DNVVN là 43.772 doanh nghiệp chiếm 91% tổng số các
DN, trong đó DNVVN thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số DNNN và số
DNVVN ngoài quốc doanh là 40.100 doanh nghiệp chiếm 94,5% tổng số doanh
nghiệp. Trong năm 2000, số doanh nghiệp mới được thành lập theo Luật doanh
nghiệp dưới dạng doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn có số vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết số doanh
nghiệp này cũng có quy mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 do Tổng cục Thống kê
(GSO) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam công bố vào ngày 6/12/2006,
số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến 31/12/2005 là 113.352
doanh nghiệp, tăng 23,54% so với 31/12/2004. Trong đó, doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực công nghiệp chiếm 22,55%, doanh nghiệp hoạt động trong thương
nghiệp chiếm 41,59%, trong xây dựng chiếm 13,46%,…
a) Lợi thế của qui mô vừa và nhỏ

Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ có những lợi thế sau:
- Năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh:
Do có quy mô cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ nên khi có một sự thay đổi của
thị trường, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường kém linh hoạt và nhanh
nhạy trong việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hơn là các doanh nghiệp
có quy mô nhỏ. Trước sự thay đổi liên tục của thị trường, các DNVVN có thể
chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng nhanh chóng, đồng thời có thể
tăng giảm lao động hay sử dụng lao động thời vụ, đáp ứng đuợc nhu cầu của thị
trường. Hơn nữa, khi chuyển địa điểm sản xuất các DNVVN không gặp nhiều
khó khăn như các doanh nghiệp lớn. DNVVN có thể nắm bắt được cả những
yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương. DNVVN có thể dễ dàng chuyển
đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh. Điều này càng làm cho DNVVN khai
thác hết năng lực của mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
- Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh. Điều này hấp
dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực
này.DNVVN có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh
nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt.
Nhờ có bộ máy quản lý gọn nhẹ, việc điều hành được thực hiện một cách trực
tiếp không phải qua các khâu trung gian nên việc ra quyết định hay việc thực
hiên công việc được thực hiên một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bên cạnh đó,
công tác giám sát diễn ra trực tiếp, đảm bảo hiệu quả công việc. Nhờ đó nên có
thể tiết kiêm đựoc chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Các DNVVN dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích
ứng với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại :
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, nên nhiều khi thời
gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế hệ máy móc
sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt
hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Trong trường hợp này, các DNVVN lại sẽ
có lợi thế hơn. Hơn nữa, việc phải thay đổi những tư bản cố định để chuyển

hướng kinh doanh cũng thuận lợi hơn do không phải chịu nhiều thiệt hại và có
thể nhanh chóng ứng dụng và đưa vào hoạt động những công nghệ tiên tiến,
hiện đại.
- Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các DNVVN
khá chặt chẽ:
Do số lượng lao động trong các DNVVN là không nhiều nên lãnh đạo
doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hiểu rõ trình độ năng lực cũng như mong
muốn nguyện vọng của người lao động từ đó sẽ có những biện pháp thích hợp
để tạo động lực lao động, từ đó có thể nâng cao trình độ quản lý cũng như tận
dụng triệt để năng lực lao động, nâng cao hiệu quả công việc.
- Sự hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo ra một lợi thế không nhỏ đối với các
DNVVN
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam
được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường (MNF) và đối xử quốc
gia (NT) giữa các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các
DNVVN ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNVVN của Việt Nam có giá thành cao,
khối lượng nhỏ lẻ, tiệu thụ ở thị trường nội địa nên rất khó thâm nhập vào các
thị trường nước ngoài nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Do
đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được rỡ bỏ,
các sản phẩm của các DNVVN sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn,
nhờ đó sẽ khai thác được lợi thế lao động rẻ.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với
giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập
và các DNVVN cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp
xúc trực tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài.
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính
minh bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức hữu trách đối với các
DNVVN cũng sẽ được nâng cao. Mặt khác, hiện tượng phân biệt đối xử giữa
các doanh nghiệp Nhà nước với các DNVVN (chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ

không còn, nên các DNVVN sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các nguồn
lực tài chính, gia nhập thị trường, hỗ trợ kinh doanh.
b) Bất lợi của qui mô nhỏ
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô về vốn của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây lại rất thấp, mới ở mức trung bình
trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nguyên nhân là do các DNVVN phải đối mặt với
nhiều bất lợi. Cụ thể:
- Quy mô về vốn và lao động còn quá nhỏ bé:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động, các số liệu thống
kê cho thấy, trong tổng số 88.222 doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2004 có
2.211.895 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25
lao động. Như vậy, quy mô về vốn và lao động của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam còn quá nhỏ so với quy mô doanh nghiệp thông thường của các nước
phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đây cũng là lý do khiến cho các NHTM
còn e dè trong việc cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi lẽ họ
chưa có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ nhỏ bé nên độ rủi
ro là khá cao. Chính vì vậy, việc mở rộng kinh doanh, tăng cường thên các trang
thiết bị công nghệ hiện đại hay cải htiện chất lượng lao động đối với các
DNVVN là rất khó khăn. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam
hội nhập hoàn toàn vào WTO.
- Hiệu quả kinh doanh thấp:
Do quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như vậy kéo theo hiệu quả
kinh doanh không cao. Theo thống kê, lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp
vừa và nhỏ là 240 triệu đồng (khoảng 16.000 USD), thấp hơn nhiều so với mức
lợi nhuận bình quân/ doanh nghiệp của cả nước (khoảng 1,14 tỷ đồng). Các tiêu
chí về tỷ suất lợi nhuận/ vốn và lợi nhuận/ doanh thu cũng thấp, ở mức 3 tỷ
đồng và 2,57 tỷ đồng so với các mức bình quân chung các doanh nghiệp cả
nước là 4,85 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung vào các
ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy (chiếm 40,6% doanh nghiệp của

cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các
ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Việc
tập trung như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các DNVVN với nhau.
Chính điều này sẽ làm giảm sự đa dạng của thị trường, giảm thị phần của bản
thân các DNVVN.
- Phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh:

×