Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Luận văn thạc sỹ - Quản lý các hoạt động văn hóa của Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------

ĐÀM THỊ THANH TÂM

QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA TẠI
TRUNG TÂM VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------

ĐÀM THỊ THANH TÂM

QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA TẠI
TRUNG TÂM VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế và chính sách
Mã ngành: 8340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS NGUYỄN THỊ THANH
THỦY


HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Những nội dung trình bày trong
luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa từng được
ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của
người khác, tôi đều trích dẫn rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà
trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
NGƯỜI VIẾT

Đàm Thị Thanh Tâm


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT-TTg: Chỉ thị - Thủ tướng
HĐND: Hội đồng Nhân dân
MTTQ: Mặt trận tổ quốc
NĐ: Nghị định
NQ: Nghị quyết
QĐ: Quyết định
Nxb: Nhà xuất bản

TP: Thành phố
TTVHTT&DL: Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Du lịch
TW: Trung ương
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
VHTT: Văn hóa Thông tin
TDTT: Thể dục thể thao
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
UBND: Ủy ban nhân dân
DSVH: Di sản văn hóa
NTQC: Nghệ thuật quần chúng
CNTT: Công nghệ thông tin
QĐND: Quân đội nhân dân
BQL: Ban quản lý
NVHKDC: Nhà văn hóa khu dân cư
TTVH: Trung tâm văn hóa
TT-LĐ-TT: Thông tin lưu động tuyên truyền
VHVNQC: Văn hóa văn nghệ quần chúng


DANH MỤC BẢNG, HÌNH


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, bởi văn hóa là nền
tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát

triển. Để văn hóa thực sự “là nền tảng xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển” thì công tác quản lý Nhà nước về văn hóa, đặc biệt là
quản lý các hoạt động văn hóa ở cấp huyện, thành thị, cấp cơ sở đã trở nên cấp thiết.
Thành phố Việt Trì - nơi cội nguồn dân tộc, nơi có khu di tích lịch sử Đền
Hùng linh thiêng với nhiều giá trị văn hóa được lưu truyền. Là Thành phố lễ hội du
lịch về với cội nguồn, Việt Trì luôn chú trọng xây dựng một môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, văn minh, chú trọng xây dựng lối sống văn hóa cơ sở. Điều này
được khẳng định khi Trung tâm Văn hóa, Thể thao & Du lịch Thành phố đã được
quan tâm, tạo ra bước phát triển mới, góp phần đa dạng hóa các loại hình hoạt động
văn hóa và làm phong phú đời sống tinh thần cho nhân dân. Công tác quản lý các
hoạt động văn hóa của Trung tâm VHTT&DL Thành phố đã có bước phát triển đột
phá, xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong nhân dân
gắn với phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Những kết quả
đạt được có vai trò quan trọng trong việc cải thiện đời sống của người dân.
Trong thời gian qua, khi đánh giá thực trạng công tác quản lý các hoạt động
văn hóa ở Trung tâm Văn hóa, Thể thao & Du lịch thành phố Việt Trì, bên cạnh
những thành tựu đạt được cũng gặp không ít khó khăn và thách thức. Trong điều
kiện kinh tế thị trường đang phát triển hiện nay, nhiều cơ sở dịch vụ giải trí văn hóa
ra đời và khá phát triển mang tính quy mô, hiện tượng văn hóa lai căng đang diễn ra
tràn lan, làm phần nào mai một các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, điều
này dẫn đến việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của TTVHTT&DL thành phố
Việt Trì ngày càng trở nên khó khăn và cấp thiết. Việc xây dựng các văn bản pháp
luật, các chính sách trên lĩnh vực văn hóa còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, làm hạn
chế trong công tác quản lý Nhà nước về các hoạt động văn hóa tại TTVHTT&DL
thành phố Việt Trì.


