Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn thạc sĩ sư phạm Ngữ văn: Rèn Luyện Kỹ Năng Tổ Chức Đoạn Văn Trong Bài Văn Nghị Luận Cho Học Sinh THPT​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.8 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI GIÁO DỤC

PHẠM THỊ BÍCH THU

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỔ CHỨC ĐOẠN VĂN
TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
CHO HỌC SINH THPT

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
MÃ SỐ: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS Nguyễn Quang Ninh

HÀ NỘI - 2013
i


Lời cảm ơn
Để có thể sớm hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn chân
trọng tới PGS.TS. Nguyễn Quang Ninh, người đã tận tình hướng dẫn, động
viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
Trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, trường Đại
học Giáo Dục, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi
điều kiện cho tôi trong suốt thời gian của khóa học
Trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, đồng nghiệp trường THPT Bất Bạt
đã tạo điều kiện, giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa học với luận văn này.
Trân trọng cảm ơn gia đình và bạn bè thân thiết đã luôn quan tâm, chia


sẻ với tôi suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Tác giả luận văn

Phạm Thị Bích Thu

ii


DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt

Viết đầy đủ

CT

Chương trình

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

NXB

Nhà xuất bản


PPDH

Phương pháp dạy học

SGV

Sách giáo viên

SGK

Sách giáo khoa

TN

Thực nghiệm

THPT

Trung học phổ thông

Tr.

Trang

iii


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Danh mục viết tắt trong luận văn ..................................................................... iii

Mục lục.............................................................................................................. iv
Danh mục bảng, biểu .......................................................................................... vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 9
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................. 9
1.1.1. Đoạn văn trong lý thuyết ngôn ngữ ........................................................ 9
1.1.2. Văn nghị luận ........................................................................................ 12
1.1.3.Đoạn văn trong văn nghị luận ................................................................ 18
2.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 21
2.2.1. Về chương trình..................................................................................... 21
2.2.2. Về sách giáo khoa ................................................................................. 22
2.2.3. Tình hình dạy học môn Làm văn ở các trường Trung học phổ thông .. 22
2.2.4. Nguyên nhân và thực trạng viết đoạn văn trong bài văn nghị luận của
học sinh Trung học phổ thông......................................................................... 25
Chương 2: TỔ CHỨC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN
NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH ................................................................... 28
2.1. Luyện viết đoạn văn có câu chủ đề thể hiện luận điểm ............................ 28
2.1.1. Luận điểm.............................................................................................. 28
2.1.2. Tổ chức rèn luyện.................................................................................... 33
2.2. Luyện viết đoạn văn có nhiều luận cứ ..................................................... 38
2.2.1. Luận cứ .................................................................................................. 38
2.2.2. Tổ chức rèn luyện.................................................................................... 41
2.3. Luyện viết đoạn văn có câu kết luận đoạn ............................................... 45
2.3.1. Kết luận ................................................................................................. 45
2.3.2. Tổ chức rèn luyện .................................................................................. 47
2.4. Luyện viết đoạn văn theo những cách lập luận khác nhau ...................... 51
iv


2.4.1. Những cách lập luận cần luyện ............................................................. 52

2.4.2. Tổ chức rèn luyện .................................................................................. 59
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................... 65
3.1. Những vấn đề chung ................................................................................ 65
3.1.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 65
3.1.2. Yêu cầu của thực nghiệm ...................................................................... 65
3.1.3.Đối tượng và thời gian thực nghiệm ...................................................... 66
3.1.4. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 66
3.2. Tổ chức thực nghiệm sư phạm ................................................................. 66
3.2.1. Bảng kết quả kiểm tra lớp đối chứng và lớp thực nghiệm .................... 67
3.2.2. Phân tích kết quả dạy học đối chứng và dạy học thực nghiệm ............. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87

v


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1. Bảng kết quả kiểm tra lớp 12A2, 12a5 .....................................................67
Bảng 3.2. Bảng so sánh kết quả trước TN và sau khi TN - Lớp 12A3 .....................67

vi


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thực tế giảng dạy và học tập ở nhà trường THPT cho thấy việc rèn
luyện viết văn nghị luận còn chưa được chú ý tương xứng với tầm quan trọng
của nó trong chương trình. Lí do cũng dễ hiểu: bản thân nghị việc thường bị
cho là “khô - khó - khổ”, khô khan, khó viết, nội dung nghị luận lại không có
sẵn, phải tự nghĩ ra - vốn là những điều chưa quen, chưa thành kĩ năng đối với

học sinh khi làm bài nghị luận. Đây là một vấn đề quan trọng cần phải chú ý
uốn nắn, điều chỉnh kịp thời để có thể giảng dạy và học tập tốt phần nghị luận
trong chương trình Làm văn ở THPT.
Mặt khác, trong hệ thống chỉnh thể của một bài làm văn, đoạn văn là
một bộ phận cấu thành, là một trong những thành tố quan trọng tạo nên hệ
thống ấy. Đoạn văn là nơi học sinh thể hiện các luận điểm và triển khai các
luận điểm để làm sáng rõ cho luận đề, cho toàn bộ bài văn. Tuy nhiên, một
trong những lỗi thường gặp của học sinh khi viết bài văn nghị luận chính là
không biết viết đoạn văn, không xây dượng được đoạn văn chặt chẽ, mạch
lạc. Đối với bài văn nói chung và đặc biệt đối với bài văn nghị luận nói riêng,
sự lúng túng này của học sinh càng được thể hiện rõ nét hơn rất nhiều.
Bởi vậy, theo chúng tôi, để giúp cho học sinh viết được những bài văn
nghị luận hay trước hết chúng ta cần phải bắt đầu rèn cho học sinh viết được
những đoạn văn nghị luận hay, nghĩa là đoạn văn có luận điểm rõ ràng, có sự
lập luận chặt chẽ và được diễn đạt ra bằng lời lẽ trong sáng. Trên cơ sở viết
được những đoạn văn mạch lạc, chặt chẽ như vậy, học sinh sẽ chắc chắn hơn,
tự tin hơn để viết được bài văn nghị luận hoàn chỉnh đầy sức thuyết phục.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học phần làm văn nhằm tăng cường tính thực hành,
phát triển tư duy logic và sự sáng tạo độc đáo cho học sinh nên nhà trường
Trung học phổ thông cần giúp các em hình thành bằng được kĩ năng, kĩ xảo
khi làm bài văn nghị luận. Và mặc dù đã có trình độ tư duy phát triển cao

