VAI TRÒ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG VIỆC CHO VAY ĐỐI VỚI
ĐOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.
1.Một số khái niệm về NH thương mại
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NH.
- Tại Mỹ : NH thương mại là một công ty chuyên cung cấp dịch vụ tài chính
và hoạt động trong ngành công nghiệp tài chính.
- Tại ấn Độ, NH thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay
tài trợ đầu tư.
- Tại Việt Nam NH thương mại là một tổ chức tài chính trung gian có chức
năng kinh doanh tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi của khách hàng bằng các hình thức huy động vốn với trách nhiệm
hoàn trả cả gốc và lãi cho khách hàng với một thời gian thoả thuận. Đồng
thời NH sẽ sử dụng đồng tiền huy động cộng với vốn tự có của bản thân
NH để cho vay chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
2. Chức năng của NH thương mại :
2.1. Chức năng tạo tiền :
Dựa vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc hay dư thừa, các NH thương mại khi cho
vay sẽ giữ lại một phần (khoảng 10%), có khi là dự trữ bắt buộc ER (tuỳ
thuộc vào khoản vay) và mối quan hệ của NH với khách hàng. Với một ví dụ
đơn giản như sau :
Với 10.000 đơn vị tiền tệ NH cho vay và giữ lại tỉ lệ dự trữ RR bằng 10%,
khi đó NH cho vay 9.000. Tại NH thứ 2 nhận 9,000 tiền gửi để xuất chứng
thư, NH thứ 2 giữ lại khoản dự trữ là 900 và cho vay 8,100. Cứ tiếp tục như
thế, NH thứ 3 sẽ cho vay 7 290. Ngày nay, với hệ thống NH, việc cho vay và
nhận gửi liên tiếp tổng dự trữ sé là 10 000 và cho vay là 90 000.
1
Lượng tiền gửi (D) khi đó = .R (R : tỉ lệ dự trữ).
RR
Khi đó số tiền NH tạo ra gấp 1/RR lần so với dự trữ ban đầu
2.2 Chức năng thanh toán,
NH thực hiện chức năng này chủ yếu không dùng tiền mặt, thanh toán cho
khách hàng và trong nội bộ liên NH (như phát hành và bố trí séc, cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử, uỷ nhiệm thu chi, thanh thoán L / C…). Các NH
cùng hệ thống mở tài khoản thực hiện thanh toán bù trừ cho nhau, thanh
toán song biên mà không cần qua NH trung ương.
2.3. Chức năng huy động tiền gửi tiết kiệm.
Để có nguồn vốn cho vay, các NH luôn phải tìm các biện pháp để huy động
vốn cho thật hiệu quả (nguồn rẻ và ổn định). Đây là đầu vào sống còn trong
hoạt động của NH, là nguồn vốn tài chính cơ bản dùng để tài trợ cho các
khoản cho vay, đầu tư tạo lợi nhuận, đảm bảo sự phát triển vững mạnh của
NH. Với chức năng này, NH có thể tìm kiếm những nguồn nhàn rỗi từ trong
nền kinh tế
2.4. Chức năng tài trợ cho ngoại thương :
Trong nền kinh tế, loại hình tín dụng này đóng vai trò quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như đối với sự phát triển của
kinh tế đất nước. NH cho các doanh nghiệp vay để nhập khẩu máy móc, thiết
bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị, dây truyền sản xuất chế biến hàng xuất
khẩu với công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá,
tăng khả năng cạnh tranh. Cũng nhờ sự tài trợ của NH, Doanh nghiệp được
thoả mãn nhu cầu về vốn, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm, hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. Hoàn thành tín dụng giúp
doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng, phục vụ các chương trình mục
tiêu phát triển kinh tế đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước
trên thế giới
2.5. Chức năng uỷ thác :
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế luôn cần phải có NH, các
công ty tài chính, các tổ chức tín dụng… theo đó các tổ chức này việc quản lý
tài sản và hoạt động tài chính đối với các doanh nghiệp, đồng thời nó sẽ thu
phí trên cơ sở là giá trị của tài sản hay quy mô vốn mà các tổ chức này quản
lý.
2.6 Chức năng bảo quản vật có giá :
NH nhận bảo quản các loại tài sản, cung cấp cho khách hàng giấy chứng
nhận và giấy chứng nhận này có thể lưu hành như tiền.