8
Vì lý do trên, là một cán bộ công tác trong ngành văn hóa, với mong muốn
tìm hiểu, khảo sát, phân tích, đánh giá chính xác về thực trạng công tác quản lý các
hoạt động văn hóa tại Trung tâm Văn hóa, Thể thao & Du lịch thành phố Việt Trì, từ

đó sẽ đề xuất một số giải pháp đổi mới công tác quản lý các hoạt động tại Trung tâm
trước mắt cũng như lâu dài, để góp phần vào sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa
- xã hội trên địa bàn Thành phố, nên tôi chọn đề tài “Quản lý các hoạt động văn
hóa của Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch thành phố Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhằm nghiên cứu về Quản lý các hoạt động văn hóa nói chung đã được
các công trình từ sách, tạp chí cho tới các luận án, luận văn đề cập nhiều dưới
những góc độ và những quan điểm khác nhau. Có thể kể một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
- Nghiêm Nam Hùng (2012) với “quản lý hoạt động văn hóa của Trung tâm
văn hóa thông tin quận Hà Đông, thành phố Hà Nội”. Đây là một trong số những
luận văn tiêu biểu, được khá nhiều các tác giả sau này tham khảo. Luận văn không
chỉ tập trung nghiên cứu TTVH thông tin quận Hà Đông, mà còn mở rộng phạm vi
nghiên cứu hoạt động của một số TTVH thông tin khác thuộc một số quận trên địa
bàn Hà Nội. Từ những đánh giá, so sánh khách quan thực tế, tác giả không chỉ tìm
ra những mặt mạnh và hạn chế của TTVH thông tin quận Hà Đông, mà còn học hỏi,
tiếp thu được cách thức quản lý hiệu quả của một số trung tâm khác. Nhờ đó, tác giả
đã đưa ra những giải pháp thực tế và mang tính khả thi cao, góp phần đưa TTVH
thông tin quận Hà Đông trở thành một điểm mạnh trong hệ thống TTVH thành phố
Hà Nội.
- Nguyễn Thế Song (2016) với đề tài “quản lý các hoạt động văn hóa tại
Trung tâm văn hóa - thể thao huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình”. Trên cơ sở
nghiên cứu những vấn đề lý luận và qua khảo sát công tác thực tế công tác quản
lý các hoạt động văn hóa của TTVH huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; luận
văn đã bước đầu nêu ra và góp phần tích cực vào phát triển sự nghiệp văn hóa
của địa phương.


9

- Bùi Thị Thu Phương (2016) với đề tài “quản lý hoạt động văn hóa của
trung tâm văn hóa tỉnh Sơn La”. Luận văn đã có cái nhìn toàn diện về công tác quản
lý văn hóa tại Trung tâm Văn hóa tỉnh Sơn La, bao gồm cả mặt mạnh và những hạn
chế tồn đọng, từ đó đưa ra những giải pháp mang tính khả thi, phần nào khắc phục
những khó khăn mà TTVH tỉn Sơn La đang gặp phải.
- Ngoài ra có một số bài viết trên các tạp chí có tính tài liệu nghiệp vụ của
nhà văn hóa Trung ương trước đây và của Cục Văn hóa - Thông tin cơ sở hiện nay
có đề cập tới một khía cạnh của công tác quản lý hoạt động nhà văn hóa dưới dạng
quan điểm hay hướng dẫn nghiệp vụ như: Bùi Quang Thanh (2016) về “quản lý văn
hóa và văn hóa quản lý đối với lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay”; Lê Thị Bích
Thuận (2017) về “vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa hiện nay”.
Cuốn sách Truyền thuyết Hùng Vương của tác giả Nguyễn Khắc Xương (Hội
Văn nghệ dân gian Vĩnh Phú xuất bản năm 1971) ra mắt bạn đọc, thì lần đầu tiên
chúng ta được đọc bằng văn bản tiếng Việt một cách hệ thống các truyền thuyết dân
gian về thời các Vua Hùng lập đô - dựng nước. Dù mức độ thêu dệt các tình tiết và
cốt truyện, cũng như khoảng xác định không gian và thời gian của truyền thuyết có
thực hư đến đâu - ở cuốn sách đó - Nguyễn Khắc Xương đã cung cấp cho chúng ta
một loạt hình dung về văn hoá thời đại các Vua Hùng. Các Vua Hùng đã chọn đất
đóng đô thế nào, dạy dân trồng lúa ra sao, luyện quân ở đâu, đi săn chỗ nào, kén
chồng cho con, dựng kế vị ngoại tộc ở đâu, sao phải dựng cột đá thề….
Kết quả nghiên cứu của các tài liệu sẽ làm tiền đề góp phần làm sáng tỏ về
phương diện lý luận và thực tiễn của quản lý các hoạt động văn hóa, là nguồn tài
liệu tham khảo giúp ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài
luận văn của mình. Bản thân tác giả cũng tham khảo các bản báo cáo tổng kết, sơ
kết hoạt động của Trung tâm văn hóa thành phố Việt Trì, phòng văn hóa thành phố
Việt Trì qua các năm từ 2016 đến 2019 để làm tài liệu tham khảo cho đề tài này.
Hiện nay, tại thành phố Việt Trì chưa có một công trình nghiên cứu riêng biệt
nào về hoạt động của Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch Thành phố. Xuất phát
từ công việc thực tiễn, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài về “quản lý các hoạt động
văn hóa tại Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch thành phố Việt Trì”, với mong