1


cũng như kĩ năng viết văn từ bậc học dưới nhưng các em vẫn mất nhiều thời
gian thậm chí khó khăn khi muốn viết được một đoạn văn trôi chảy tạo nên sự
khơi thông mạch văn toàn bài. Bởi thế việc luyện viết đoạn văn nghị luận là
hết sức cần thiết với các em.
1.2. Văn nghị luận có vai trò hết sức quan trọng trong sống xã hội cũng

như trong nhà trường. Thông qua các bài làm văn nghị luận, học sinh có điều
kiện phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, các em có dịp thể hiện năng lực
tư duy, cảm thụ và năng lực lập luận của mình. Đây cũng là những yêu cầu rất
cần thiết để các em làm hành trang bước vào cuộc sống. Song trong thực tế
nhà trường phổ thông hiện nay phần lớn kĩ năng làm văn nghị luận của học
sinh còn rất kém, các em ít hứng thú trong việc rèn kĩ năng viết văn nghị luận,
trong các bài viết mắc khá nhiều lỗi. Một trong những lỗi bắt gặp ngay khi mở
đầu bài viết đó là các em còn lúng túng không biết làm thế nào để vào bài cho
nhanh mà vẫn đảm bảo đúng, hay và hấp dẫn. Quan tâm đến cách viết bài của
học sinh từ đó tìm ra các biện pháp, phương pháp hữu hiệu nhất giúp các em
hoàn thành bài viết của mình với kết quả cao nhất có thể là một việc làm có ý
nghĩa thiết thực. Mục đích chính yếu là nhằm rèn luyện nâng cao kĩ năng viết
bài văn nghị luận cho học sinh và góp phần vào nhiệm vụ chung của quá trình
đổi mới phương pháp dạy học văn. Như chúng ta được biết hướng cải tiến
chung của chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay theo Bộ giáo dục
và Đào tạo là giảm tải, tăng thực hành, gắn với đời sống. Vì vậy, dạy và học
trong nhà trường đang đứng trước yêu cầu bức thiết đó là cần đổi mới toàn
diện từ phương hướng, mục tiêu đến nội dung, phương pháp dạy học. Đặc
biệt, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học cần được tiến hành ở tất
cả các cấp học, bậc học. Văn nghị luận từ lâu đã được coi là bộ phận quan
trọng nhất trong chương trình làm văn ở trung học phổ thông.
Trong văn nghị luận thì tổ chức đoạn là một yếu tố quan trọng giúp cho
việc thể hiện luận điểm, luận cứ của người viết một cách rõ ràng hơn và qua
đó mà lập luận trong đoạn văn, bài văn cũng vì thế mà chặt chẽ và mạch lạc
2


hơn. Với đặc thù phần ngữ văn, hiệu quả cao nhất của các em là có thể tạo ra
sản phẩm viết bài làm sao cho đúng, cho hay, cho hấp dẫn, mạch lạc. Để làm
được điều đó, học sinh cần phải nắm được nhiều kiến thức tổng hợp về bài

văn, về phương pháp làm văn, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, cách dùng từ, đặt
câu. Trong đó, yếu tố không thể thiếu được là cách tổ chức đoạn trong bài văn
có sự thống nhất, sự phù hợp giữa nội dung và hình thức. Thế nhưng, trong
thực tế, không ít các em khi làm bài văn đặc biệt là phần thân bài- mặc dù nội
dung gồm nhiều ý, nhưng các em chỉ thể hiện trên một đoạn văn dài hàng 2-3
trang. Vì thế ý tưởng của các em trình bày đôi lúc rất lộn xộn kém hiệu quả,
không thu hút được sự chú ý của người đọc. Đây là điều rất đáng lo ngại và
cần phải khắc phục ngay.
1.3. Chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở đã nêu lên mục tiêu khái
quát: “Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu chung của nhà trường Trung học cơ sở, góp phần hình thành những con
người có học vấn phổ thông cơ sở… Đó là những con người có ý thức tự tu
dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh
thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là
những người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có
năng lực cảm thụ các giá trị chân thiện mỹ trong nghệ thuật, trước hết trong
văn học, có năng lực thực hành và năng lực tư duy sáng tạo như một công cụ
để tư duy giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài trí của
mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc”. Không nằm ngoài
những mục tiêu trên và nhằm phát triển cao hơn những yêu cầu được nhắc
đến ở chương trình Trung học cơ sở, bộ Sách giáo khoa Ngữ văn Trung học
phổ thông cũng đã đưa ra nội dung giảng dạy và học tập rất “thấu tình đạt lí”
để giúp học sinh phát huy khả năng tư duy và vận dụng vào trong thực tế cuộc
sống sau này của chính các em. Trong đó, phần làm văn chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng. Nó là phần học mang tính thực hành tổng hợp ở trình độ cao.
3