2.7 Môi giới và mua bán chứng khoán :
Thị trường tài chính ngày càng phát triển và mở rộng, NH luôn muốn trở
thành một Bách hoá tài chính, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính, giúp
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. NH cung cấp các dịch vụ chứng khoán như
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu mà không cần nhờ đến người kinh doanh
chứng khoán.
2.8. Chức năng tín dụng :
Có 2 vấn đề mà mọi NH đều phải quan tâm.
- Thứ nhất là : NH có thể huy động vốn ở đâu với chi phí thấp
- Thứ hai là : nhà quản lý NH phải làm gì để đảm bảo NH luôn có đủ tiền để đáp
ứng nhu cầu xin vay của khách hàng.
NH thương mại một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội từ mọi
thành phần trong nền kinh tế đồng thời nó dùng chính số tiền đó để cho vay đối
với các thành phần kinh tế trong xã hội khi chúng có nhu cầu bổ sung vốn.
Huy động vốn :
- Tiền gửi giao dịch : đây là loại tiền gửi của các doanh nghiệp, đơn vị cá nhân,
tổ chức… tiền gửi vào nhằm phục vụ cho mục đích thanh toán khi họ có nhu
cầu rút tiền.
- Tiền gửi kỳ hạn của các tổ chức kinh tế : Đó là những nguồn tiền không luân
chuyển thường xuyên nhưng chi phí trả lãi cao, lãi suất có thể xác định trước
hoặc thoả thuận, quy mô không có giới hạn. Đối với những nước có NH phát
triển, tiền gửi có kì hạn chủ yếu là các chứng chỉ tiền gửi (CDs) với kì hạn xác
định. Tuy nhiên ngày nay, để bảo vệ NH và những người gửi tiền khỏi rủi ro lãi
suất CDs thả nổi và lãi suất điều chỉnh 3 đén 6 tháng một lần.
- Tiền gửi tiết kiệm lãi suất áp dụng cao hơn so với tiền gửi giao dịch, tuy nhiên
chi phí duy trì và quản lý nói chung thấp. Đây là loại tiền gửi đa dạng và phổ
biến trong nền kinh tế, khoản mục này chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tiền gửi
di động. Mặt khác, nó gắn liền với quá trình tích luỹ và tiết kiệm của dân
chúng, do vậy NH phải có nhiều loại hình khác nhau nhằm huy động tối đa loại
tiền này.
Cho vay : Có thể nói đây là chức năng hàng đầu để tài trợ cho chi tiêu của
doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Hoạt động cho vay có mối
quan hệ mật thiết với tình hình phát triển KTXH. Mặt khác thông qua cho vay,
NH sẽ biết về chất lượng tín dụng của khách hàng giúp thị trường có khả năng
nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn mới có chi phí thấp hơn.
Các NH cung cấp rất nhiều loại cho vay : cho vay kinh doanh bất động sản, cho
vay nông nghiệp, cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay cá nhân, tài trợ
thuê mua…
3. Vai trò của NH thương mại
- NH tạo ra tín dụng giúp các doanh nghiệp có vốn để mở
rộng đầu tư sản xuất kinh doanh. NH thương mại là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hoá, nó ra đời để thực hiện các nhiệm vụ của mình về tiền tệ tín dụng, đó
là nơi thu hút tập trung vốn, thu hút mọi tiềm năng xã hội để phục vụ cho các
mục tiêu kinh tế xã hội, làm cho sản phẩm xã hội ngày một tăng lên. Với những
nguồn vốn tập trung và huy động được trong nền kinh tế cùng với vốn tự có
của NH, NH tiến hành phân phối cho nhu cầu sử dụng vốn của các thành phần
kinh tế đáp ứng kịp thời nhu cầu cần thiết về vốn của các thành phần kinh tế
đó.
Bất kì một doanh nghiệp nào từ khi thành lập đến khi hoạt động đều cần
đến vốn, vốn là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kì môt doanh nghiệp
nào và nó sẽ quyết định tới thành công của doanh nghiệp. Bởi vì để tiến hành
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ cần đến máy móc, thiết bị, nhà
xưởng mà doanh nghiệp cần phả có nguyên nhiên liệu, nhân công và tất cả các
yếu tố khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh nhưng bản thân doanh nghiệp lại
không có lượng vốn lớn để chi phí cho những nhu cầu vốn đó. Như vậy khi đó
thông qua hoạt động tín dụng của NH, NH sé đáp ứng được nhu cầu vốn cấp
thiết đó.
Trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải cạnh tranh
lẫn nhau, sự cạnh tranh này không chỉ diễn ra với các doanh nghiệp trong
nước mà cả với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi
các doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu để làm sao hàng hoá sản xuất ra có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá
rẻ, phù hợp với thị hiếu. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đó giúp cho các
doanh nghiệp có những sản phẩm phù hợp có thể cạnh tranh với những sản
phẩm cùng loại trên thị trường, đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn để
đầu tư cải tạo thiết bị công nghiệp lạc hậu nhằm giảm chi phí sản xuất. Hơn
nữa trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cũng cần
phải có vốn để dự trữ nguyên nhiên vật liệu để cho quá trình hoạt động sản
xuất diễn ra liên tục, nếu không, với bất kì một lý do nào mà làm cho doanh
nghiệp trì trệ trong sản xuất sẽ gây ra tổn thất nghiêm trong cho doanh nghiệp
ở hiện tại cũng như trong tương lai.
Khi đã có những máy móc thiết bị công nghiệp hiện đại thì đòi hỏi doanh
nghiệp phải có đội ngũ cán bộ lành nghề để có thể vận hành những máy móc
thiết bị hiện đại đó, nâng cao hiệu quả sản xuất và tránh những sai lầm đáng
tiếc do không hiểu biết gây ra. Để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận thì
sản xuất của doanh nghiệp được sản xuất ra mới chỉ là một phần trong toàn
bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà điều quan
trọng là sản phẩm của doanh nghiệp được sản xuất ra có được thị trường
chấp nhận hay không. Do vậy trong cơ chế kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp
phải thực hiện tốt công tác Maketing để sao cho sản phẩm của doanh nghiệp
sản xuất ra khi tung ra thị trường được khách hàng chấp nhận ngay, nhưng
sản phẩm sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho khách hàng quen thuộc mà còn
phải thu hút được khách hàng tiềm năng. Qua đó để doanh nghiệp có thể nắm
bắt được nhu cầu thị trường mà đưa ra những chiến lược phù hợp với trình độ
và năng lực sản xuất của mình và trả lời 3 câu hỏi : sản xuất cái gì ? sản xuất
sản phẩm đó cho ai ? sản xuất như thế nào ?
Vậy với nhu cầu vốn lớn như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động vốn
từ đâu. Cùng với vốn bản thân doanh nghiệp, NH sé đáp ứng nhu cầu vốn thiếu
hụt, bởi vì NH là một tổ chức tín dụng có uy tín, các tổ chức tín dụng có chức
năng to lớn nhất là việc kinh doanh tiền tệ cho nên các nghiệp vụ NH được
chuyên sâu, tiết kiệm được thời gian nên giảm đáng kể các chi phí trong các
nghiệp vụ huy động và thanh toán.
Việc vay vốn NH đáp ứng được một cách nhanh chóng, đầy đủ phù hợp
các nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp, lại giảm được các chi phí cần thiết
giúp cho doanh nghiệp sé tiết kiệm được thời gian để có thể vận hành một cách
nhanh chóng các hoạt động của mình từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do vậy đối với các doanh nghiệp, sự hoạt động cả
NH thương mại là vô cùng quan trọng.
_ Ngân Hàng thương mại có vai trò thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả hơn. Đặc trưng cơ bản trong tín dụng NH là sự vận động trên cơ sở
có hoàn trả cả vốn gốc và lãi. Giá cả của vốn cho vay chính là lãi suất tiền vay,
thông qua lãi suất tín dụng NH đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp phải
thực hiện hạch toán kinh doanh chính xác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn làm
sao cho doanh lợi lớn hơn lợi tức tiền vay, tăng vòng quay của vốn, giảm chi
phí giúp cho doanh nghiệp hoạt động có lãi góp phần nâng cao việc trả nợ NH
được nhanh chóng. Trước khi cho vay, NH thông qua việc thẩm định các dự án
vay vốn của các doanh nghiệp và chỉ quyết định cho vay đốivới các dự án mang
lại hiệu quả kinh tế (trừ những dự án được Chính phủ trợ cấp về lãi suất). Do
vậy các doanh nghiệp muốn vay được vốn NH để phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh thì đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tự sắp xếp bố trí tổ
chức sản xuất kinh doanh hợp lí… hoạt động sao cho có hiệu quả để tạo được
uy tín với NH.