10
muốn có cái nhìn toàn diện về hệ thống văn hóa tại địa phương, từ đó đưa ra các giải
pháp góp phần hoàn thiện và từng bước nâng cao công tác quản lý hoạt động trong hệ
thống thiết chế văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về quản lý các hoạt động văn hóa, tìm hiểu thực
trạng quản lý các hoạt động văn hóa ở thành phố Việt Trì từ năm 2016 đến năm
2019, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý các hoạt động ở địa
phương, cũng như ở Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch thành phố Việt Trì trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề chung về quản lý các hoạt động văn hóa, trong
đó có các khái niệm liên quan đến đề tài và nội dung quản lý các hoạt động văn hóa
truyền thống, tiếp cận từ quản lý nhà nước và tự quản cộng đồng.
- Giới thiệu khái quát các hoạt động văn hóa tại trung tâm văn hóa, thể thao
và du lịch thành phố Việt Trì.
- Khảo sát đánh giá thực trạng quản lý các hoạt động văn hóa tại thành phố
Việt Trì trên hai phương diện: Quản lý nhà nước và tự quản cộng đồng.
- Đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng công tác tổ chức, quản lý các
hoạt động văn hóa tại TTVHTT&DL thành phố Việt Trì.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý các hoạt động văn hóa tại Trung tâm
Văn hóa Thể thao và Du lịch thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác quản lý các hoạt động văn hóa tại
TTVHTT&DL thành phố Việt Trì.

4.3. Thời gian nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các hoạt động quản lý văn hóa từ năm 2016 đến năm
tháng 9/2019.


11
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Khung nghiên cứu

Các yếu
tố ảnh
tới hoạt động quản lý: Nội dung quản lý:
Mục
tiêuhưởng
quản lý:
- Yếu tố
Xác
khách
địnhquan:
các mục tiêu đánh giá các hoạt- Lập
độngkếcủa
hoạch:
Trung tâm, đảm bảo các hoạt động được hoạt động
- Yếu tố chủ quan:
-Tổ chức thực hiện:
- Lãnh đạo
- Kiểm soát:

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh để tìm ra sự khác biệt, thấy được,
đánh giá các mặt tích cực và hạn chế nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý các
hoạt động văn hóa trên địa bàn thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Lịch sử, Văn hóa học, Quản lý văn hóa
để phân tích, luận giải trong cách quản lý các hoạt động văn hóa tại TTVHTT&DL
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống về thực trạng quản lý các hoạt
động văn hóa tại TTVHTT&DL thành phố Việt Trì. Tư liệu của luận văn là cơ sở để
tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên cứu, công tác quản lý các hoạt động văn hóa
tại thành phố Việt Trì.
- Các giải pháp đề xuất trong luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tổ
chức và quản lý các hoạt động văn hóa tại TTVHTT&DL thành phố Việt Trì hiện nay.


12
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung luận
văn gồm có 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý các hoạt động
văn hóa của Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch Thành phố.
Chương 2: Thực trạng quản lý các hoạt động văn hóa của Trung tâm văn
hóa, thể thao và du lịch thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện quản lý các
hoạt động văn hóa của Trung tâm văn hóa, thể thao và du lịch thành phố Việt Trì,
tỉnh Phú Thọ.