Cái đích cuối cùng của làm văn là trang bị cho học sinh khả năng độc lập để

viết một bài văn có chất lượng cao, trong có có nhiều đoạn văn hay. Muốn
như vậy không có cách nào khả thi hơn ngoài việc đổi mới việc dạy học trong
nhà trường hiện nay: bước đầu tiên trong việc làm văn là rèn viết từ đoạn văn
và cái đích cuối cùng, bước chân cuối cùng cần phải đặt đến chính là bài văn.
Trong quá trình dạy học, mỗi giáo viên ai cũng có khát vọng, là sao cho
giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao nhất, làm sao cho kiến thức giờ dạy đến
với từng học sinh, nhất là các em yếu kém bước nâng lên kiến thức để khẳng
định mình? Chính vì thế người giáo viên muốn dạy tốt cần phải tự trau dồi
kiến thức tương đối vững vàng, tìm ra các giải pháp tối ưu nhất để việc học
tập của các em đạt hiệu quả cao nhất.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Rèn kỹ năng tổ chức đoạn trong
bài văn nghị luận cho học sinh THPT” nhằm củng cố kỹ năng làm bài cho học
sinh có hiệu quả mục đích dạy nghị luận ở nhà trường phổ thông hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Làm văn là phần học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất,
đặc biệt với văn nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là
loại văn bản thông thường mà nó còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết
phục người đọc của văn nghị luận không chỉ nhờ lập luận chặt chẽ mà còn
khéo léo trong dẫn dắt của người viết. Chính vì vậy, việc xây dựng cơ sở lí
luận cho việc dạy văn nghị luận vô cùng bức thiết. Từ trước đến nay đã có
nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả về kĩ năng viết đoạn văn.
Điểm qua một vài cuốn sách hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn và
hướng dẫn Làm văn như: Phương pháp làm văn nghị luận (Thẩm Thệ Hà);
Tài liệu hướng dẫn học môn Làm văn (Nguyễn Quang Ninh); Giáo trình Làm
văn (Đình Cao, Lê A); Dàn bài Tập làm văn 12 (Trần Đình Sử, Phan Huy
Dũng); Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu); 150 bài
tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh); Văn bồi dưỡng
học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng Mạnh)... Trong nhiều năm
4



qua, những tài liệu nghiên cứu, tài liệu chỉ đạo về phần này còn quá ít. Nếu
có, những cuốn này chỉ mang tính chất tham khảo cho giáo viên và học sinh.
Thực tế cho thấy, đại đa số các cuốn sách đều đã đề cập đến phần mở bài tuy
chưa được sâu sắc và trọn vẹn như khi bàn về phần thân bài.
Một trong số các tác giả dành sự quan tâm nhiều cho việc rèn luyện viết
đoạn văn nói chung và rèn luyện viết đoạn văn nghị luận nói riêng là tác giả
Nguyễn Quang Ninh. Có thể nêu ra đây một vài cuốn tiêu biếu của tác giả
này: “Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ thông”
(Nguyễn Quang Ninh – Chủ biên, Nguyễn Thị Ban, Trần Hữu Phong) – NXB
ĐHQG Hà Nội – 2000. Một cuốn sách khác cũng của tác giả Nguyễn Quang
Ninh đã đóng góp không nhỏ trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học
sinh là cuốn “150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn văn” – NXBGD, 1995. Trong
hai cuốn sách vừa kể trên, tác giả đã giải thích tương đối cặn kẽ, cụ thể về khái
niệm đoạn văn – trong đó có đoạn ý và đoạn lời – cũng như việc đề xuất một hệ
thống bài tập tương đối phong phú về việc rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn
trong chỉnh thể bài văn.
Cuốn sách tiếp theo dành sự quan tâm tới đoạn văn trong làm văn là
cuốn “Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông” của Nguyễn Quốc Siêu. Trong
cuốn sách này, tác giả không chỉ giới thiệu về việc viết đoạn văn nghị luận
như một phần nằm trong phần thân bài mà mà còn đề cập đến cả những đoạn
văn thuộc phần mở bài hoặc kết bài. Tác giả đã giới thiệu kĩ năng viết phần
mở bài với các cách như sau: Từ một sự kiện tương đồng của vấn đề, từ việc
trình bày bối cảnh mà xác định luận đề, qua cách vấn thiết mà nêu vấn đề, dẫn
danh ngôn đã nêu luận đề, qua đối chiếu phải trái đã nêu vấn đề.
Cuốn sách Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn
Đăng Mạnh) bàn luận khá kĩ về việc viết đoạn văn, đặc biệt là đoạn mở bài
hay:“Trước hết muốn mở bài hay cần hiểu rõ mục đích và nhiệm vụ của mở bài.
Mục đích của mở bài là giới thiệu với bạn đọc về vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ bàn
bạc, trao đổi hay miêu tả, kể lại. Viết mở bài thực chất là trả lời câu hỏi: Ở bài

5


viết này, mình định viết về điều gì?”… “Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở
phần dẫn dắt. Phần nêu vấn đề và phần giới hạn vấn đề thường không thay đổi,
vì mở bài theo kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này. Như thế cũng có
nghĩa là, muốn viết được các mở bài khác nhau thì người viết chỉ cần xác định
rõ ba phần của đoạn mở bài, giữ lại hai phần sau và thay đổi phần đầu là có thể
có một mở bài khác. Nói gọn lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta sẽ có một mở bài
mới”. [16,Tr 87] Vì đặc điểm của nội dung trình bày trong cuốn sách này, nên
các tác giả không thể dành nhiều sự chú ý cho việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn
văn nói chung.
Những tài liệu trên cơ bản đã hình thành những lí thuyết chung về đoạn
văn. Tuy nhiên, cần thấy rằng cách tìm hiểu về tổ chức đoạn văn như vậy vẫn
chưa thật toàn diện, chưa thật sâu sắc. Nội dung của những cuốn sách này chủ
yếu vẫn thiên về lí thuyết trừu tượng chứ chưa thực sự chú trọng hình thành
các thao tác cụ thể cho học sinh. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này trên cơ sở
kế thừa và sáng tạo tất cả những quan điểm đi trước, nhằm đóng góp một
phần nhỏ trong việc xây dựng lí thuyết Làm văn và hướng dẫn học sinh làm
một số bài tập vận dụng những lí thuyết đã đưa ra.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận về phương
pháp dạy học làm văn nghị luận, đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng dựng đoạn
cho học sinh ở trường THPT. Những kiến thức lĩnh hội được thông qua sách
vở và tài liệu tham khảo, qua việc lên lớp của thầy cô cũng như sự tích luỹ
của bản thân các em trong quá trình tiếp xúc, giao lưu ngoài cuộc sống xã hội
đủ điều kiện giúp các em viết đoạn văn đúng, hay và nhanh chóng cũng như
có thể làm những bài đòi hỏi sự sáng tạo và độc đáo.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn về điều kiện và khả năng, chúng tôi
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đoạn văn. Hi vọng rằng luận văn với những nội

dung bao hàm trong đó sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công tác giảng
dạy, nghiên cứu và hơn hết là giúp các em học sinh Trung học phổ thông có thể
viết đoạn văn trong bài văn nghị luận thành thục, đạt yêu cầu, hay và hấp dẫn.
6