- Ngân Hàng thương mại đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc chống lạm
phát, thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó giấy bạc lưu thông vượt quá nhu
cầu cần thiết làm chúng bị mất giá, dẫn đến giá cả hầu hết các loại hàng hoá
không ngừng tăng lên. Khi lạm phát ở mức độ cao sẽ làm cho nền kinh tế bị suy
sụp một cách nhanh chóng làm mất thăng bằng trong cán cân thanh toán, giá
cả hàng hoá tăng nhanh theo tốc độ lạm phát, trong khi thu nhập của người
lao động tăng chậm dẫn đến mức sống bị giảm xuống nghiêm trọng. Từ đó làm
cho việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng trở nên khó khăn hơn sản xuất không
phát triển… dẫn đến kìm hãm của sự phát triển của nền kinh tế, các quan hệ xã
hội bị đảo lộn, tệ nạn xã hội bị gia tăng, thất nghiệp hàng loạt… Trước những
vấn đề như vậy, Nhà nước sử dụng NH như một công cụ điều chỉnh lạm phát
thông qua việc điều hoà lượng tiền lưu thông trên thị trường bằng các nghiệp
vụ NH.
- NH thương mại giúp cho việc phân bổ hợp lí các nguồn lực giữa các vùng
trong quốc gia tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế. Các doanh nghiệp
hoạt động trong nền kinh tế thị trường với mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi
nhuận, khi đó các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm cho mình một môi trường và lĩnh
vực đầu tư thuận lợi mang lại hiệu quả kinh tế cao, tất yếu nhiều khu vực đầu
tư sẽ bị lãng quên do khu vực này bị hạn chế về nguồn lực tài nguyên, vị trí địa
lý, môi trường hoạt động… từ đó tạo nên sự phát triển mất cân đối về kinh tế
giữa các vùng, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng ngày càng lớn.
Việc phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi
Nhà nước phải trực tiếp tham gia điều tiết nền kinh tế bằng những công cụ
hữu hiệu của mình. Để điều tiết sự mất cân đối này, Nhà nước cũng thông qua
NH để điều chỉnh, các NH sẽ đứng ra để điều hoà vốn, tìm nơi có lượng vốn
nhàn rỗi được huy động đến những nơi thiếu hụt đảm bảo thuận lợi cho phát
triển kinh tế vùng và xoá dần sự khác biệt giữa các vùng lãnh thổ về kinh tế xã
hội
- NH góp phần khích lệ sự tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của thành
phần kinh tế và tầng lớp dân cư thông qua lãi suất. Các nhà sản xuất kinh
doanh muốn có lợi nhuận cao yêu cầu phải tiết kiệm tối đa những chi phí trong
sản xuất từ đó giảm các khoản tiền vay NH và có số tiền gửi vào NH. Số lượng
tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong việc tiết kiệm đầu tư trong sản xuất.
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng “số lượng chính là khoản tiền thưởng cho
việc kiềm chế tiêu dùng trong hiện tại”. Lãi suất là yếu tố kích thích hoặc kiềm
chế đối với tiết kiệm hay tiêu dùng.
-NH thương mại là cầu nối cho việc phát triển ngoại thương giữa các quốc
gia khác nhau. Xu hướng phát triển kinh tế là hướng hoà nhập kinh tế trong
nước với các nước trong khu vực và toàn thế giới, do đó việc mở rộng quan hệ
kinh tế là tất yếu, việc mở rộng này giúp cho mỗi quốc gia phát huy được lợi
thế của mình cũng nhưng giúp nhau ngày một hoạt động có hiệu quả hơn. Do
vậy tình hình quan hệ của các nước ngày càng mở rộng thì vai trò của NH
không thể thiếu được thông qua các nghiệp vụ trong hệ thống NH quốc tế, sé
giúp cho việc trao đổi, mua bán được diễn ra dễ dàng và thuận lợi trong mọi
vấn đề thì NH sẽ đứng ra giải quyết nhanh chóng.
II. DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA NH
THƯƠNG MẠI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY DNNN NHÀ NƯỚC PHÁT TRIỂN.
1. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
1.1. Khái niệm :
DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức
quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
1.2. Đặc điểm :
- Đặc điểm về vốn : Vốn hoạt động của các DNNN được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, trong đó có 2 nguồn quan trọng nhất là vốn do ngân sách
Nhà nước cấp và vốn vay NH.
Trong giai đoạn hiện nay, tỉ trọng vốn tự có trong các DNNN bao gồm vốn từ
ngân sâch Nhà nước và phần vốn tự bổ sung chỉ chiếm tỉ trọng khoảng 25%
trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Do vậy đứng trước cuộc cạnh tranh giữa
các thành phàn kinh tế ngày càng quyết liệt thì nhu cầu về vốn để đa dạng hoá
sản phẩm, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ là rất lớn, nó vượt quá vốn tự
có của doanh nghiệp. Do vậy mà trong giai đoạn hiện nay các DNNN đang ở
trong tình trạng đói vốn để phát triển sản xuất, trong khi ngân sách Nhà nước
còn nhiều hạn hẹp, việc cấp vốn bổ sung cho các DNNN còn nhiều hạn chế, do
đó đòi hỏi các DNNN phải tự lo vốn cho bản thân, phần vốn thiếu hụt còn lại
phải đi vay NH.
- Đặc điểm về trình độ kỹ thuật công nghệ : máy móc thiết bị dây truyền sản xuất
ở các DNNN đa số là lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao, công suất thấp. Các
máy móc đã khấu hao hết nhưng vẫn được sử dụng. Do không đồng bộ trong
các bộ phận cấu thành của máy cũng như thời hạn sử dụng quá lâu, nay vẫn
đưa vào khai thác sử dụng nên công suất thấp, chi phí sửa chữa lớn gây lãng
phí và tất yếu sẽ làm giá thành sản phẩm cao gây khó khăn trong tiêu thụ.
Về trình độ quản lý :
Do tồn tại trong một thời gian tương đối dài trong nền kinh tế tập trung
quan niêm bao cấp nên các DNNN vẫn có xu thế ỷ lại, không tự chủ trong sản
xuất, làm cho hoạt động sản xuất của các DNNN bị trì trệ, hàng hoá sản xuất ứ
đọng không tiêu thụ được làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, mất khả năng
thanh toán, nợ NH ngày càng nhiều. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn vay vốn
lẫn nhau nhưng không trả chiếm dụng vốn của nhau gây ảnh hưởng tới sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Về đội ngũ cán bộ :
Đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn chiếm tỉ lệ thấp, cho nên việc áp
dụng và sử dụng các dây truyền hiện đại khó khăn, có khi còn mang lại tổn thất
cho doanh nghiệp.
2. Vị trí của kinh tế Nhà nước trong giai đoạn hiện nay
Trong thời kỳ bao cấp, hoạt động của các DNNN kém hiệu quả, làm ăn thua
lỗ kéo dài, do việc nhận thức về cơ chế kinh tế “hoạt động có hiệu quả thì tốt,
nếu kinh doanh thua lỗ sẽ được Nhà nước trợ cấp”. Khi đó làm cho các DNNN
thời kỳ này luôn có su thế ỷ lại, không chủ động sáng tạo mà hoạt động như
một cỗ máy sản xuất theo số lượng củ thể đã được giao. Những máy móc thiết
bị, nguyên nhiên vật liệu đều được cấp không biết chất lượng tốt xấu ra sao,
nhưng miễn là sản xuất ra sản phẩm và việc tiêu thụ cũng được bao cấp từ
đầu đến cuối, chỉ cần giao nộp đầy đủ với số lượng sản phẩm sản xuất được
giao ra theo những địa chỉ đã được chỉ định cụ thể. Do đó mà trình độ sản xuất
của các DNNN thời kỳ này ngày một kém hiệu quả. Các sản phẩm sản xuất ra
không biết có đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng hay không, họ không cần
biết cứ miễn là số lượng theo kế hoạch được giao, dẫn đến mắt sự cạnh tranh
trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế nước ta bị suy sụp nhanh chóng, các tệ
nạn quan liêu tham nhũng ngày một gia tăng trở thành một căn bệnh khó
chữa, lạm phát tăng nhanh với tốc độ phi mã, đời sống nhân dân ngày càng
khó khăn.