13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CỦA TRUNG TÂM
VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH HUYỆN
1.1. Các hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Du lịch huyện
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm về văn hóa
* Khái niệm văn hóa:
Theo Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội của Trường Đại học Kinh tế Quốc
Dân (2007): Văn hóa theo cách hiểu thông thường là toàn bộ của cải vật chất và tinh
thần do con người tạo ra trong quá trình hoạt động xã hội và lịch sử thực tiễn của
dân tộc, nó bao gồm cả văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất.
1.1.1.2. Đặc điểm của văn hóa
Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể
bao gồm: các công trình kiến trúc, hệ thống công sở, công viên, tượng đài, di tích
lịch sử, danh lam thắng cảnh, hệ thống kết cấu hạ tầng kĩ thuật.... Văn hóa phi
vật thể bao gồm: tư tưởng, truyền thống, phong tục tập quán, đạo đức, lối sống,
tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật và công nghệ và rộng hơn nữa
là bao gồm cả những hành động, hành vi, sự sáng tạo và thái độ ứng xử của con
người trong xã hội.
Giá trị của văn hóa được tạo nên từ truyền thống lịch sử, điều kiện tự nhiên
xã hội. Văn hóa là chất keo giúp cho xã hội được gắn bó bền vững, nhờ đó đất nước
có khả năng bảo tồn và phát triển trước các thử thách của lịch sử. Nhờ có văn hóa
mà con người có thể chống trả thắng lợi trước mọi âm mưu xâm lược và nô dịch của
ngoại bang, tiếp nhận và truyền bá được văn hóa của các dân tộc khác góp phần
phát triển đất nước.
Văn hóa đóng vai trò vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa
là hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội cho mỗi quốc gia, đó là công cụ
quan trọng mà nhà nước cần sử dụng để quản lý xã hội. Văn hóa thường được



14
thường được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau, là hoạt động sáng tạo nhằm
phát huy những năng lực của bản chất con người để vươn tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Đây là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị chuẩn mực xã hội, nuôi dưỡng sự hình
thành nhân cách con người. Vì vậy, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của
con người, dù nó là hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần hay trong quan
hệ giao tiếp ứng xử xã hội.
Thứ nhất, hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng tạo, có thể làm ra các sản
phẩm văn hóa mang giá trị lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cho
cuộc sống, con người. Thứ hai, hoạt động văn hóa còn là hoạt động tư tưởng, có khả
năng gây “hiệu ứng” (tốt hoặc xấu) trong xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hóa còn là hoạt
động kinh tế vừa là động lực, vừa là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế.
1.1.2. Phân loại các hoạt động văn hóa của TT VHTT&DL huyện
1.1.2.1. Các đơn vị hoạt động văn hóa của Trung tâm VHTT&DL cấp cơ sở
Ở các Trung tâm văn hóa nói chung chủ yếu có các đơn vị hoạt động văn hóa
như: trung tâm văn hóa; thư viện; bảo tàng; nhà hát; nhà văn hóa.
a. Các Trung tâm văn hóa
Trung tâm văn hóa là một khái niệm văn hóa tổng hợp, đa chức năng, được
chính quyền các cấp thành lập để đảm bảo những hoạt động chuyên môn do Tỉnh,
Thành phố hướng dẫn. Trung tâm văn hóa có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng, có trụ sở, kinh phí hoạt động theo quy định của pháp luật. Trung tâm
văn hóa là nơi phát triển sự nghiệp văn hóa - văn nghệ, tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và các chủ trương của cấp ủy, chính quyền các cấp.
Là cầu nối trực tiếp giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân trong việc tuyên
truyền các nhiệm vụ chính trị thông qua các hoạt động văn hóa nghệ thuật để xây
dựng đất nước ngày một giàu mạnh; có nhiệm vụ hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp
vụ cho cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao ở cơ sở. Trung tâm văn hóa là nơi tổ
chức, cung ứng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa nghệ thuật, nhu

cầu tiếp nhận thông tin, nâng cao dân trí, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
của nhân dân trên địa bàn.