4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục đích nhằm giúp học sinh rèn luyện được kĩ
năng tổ chức một đoạn văn trong văn bản nghị luận sao cho chặt chẽ, mạch
lạc góp phần nâng cao năng lực tư duy, năng lực khái quát cũng như năng lực
sử dụng ngôn ngữ ở mức chủ động sáng tạo. Chính vì vậy, luận văn này còn
hướng đến mục đích góp một tiếng nói riêng của mình vào việc đổi mới
phương pháp dạy học làm văn nói chung và dạy học văn nghị luận nói riêng
hiện nay đang diễn ra sôi nổi trong nhà trường THPT của chúng ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng đề tài, chúng tôi đã vận dụng nhiều phương
pháp dạy học tiếng Việt, dạy học Làm văn. Giữa các phương pháp có sự phối
hợp với mức độ đậm nhạt và phân bố khác nhau ở từng phần. Dưới đây là một
số phương pháp nghiên cứu cơ bản nhất đã được chúng tôi vận dụng.
5.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ dùng để nghiên cứu tài liệu trong quá
trình thực hiện đề tài. Với đề tài này, chúng tôi thu thập thông tin trên cơ sở
nghiên cứu văn bản, tài liệu đã có để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
Các văn bản, tài liệu xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài là các tài liệu
ngôn ngữ học, đặc biệt là các tài liệu về bài văn và đoạn văn, chính vì thế việc
sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ là điều bắt buộc.
5.2. Phương pháp khảo sát thực tế
Từ trước đến nay, chúng ta luôn đề cao mối quan hệ mật thiết giữa lí
luận và thực tiễn, trong đó, thực tiễn nắm vai trò cốt yếu trong quá trình nhận
thức và hành động.

Trên cơ sở những lí thuyết đã nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát
thực tế. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát một số lượng lớn những bài làm văn của
học sinh Trung học phổ thông, tập trung tìm hiểu sự chất lượng xây dựng
đoạn văn nghị luận của các em. Việc làm này giúp chúng tôi nắm được những

7


khó khăn, vướng mắc cũng như những mặt còn hạn chế trong khi viết đoạn
văn của các em.
5.3. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu ngôn ngữ học cũng như trong nghiên cứu các phương pháp dạy
học. Vì vậy, sử dụng phương pháp thống kê trong luận văn này sẽ giúp cho
chúng tôi có được những con số biết nói về thực trang và chất lượng viết đoạn
văn nghị luận của học sinh. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ đề xuất được những
phương pháp rèn luyện phù hợp hơn, có tính khả thi cao hơn.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp tổ chức, triển khai giả thuyết
khoa học của đề tài vào thực tế giảng dạy nhằm kiểm tra, đánh giá một cách
khách quan tính khả thi của các vấn đề đưa ra và từ đó hiệu chỉnh lại nhằm
đạt được sự tin cậy và mang tính khoa học nhất nơi luận văn.
Phương pháp thực nghiệm có vị trí đặc biệt quan trọng của khoa học giáo
dục nói chung và phương pháp rèn luyện kĩ năng Làm văn nói riêng. Có nhiều
loại thực nghiệm khác nhau: Thực nghiệm điều tra, thực nghiệm định hướng,
thực nghiệm giảng dạy, thực nghiệm kiểm tra…Chúng tôi áp dụng phương pháp
thực nghiệm ngay khi đưa ra các dạng bài tập. Trước hết, chúng tôi tìm hiểu
trình độ học sinh về kiến thức, kĩ năng viết đoạn văn trong văn nghị luận, sau đó
đề ra phương pháp thực nghiệm cho từng đối tượng theo trình tự: Dạy lí thuyết,
ra đề, đánh giá và thống kê kết quả. Cuối cùng, chúng tôi có thể rút ra kết luận

mang tính khách quan nhất về quá trình nghiên cứu của mình.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
Chương 2: Tổ chức rèn kĩ năng viết đoạn trong bài văn nghị luận cho học
sinh Trung học phổ thông
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
8


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Đoạn văn trong lý thuyết ngôn ngữ
Đoạn văn là đơn vị cơ sở để tạo thành văn bản. Đoạn văn phong phú về
nội dung, phức tạp về cấu trúc và đa dạng về chức năng. Những đoạn văn đạt
tới sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về mặt nội dung được các nhà nghiên cứu
gọi là những “văn bản nhỏ”. Điều này đã phần nào thể hiện được tính đồng
hình cao giữa văn bản nhỏ và văn bản hoàn chỉnh. Do đó nhiều người cho
rằng con đường nhanh nhất, ngắn nhất để nghiên cứu văn bản hoàn chỉnh,
phát hiện ra những đặc điểm về cấu trúc, về chức năng của nó chính là con
đường bắt đầu từ sự nghiên cứu đoạn văn, và cũng theo tinh thần này, chúng
ta thấy rằng để rèn luyện cho học sinh cách viết một bài văn hoàn chỉnh,
chúng ta không thể không bắt đầu từ việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn.
Khi đã có kỹ năng tổ chức đoạn văn, chắc chắn việc rèn luyện kỹ năng viết
bài văn của học sinh sẽ diễn ra có nhiều thuận lợi. Luyện viết đoạn là bước
chuyển tiếp cho việc viết bài văn.
Về lý thuyết, đoạn văn có thể rất dài, nhưng trong thực tế đoạn văn xuất