Đứng trước tình hình thực tế như vây, Đại hội TƯ Đảng lần 6 đã vạch ra
một hướng đi mới cho phát triển kinh tế “chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và hoạt động theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN”
Nều kinh tế hoạt động theo cơ chế này đã làm cho các phạm trù về giá trị có
chỗ đứng, các mối quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá, quy luật cạnh tranh
trở thành yếu tố quan trọng nhất. Trứơc tình hình đó, đặt ra câu hỏi những
DNNN đã tồn tại và hoạt động theo cơ chế cũ sẽ đi về đâu ? Liệu có cần tồn tại
các DNNN nữa không ?
Có nhiều quan điểm cho rằng trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động của
các DNNN là kém hiệu quả do đó nên xoá bỏ càng sớm càng tốt. Đây là những
quan điểm sai lầm, bởi vì xuất phát từ những vai trò của DNNN như sau :
- Giúp cho việc phát triển cân đối nền kinh tế : Chỉ có các DNNN mới có thể
đảm đương nổi những lĩnh vực quan trọng nhưng lại gặp khó khăn nhất trong
việc phát triển kinh tế. Đối với những lĩnh vực khó khăn đó, các doanh nghiệp
khác không thể đảm đương nổi do bị hạn chế về vốn, nhân lực, trình độ kỹ
thuật công nghệ, quyền hạn và trách nhiệm trong việc thực hiện các dự án
trên. Bên cạnh những giơi hạn về nguồn lực, lượng vốn đầu tư cao nhưng thời
gian thu hồi vốn kéo dài trong nhiều năm và những dự án này có khả năng
không mang lợi nhuận cao và có thể gặp rủi ro. Hơn nữa trong nền kinh tế thị
trường, bất kỳ doanh nghiệp nào bước vào sản xuất kinh doanh thì mục tiêu
hàng đầu là lợi nhuận, do đó các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm cho mình những
giải pháp để thu được lợi nhuận cao nhất, họ sẽ tiến hành kinh doanh vào
những ngành có lợi nhuận cao, môi trường điều kiện thuận lợi và thời gian thu
hồi vốn nhanh bởi vì họ bỏ một đồng vốn không biết trong tương lai giá trị
đồng tiền đó như thế nào, họ có thể thu về được số tiền có giá trị lớn hơn
không. Như vậy làm cho nền kinh tế phát triển không lành mạnh, mất cân đối
giữa các ngành, làm cho nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế bị lãng quên.Trong
khi đó mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta là phát triển theo định hướng
CNH – HDH đất nước, phát triển cân đối nền kinh tế thì không thể thiếu được
các DNNN.
Các DNNN được thành lập trên cơ sở được Nhà nước cấp vốn cho nên sẽ
thực hiện các mục tiêu chiến lược của Nhà nước. Đối với vấn đề phát triển kinh
tế ở mỗi quốc gia, việc giữ cân bằng trong cơ cấu kinh tế là rất quan trọng, mỗi
một ngành lĩnh vực có đặc diểm chức năng riêng của nó, sự vận hành của các
nganh cũng giống như các bộ phận trong cùng một cơ thể tạo nên một tổng
thể hài hoà, mỗi bộ phận có chức năng nhiệm vụ riêng không thể thay thế được
cho nhau. Do vậy Nhà nước là người có trách nhiệm điều hành một tổng thể
phù hợp giữa các ngành trong nền kinh tế.
- DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nều kinh tế quốc dân. Vai trò này vẫn tiếp
tục đươc khẳng định trong quá trình đổi mới DNNN ở nước ta, DNNN là một
trong những công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết chi phối toàn bộ nền kinh
tế quốc dân theo định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh, Nhà nước nắm độc quyền sản xuất một số ngành như
điện lực, thuốc chữa bệnh… và những sản phẩm đem lại nguồn thu lớn cho
ngân sách Nhà nước như : rượu bia, thuốc lá.
- DNNN đóng vai trò trong việc cung cấp và ổn định giá cả các lâọi hàng hoá