15
b. Thư viện
Từ trước tới nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thư viện tuy nhiên từ
năm 1970 UNESCO đã định nghĩa về thư viện và được xem là định nghĩa đúng và
đầy đủ nhất về thư viện như sau: “Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi của nó, là
bất cứ bộ sưu tập có tổ chức của sách, ấn phẩm định kì hoặc các dạng tài liệu khác, kể
cả đồ họa, nghe - nhìn và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử
dụng các tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, thông tin khoa học, giáo dục hoặc giải
trí”. Ba giai đoạn phát triển của ngành thư viện:
c. Bảo tàng
Theo Luật di sản văn hóa ban hành sửa đổi, bổ sung năm 2013, khái niệm
“bảo tàng” được định nghĩa như sau: Bảo tàng là nơi bảo quản và trưng bày các sưu
tập lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ các nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham
quan và hưởng thụ của nhân dân. Ngoài định nghĩa vừa nêu, còn một định nghĩa
nữa về bảo tàng được đề cập trong quy chế tổ chức và hoạt động của các bảo tàng
do Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành năm 1998, tức là trước 3 năm Luật
di sản văn hóa ra đời, cụ thể: “bảo tàng là một thiết chế văn hóa có chức năng
nghiên cứu và giáo dục khoa học thông qua hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, kiểm
kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền và phát huy tác dụng các di sản lịch sử - văn
hóa và thiên nhiên phù hợp với loại hình, tính chất và nội dung của bảo tàng”.
d. Nhà hát
Theo từ điển Tiếng Việt “Nhà hát” là cơ sở vật chất, tức đơn thuần chỉ là
những cái rạp lớn, nhỏ, nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động văn hóa, biểu diễn
nghệ thuật ca, múa, nhạc, hòa nhạc, giao lưu... Phục vụ công chúng, theo từng nội
dung mục đích, yêu cầu của chương trình nghệ thuật, tương ứng với mỗi loại hình
nhà hát cho phù hợp.

Nhà hát là là một đơn vị có chức năng biểu diễn nghệ thuật có các phòng
ban, vừa quản lý các nghệ sỹ vừa tổ chức xây dựng, cho công diễn các sản phẩm
nghệ thuật phục vụ công chúng, có rạp biểu diễn riêng phù hợp với loại hình nghệ
thuật của mình. Từ đó các nghệ sỹ được thăng hoa, cống hiến cho loại hình nghệ
thuật mà mình yêu thích, say mê, là nơi công chúng gửi gắm cho nhu cầu thưởng


16
thức của mình tới các nhà hát theo từng sở thích riêng của mỗi khán giả với loại
hình nghệ thuật mà công chúng lựa chọn.
e. Nhà văn hóa
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, Nhà văn hóa là “nơi tổ chức sinh hoạt văn hóa
cho đông đảo quần chúng” [51, tr.1228]. Trong tập bài giảng “Quản lý thiết chế văn
hóa” PGS. Nguyễn Hữu Thức: Nhà văn hóa là một thiết chế văn hóa tổng hợp, đa
chức năng được chính quyền các cấp thành lập để đảm bảo những hoạt động chuyên
môn do ngành dọc hướng dẫn, nhằm tuyên truyền giáo dục và cổ vũ động viên nhân
dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Trung ương và địa phương; đồng thời tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia hưởng thụ và sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Nhà văn hóa là một cơ quan giáo dục ngoài nhà trường, ngoài ra Nhà văn
hóa còn là trung tâm tổ chức các hoạt động văn hóa - xã hội có nhiệm vụ để truyền
tải những giá trị văn hóa - nghệ thuật của dân tộc và nhân loại về cho công chúng
hưởng thụ. Đồng thời tạo điều kiện để quần chúng phát triển và sáng tạo ra những
giá trị văn hóa để giữ gìn, bảo lưu và xây dựng các nền văn hóa mới nhằm đáp ứng,
thỏa mãn nhu cầu của môi trường, thời gian rỗi. Nhà văn hóa, ở một số nơi gọi là
trung tâm văn hóa, chính là nơi để nâng cao đời sống tinh thần và hiểu biết về pháp
luật của nhân dân, từ đó giảm thiểu các tệ nạn xã hội, như ma túy, mại dâm, trộm
cắp, vi phạm trật tự an toàn giao thông, vi phạm cảnh quan đô thị,... Đây là loại hình
thiết chế văn hóa được du nhập vào Việt Nam trong những thập niên 50 của thế kỉ
trước từ Liên Xô (cũ) nhằm đẩy mạnh phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng ở
cơ sở.

1.1.2.2. Các loại hoạt động văn hóa của TT VHTT&DL huyện
Đơn vị TT VHTT&DL huyện quản lý nhiều loại hình hoạt động văn hóa đa
dạng do đây là đơn vị cấp cơ sở, tiếp cận trực tiếp với các hoạt động văn hóa trên
địa bàn. Các loại hoạt động văn hóa thuộc quản lý của TT VHTT&DL huyện được
quy định thành 7 nhiệm vụ bao gồm:
- Xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm và tổ chức thực hiện sau khi
được Chủ tịch UBND huyện phê duyệt căn cứ Kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội hàng năm.