hiện thường có độ dài trung bình khoảng 5- 6 câu. Vì số lượng câu không
nhiều nên việc bao quát toàn bộ một đoạn văn dễ dàng và thuận lợi hơn nhiều
so với văn bản hoàn chỉnh. Chính vì đặc tính ngắn gọn, dễ bao quát, và cũng
vì thế dễ trích dẫn, nên khi nghiên cứu văn bản, để minh họa cho một luận
điểm nào đó, các nhà ngôn ngữ thường dẫn ra một “văn bản nhỏ”, tức một
đoạn văn.
Đi theo cách thức các nhà nghiên cứu đã tiến hành, trong nhà trường,
việc giảng dạy và rèn kỹ năng viết bài văn hoàn chỉnh cũng chủ yếu được dạy
và rèn luyện thông qua việc rèn kỹ năng viết đoạn văn. Việc rèn kỹ năng viết
đoạn văn trên lớp đỡ tốn thời gian, dễ dàng ghi chép trên bảng, nhiều học sinh

9


được luyện tập, dễ bao quát dễ chữa lỗi và tránh được tâm lí ngại viết một bài
văn dài của học sinh. Đây là lý do giải thích vì sao hiện nay trong các giờ làm
văn, chúng ta thường lấy bài tập rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn là một trong
những bài tập chủ yếu.
Điều đáng tiếc là hiện nay ngay khái niệm đoạn văn được dùng trong
nhà trường lại chưa đạt sự thống nhất. Tình hình này đã gây không ít khó
khăn cho học sinh trong học tập.
Một số thầy cô giáo cho rằng đoạn văn được dùng để chỉ sự phân đoạn
nội dung văn bản. Đoạn văn có thể dài hàng vài trang, bao gồm nhiều chỗ
ngắt đoạn, xuống dòng. Biểu hiện cụ thể của quan niệm này bộc lộ ở những
câu hỏi kiểu như: Bài văn này có thể chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?.
Theo cách hiểu này, mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh nhất định về nội dung,
nhưng cái khó ở đây là làm thế nào để xác định được sự hoàn chỉnh về nội
dung? Không dễ gì trả lời được câu hỏi này. Trong phần lớn các trường hợp,
chúng ta đều phải dựa vào những dự cảm chủ quan để phân định nội dung, để
xem xét tính hoàn chỉnh của nó. Nhưng đã dựa vào dự cảm, nghĩa là mang

nặng tính chủ quan, thì kết quả của phân chia đoạn văn thường không đạt
được sự thống nhất, thiếu hẳn tính khách quan. Và cũng vì thế những tiêu chí
phân định đoạn văn sẽ trở nên mơ hồ. Điều này làm ảnh hưởng tới cả việc
giúp học sinh viết đoạn văn trong các bài văn của mình.
Bên cạnh quan niệm trên, một số thầy giáo cô giáo khác lại cho rằng
đoạn văn là sự phân đoạn văn bản mang tính chất hình thức. Cách hiểu này
được ghi nhận trong các lời nói kiểu như: Muốn có đoạn văn ta phải chấm
xuống dòng, mỗi chỗ xuống dòng sẽ cho ta một đoạn văn. Cách hiểu này đã
dựa trên sự ổn định về mặt hình thức, có thể cảm nhận được tính chất tự
nhiên, trọn vẹn của những dấu hiệu về đoạn văn, nhưng chưa thật đầy đủ vì đã
không gắn yếu tố hình thức với nội dung. Khi tạo văn bản, người viết có
quyền tự do trong việc xây dựng đoạn văn, nhưng không phải vì thế mà có
quyền tùy tiện. Bất kì một hình thức nào cũng chứa đựng một nội dung nhất
10


định, cho nên một mặt, đoạn văn lại chịu sự chi phối bởi chính nội dung do
người viết trình bày. Nội dung bao giờ cũng phù hợp với hình thức, thống
nhất với hình thức. việc phá vỡ mối quan hệ biện chứng này sẽ đẩy nội dung
đến chỗ khó hiểu hoặc không thể hiểu được. Vì vậy, khi bàn tới khái niệm
đoạn văn cũng không thể thiên về mặt hình thức thuần túy
Để tránh tình trạng trên, chúng tôi cho rằng cách hiểu thỏa đáng hơn là
nên coi đoạn văn vừa là sự phân đoạn nội dung, vừa là sự phân đoạn hình
thức. Đoạn văn là bộ phận của văn bản thể hiện sự phân đoạn văn bản cả về
mặt logic ngữ nghĩa lẫn mặt biểu cảm thẩm mỹ.Về mặt nội dung, đoạn văn có
thể hoàn chỉnh hoặc không hoàn chỉnh. Khi đoạn văn có sự hoàn chỉnh nhất
định nào đấy về nội dung, đoạn văn sẽ có những đặc điểm đồng dạng kết cấu
ở mức cao nhất so với văn bản hoàn chỉnh. Trong trường hợp này, chúng tôi
gọi mỗi đoạn văn là một đoạn ý(hay đoạn nội dung). Ngược lại, những đoạn
không hoàn chỉnh về nội dung sẽ được gọi là đoạn lời (hay đoạn diễn đạt,

đoạn hình thức). Đoạn văn lúc này chủ yếu là kết quả của sự phân đoạn nhằm
mục đích nhấn mạnh, mang tính chất biểu cảm, thẩm mĩ. Còn về mặt hình
thức, đoạn văn luôn luôn ổn định, thống nhất trong mọi trường hợp. Đó là
phần văn bản nằm giữa hai chỗ thụt đầu dòng, chữ cái đầu đoạn được viết hoa
và cuối đoạn có dấu ngắt đoạn, xuống dòng. Dấu hiệu hình thức mang tính tự
nhiên này giúp ta dễ nhận ra đoạn văn khi phân tích văn bản và nhanh chóng
xác lập được đoạn văn trong quá trình xây dựng văn bản
Từ việc xác định khái niệm đoạn văn như cách hiểu trên đây, trong luận
văn này, chúng tôi chủ yếu hướng vào việc đề xuất những bài tập rèn luyện
cho học sinh kĩ năng tổ chức đoạn văn có sự hoàn chỉnh nhất định về mặt nội
dung – đó là các đoạn ý. Bởi lẽ đây là loại đoạn được sử dụng phổ biến trong
tất cả các loại hình văn bản, đặc biệt là trong văn nghị luận. Hơn nữa, loại
đoạn này cũng là loại đoạn điển hình của văn bản nghị luận, cả nghị luận xã
hội lẫn nghị luận văn học.

11


1.1.2. Văn nghị luận
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày
những ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng
để làm rõ một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm cho người đọc (người nghe)
hiểu, tin, đồng tình với những ý kiến của mình và hành động theo những điều
mà mình đề xuất.
Văn nghị luận xây dựng trên cơ sở của tư duy logic, chứ không phải
trên cơ sở của tư duy hình tượng mang tính cụ thể – cảm tính như trong loại
văn sáng tác. Nếu trong văn sáng tác, những cảm xúc của tác giả và sự mô tả
những bức tranh của đời sống chiếm vai trò quan trọng nhất, thì chúng ta bắt
gặp trong văn nghị luận những vấn đề, những luận cứ, những lí lẽ, những khái
niệm…là điều quan trọng trước nhất. Văn nghị luận không làm nhiệm vụ mô

tả đời sống (xã hội hay nội tâm con người) mà nhằm nhận biết và phân tích
đời sống bằng tư duy logic, nên nó phải tuân thủ những quy tắc chặt chẽ của
tư duy logic. Tuy thế, không nên hiểu rằng văn nghị luận chỉ toàn là khô
khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc và hình ảnh ở đây là nằm trong hệ
thống của tư duy logic, tuân thủ trật tự của tư duy logic, chứ không phải là sự
xây dựng hoàn chỉnh bức tranh về đời sống xã hội.[19, Tr4]
Kết cấu của bài văn nghị luận là tuân theo trình tự của sự nhận thức và
khai triển một vấn đề trong tư duy logic, chứ không phải dựa theo mạch cảm
xúc (như trong loại trữ tình) hay cốt truyện là nhân vật (như trong loại tự sự)
hoặc theo diễn biến của xung đột (như trong loại kịch).
Ngôn ngữ của văn nghị luận là ngôn ngữ mang phong cách chính luận,
nó chú trọng đặc biệt đến sự chính xác và chặt chẽ ý mục đích của sự diễn đạt
trong văn nghị luận là phản ánh rõ ràng, chính xác quá trình tư duy để đạt đến
sự nhận thức chân lí cụ thể. Song ngôn ngữ chính luận cũng cần hấp dẫn, lôi
cuốn bằng từ ngữ có tính hình tượng và có sức biểu cảm, bằng sự biến đổi
linh hoạt của cách diễn đạt, của trật tự cú pháp chứ không chấp nhận sự khô

12


khan và đơn điệu, nhất là khi đối tượng nghị luận là các tác phẩm văn học
nghệ thuật. [19, Tr5]
Làm văn nghị luận là một công việc, một yêu cầu rất trọng yếu của việc
học tập môn văn học trong nhà trường. Văn nghị luận giúp cho người học
sinh vận dụng tổng hợp các tri thức văn học và hiểu biết xã hội, rèn luyện khả
năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt, giúp cho sự phát triển tư duy khoa
học của người học sinh. Văn nghị luận nêu ra những vấn đề tư tưởng và học
thuật đòi hỏi học sinh phải vận dụng những hiểu biết lí luận và thực tiễn để
giải đáp, xây dựng cho người học sinh có phương pháp tư tưởng đúng đắn để
hiểu đúng và có thái độ đúng trước các vấn đề đó, cũng tức là giúp cho việc

chuẩn bị tiến tới những hành động đúng đắn tích cực trong cuộc sống hiện tại
và tương lai. Nói tóm lại, tập làm văn nghị luận là góp phần tích cực vào việc
xây dựng và hoàn thiện nhân cách của học sinh.
Có thể chia văn nghị luận thành những loại khác nhau tùy theo cơ sở
được lựa chọn trong quá trình phân loại.
a) Căn cứ vào nội dung nghị luận
Căn cứ vào nội dung, văn nghị luận thường được các nhà nghiên cứu
chia thành hai loại:
- Nghị luận xã hội

Nghị luận xã hội là nghị luận về một vấn đề xã hội. Khái niệm xã hội
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, mọi
hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như chính trị,
kinh tế, giáo dục, đạo đức, môi trường, dân số…
Chúng ta hãy đọc một đoạn văn nghị luận xã hội dưới đây để thấy rõ
hơn về điều này:
“Trên vỏ bao thuốc lá bằng tiếng Anh hay bằng tiếng Việt đều có in
dòng chữ “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi”. Các phương tiện truyền
thông và truyền miệng luôn đưa lời khuyên “xưa như trái đất”: Các quý ông
hãy chừa rượu! Còn ma tuý thì được hình dung như một “tử thần” với con
13


người. Thế nhưng tại sao con người vẫn hàng ngày tìm đến rượu, ma tuý và
thuốc lá như tìm đến người bạn không thể thiếu trong cuộc viễn du và chưa
bao giờ con người dứt bỏ được chúng?”
- Nghị luận văn học
Nghị luận văn học là nghị luận về một vấn đề văn học như về một tác
phẩm, một tác giả, một trào lưu, một giai đoạn, một quan điểm văn học…
Chúng ta cùng đoạn đoạn trích dưới đây trong sự so sánh với đoạn trên

để thấy rõ hơn sự khác biệt giữa nghị luận văn học với nghị luận xã hội:
“Trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” nhà thơ Tố Hữu viết:
“Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác
của nền thi ca dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo. Về phương diện nghệ
thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả
tình, tự sự…đem đến cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương.
Đoạn thơ giới thiệu “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ
hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của
truyện thơ, một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách
thần tình, mỹ lệ”.[23, Tr 152].
b) Căn cứ vào cách thức nghị luận
Căn cứ vào cách thức nghị luận, người ta thường chia văn nghị luận ra
thành thành các loại bài sau:
b1) Loại bài chứng minh
Là loại bài trong đó người viết (người nói) dùng dẫn chứng và lí lẽ để
nêu bật sự đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận. Chứng minh là làm
cho người ta thấy đúng mà tin theo.
14


Ví dụ:
“Văn học nghệ thuật là một hình thái tư tưởng. Nó là món ăn tinh thần
không thể thiếu được. Nó là bạn của con người, theo con người mà lớn lên
suốt đường trường lịch sử. Nó có đặc trưng riêng, một sức mạnh riêng, rất
riêng. “Không có một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học
nghệ thuật trong việc xây dựng những tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc

đến nếp nghĩ, nếp sống của con người” (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6)”.
[39, Tr 72]
b2) Loại bài giải thích
Là loại bài trong đó người viết (người nói) dùng lí lẽ và dẫn chứng để
giúp người đọc (người nghe) hiểu rõ và tin vào sự đúng đắn của vấn đề được
đưa ra nghị luận.
Ví dụ:
“Từ xưa đến nay, cái chết có lẽ vẫn là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với con
người. Nó là bằng chứng hiển nhiên về sự hữu hạn của đời người, về quy luật
bất biến và khắc nghiệt của tự nhiên. Không ít người đã nghĩ về cái chết như
một kết cục đau thương, một mất mát lớn nhất trên cõi thế gian. Bàn về vấn
đề này, Noóc – man Ku – sin từng khẳng định: “Cái chết không phải là điều
mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn
tàn lụi ngay khi còn sống?” [12, Tr 172]
b3) Loại bài bình luận
Là loại bài trong đó người viết (người nói) bàn luận, đánh giá một vấn
đề để đi đến việc nhận định đầy đủ, sâu sắc về vấn đề đó và những điều do
vấn đề đó gợi ra. Nó gồm hai yêu cầu cụ thể là: bình (đánh giá) và luận (bàn
bạc mở rộng vấn đề).
Ví dụ:
“Hồn Trương ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm thành công
nhất của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Mượn cốt truyện dân gian, tác giả đã
khám phá, thể hiện được nhiều vấn đề cấp thiết của con người trong xã hội hiện
15


đại. Để lại ấn tượng sâu sắc nhất với tôi, có lẽ là khát vọng về một cuộc sống thực
sự được tác giả gửi gắm qua lời nhân vật Trương Ba: “Không thể bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. [12, Tr 177]
b4) Loại bài phân tích

Là loại bài trong đó người viết (người nói) chia, tách vấn đề được đưa
ra để phân tích thành từng bộ phận, từng khía cạnh để tìm hiểu, để khám phá
rồi sau đó tổng hợp lại để rút ra những kết luận, những đánh giá chung. Loại
bài này thường dùng cho loại nghị luận văn học.
Ví dụ:
“Ta yêu thêm hương sắc cuộc đời khi tiếp cận bài thơ “Bánh trôi
nước”, “Tranh Tố Nữ” của Hồ Xuân Hương. Ta thấy vui vui khi nghe kể về
những giai thoại về “bà chúa thơ Nôm”: “Ốc nhồi”, “Quả mít”, “Cái
quạt”…những bài thơ xù xì như thế của nữ sĩ đọc qua một lần đâu dễ quên?
Và đây nữa, bài thơ “Mời trầu” của Hồ Xuân Hương:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương, mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.[23,Tr 187]
B5. Loại bài tổng hợp
Là loại bài nghị luận trong đó người viết (người nói) phải kết hợp nhiều
thao tác nghị luận, ít nhất là hai thao tác như giải thích + chứng minh, giải
thích + bình luận, phân tích + chứng minh… hoặc kết hợp cả hai loại nghị
luận xã hội và nghị luận văn học.
Ví dụ:
“Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao điều rất khó định nghĩa
hoặc khó định nghĩa một cách chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn, bạn sẽ trả lời
thế nào nếu có câu hỏi: “Nghệ thuật là gì?”. Nghệ thuật là cái đẹp – câu trả
lời đúng nhưng chưa đủ. Nghệ thuật có khi là những đường nét man dại thô
sơ trên những dụng cụ thời cổ đại, có khi là cách tạo ra một nhân vật làm cho
16


mọi người đều khiếp sợ…Vậy có nên chăng khi ta chấp nhận quan điểm:
“Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Và cái tôi của nghệ thuật đó biểu

hiện như thế nào? Có thể đó là cái tôi duy cảm cũng có thể là cái tôi mang
tính công dân, nhưng trước hết đó phải là cái tôi đầy cá tính mang sắc thái
riêng. Trong văn học cũng thế, nói về tính độc đáo trong phong cách sáng
tác, có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của độc đáo, vì vậy nó đòi
hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng,
mới lạ, thể hiện trong các tác phẩm của mình”. Ý kiến trên rất bao quát
nhưng cũng đưa ra được một khía cạnh mà nghệ thuật đòi hỏi: Phong cách.
Trong văn đàn Việt Nam nói về phong cách – có lẽ không ai có thể qua được
Nam Cao và Nguyễn Tuân” [39,Tr 163]
Để làm tốt một bài nghị luận văn học cần có quá trình nỗ lực rèn luyện
kiên trì và hứng thú… Đã có nhiều cuốn sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về
các kiểu bài nghị luận, về phương pháp làm bài văn nghị luận văn học…Dĩ
nhiên, phương pháp, biện pháp chịu sự chi phối của mục đích, của nội dung.
Song cũng cần thấy rằng không ít khi nhờ có phương pháp mà chúng ta phát
hiện ra những vấn đề của nội dung, mà chúng ta nhận ra cái hay, cái đẹp của
tác phẩm. Ý thức về phương pháp có ý nghĩa không nhỏ đối với sự thành, bại
của một bài viết.
Tuy vậy, chúng ta cũng cần nhận thức rõ rằng: Không có phương pháp
nào là vạn năng. Không có phương pháp nào có thể áp dụng cho mọi trường
hợp để thu được những kết quả như nhau. Phương pháp không phải như cái
lẫy nỏ của thần Kim Quy! Không phải hễ học được phương pháp là có thể yên
tâm làm tốt ngay một bài văn nghị luận. Điều cốt yếu là ý thức của người
dùng nó, ý thức của người vận dụng phương pháp. Nếu như sáng tạo văn
chương là một hình thức lao động hết sức đặc thù, tác phẩm văn chương là
sản phẩm độc đáo của một cá nhân thì việc khám phá, nghị luận về tác phẩm
văn chương cũng thể hiện rất rõ màu sắc của một cá nhân. Nói như thế nghĩa

17



là đòi hỏi người viết bài văn nghị luận phải biết chủ động, linh hoạt trong tiếp
thu, trong vận dụng lí thuyết.
Văn nghị luận bao giờ cũng hướng tới mục đích làm sáng tỏ một vấn đề
nào đó nhằm thuyết phục người đọc, người nghe. Để đạt được mục đích đó,
người viết phải vận dụng nhiều thao tác tư duy, nhiều lí lẽ và thao tác nghị
luận trong quá trình làm bài.
Trong quá trình viết bài nghị luận văn học vẫn cần dùng những kiến
thức xã hội, chính trị, cũng như viết bài nghị luận xã hội vẫn có thể dùng kiến
thức văn học để minh họa. Tuy vậy hai loại này vẫn không thể lẫn lộn với
nhau được. Khi đã lấy đối tượng là một sự kiện chính trị – xã hội, thì dù có
bao nhiêu thơ văn minh họa vẫn không thể gọi đó là bài nghị luận văn
học.[20, Tr 18]
Nghị luận xã hội là một loại hình văn bản rất quan trọng với học sinh.
Bởi ý sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông không phải ai cũng đi vào con
đường văn chương. Nhưng ai cũng phải đối diện với những vấn đề xã hội.
Nhiều trường hợp ta phải giải thích, chứng minh, phải thể hiện thái độ tư
tưởng và tình cảm của mình trước một vấn đề xã hội nào đó và phải thuyết
phục một đối tượng nào đó theo lẽ phải của mình. Do đặc điểm nội dung xã
hội – chính trị, loại văn nghị luận xã hội dùng các thao tác nghị luận chính là:
phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận. Như vậy, với loại nghị luận xã
hội, trước hết người viết cần nắm vững các thao tác nghị luận cơ bản thường
dùng và cách làm một bài văn nghị luận nói chung, sau đó tùy từng vấn đề nội
dung do đề đặt ra mà xây dựng bài viết cho hợp lí.
1.1.3.Đoạn văn trong văn nghị luận
Văn bản nghị luận cũng giống như các loại văn bản khác, đó là cấu trúc
gồm ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng mục tiêu thực dụng của văn
bản nghị luận lại nhằm nêu ý kiến đánh giá bàn luận sự việc nào đó trong đời
sống cũng như văn học nghệ thuật. Mục đích giao tiếp của văn bản nghị luận
là nhằm thuyết phục người đọc, người nghe hiểu, tin và đồng tình với ý kiến
18



của mình mà hành động theo những gì mà mình đề xuất. Do đó, văn bản nghị
luận có đặc trưng cơ bản về mặt cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa là có tính chất
cân đối, chặt chẽ giữa các phần trong văn bản, từng phần trong văn bản lại có
chức năng riêng phù hợp với mục đích thuyết phục người khác của văn bản
nghị luận (tính hoàn chỉnh, trọn vẹn của một văn bản). Thêm nữa, văn bản
nghị luận nhằm thuyết phục người đọc nên rất chú ý đến lí lẽ và cách lập luận,
người viết phải có thái độ và lập trường rõ ràng.
Như phần trên chúng tôi đã chỉ ra, căn cứ vào nội dung nghị luận, ta
chia văn bản nghị luận thành hai loại: nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi quan tâm đến cả hai loại trên song do
điều kiện khách quan nên phần nhiều dẫn chứng vẫn chủ yếu là văn bản nghị
luận văn học dành cho học sinh Trung học phổ thông, đặc biệt chú trọng trong
mô hình của văn bản tối ưu. Tán thành với quan niệm coi đoạn văn như một
đơn vị ngôn ngữ, điều này có nghĩa là chúng tôi đã coi đoạn văn là một tổ
chức có kết cấu nhất định và thực hiện một chức năng nhất định. Việc nghiên
cứu lý thuyết trong ngôn ngữ cũng như lý thuyết riêng biệt của đoạn văn là
công việc phức tạp thuộc lĩnh vực lý luận ngôn ngữ. Tuy vậy, để có thể đưa ra
một hệ thống bài tập tổ chức rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn vừa không mâu
thuẫn với những lý thuyết về kết cấu đã được xác định vừa phù hợp với thực
tế nhà trường, chúng tôi chấp nhận một cách hiểu kết cấu là cách tổ chức các
yếu tố theo một kiểu mô hình nhất định. Kết cấu không phải là sự xếp đặt vị
trí các yếu tố mà cơ bản là cách tổ chức mạng lưới quan hệ giữa các yếu tố.
Do đó khi nói tới kết cấu một đoạn văn, ta không phải chỉ nói tới việc tổ chức
các mối quan hệ theo chiều sâu giữa các yếu tố. Theo tinh thần này, trong khi
đề xuất bài tập viết tổ chức viết đoạn văn, chúng tôi đã lưu ý tới cả hai loại kết
cấu trong việc tổ chức rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh.
Đoạn văn trong văn nghị luận là văn của tư duy logic, nên các yếu tố
tạo nên nội dung của nó là các sản phẩm của tư duy trừu tượng thường được

gọi là các ý. Theo cách hiểu khá thống nhất trong làm văn thì ý chính là ý
19


×