17


18
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tuyên truyền, thư viện, đọc sách
báo, giải trí, chiếu phim, câu lạc bộ, nhóm sở thích, lớp năng khiếu nghệ thuật. Tổ
chức các hoạt động thể dục thể thao, hướng dẫn kỹ thuật, phương pháp và điều kiện
tập luyện cho các tổ chức và cá nhân.
- Biên tập và thực hiện các chương trình phát thanh truyền thanh, tổ chức và
phối hợp với các chiến dịch tuyên truyền cổ động trên địa bàn huyện.
- Tổ chức các cuộc liên, hội thi, hội diễn, thi đấu và hướng dẫn phong trào
văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trên địa bàn, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu văn
hóa văn nghệ thể dục thể thao quần chúng.
- Sưu tầm, bảo tồn, hướng dẫn các loại hình nghệ thuật dân gian, các môn thể
thao truyền thống.
- Tổ chức các hoạt động tác nghiệp chuyên môn, các hoạt động dịch vụ văn
hóa thể thao và các hoạt động động dịch vụ khác phù hợp nhu cầu của nhân dân địa
phương, đảm bảo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất
của Trung tâm.
- Hợp tác giao lưu trao đổi chuyên môn nghiệp vụ và các hoạt động trong

lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao với các đơn vị tổ chức trong và ngoài phạm vi
huyện, thành phố.
1.2. Quản lý các hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa, thể
thao và du lịch huyện
1.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản lý các hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn
hóa, Thể thao và Du lịch huyện
1.2.1.1. Khái niệm về quản lý văn hóa
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý văn hóa. Có thể hiểu:
Quản lý về văn hóa được hiểu là công việc của Nhà nước, được thực hiện thông
qua việc ban hành quy chế, chính sách, tổ chức triển khai, kiểm tra và giám sát
việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa; đồng thời
nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương và cả nước. Nhìn
vào thực tiễn không khó để nhận thấy, quản lý văn hóa còn được hiểu là sự tác
động chủ quan bằng nhiều hình thức nhằm đạt được mục tiêu mong muốn (bảo
đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện


19
chất lượng cuộc sống của người dân...).
Trong cuốn Quản lý hoạt động văn hóa của tập thể tác giả Phan Văn Tú và
Hoàng Sơn Cường đưa ra khái niệm quản lý văn hoá như sau: “Quản lý văn hoá
là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành cho văn hoá phát triển không
ngừng theo hướng có ích cho con người, giúp cho xã hội loài người không
ngừng đi lên”.
Từ khái niệm đó, ta có thể xác định được một số đặc điểm của quản lý văn
hoá, đó là: khái niệm văn hoá rộng, đa nghĩa nên quản lý văn hoá không chỉ quản lý
các vật hữu hình mà còn quản lý những cái vô hình như tình cảm, hay tư tưởng của
con người. Trong định hướng chung của Nhà nước, các thành phần văn hoá là tư
nhân, tập thể, đoàn thể, xã hội hay quốc gia đều phải hoạt động theo một chuẩn mực
thống nhất trên cơ sở pháp luật chung, thông qua các chính sách văn hoá xã hội; Giá

trị các hoạt động văn hoá căn cứ chủ yếu vào tính sáng tạo, giúp con người vươn lên
trước những đòi hỏi của xã hội; Quản lý văn hoá không được dựa trên lối tư duy
cứng nhắc dập khuôn mà phải dựa trên hoàn cảnh cụ thể; Quản lý văn hoá không
thể là sự chuyển dịch của mô hình quản lý kinh tế - xã hội.
Quản lý các hoạt động văn hóa chính là một quá trình tổng hợp gồm nhiều
hoạt động khác nhau như: xây dựng kế hoạch, tổ chức, quản lý các chương trình
hoạt động văn hóa ở các đơn vị, cơ quan và các cấp hành chính khác nhau từ cơ sở
đến Trung ương. Đồng thời, quản lý những quá trình thực hành của cá nhân và các
hoạt động xã hội trong việc sản xuất, bảo quản, phân phối giao lưu và tiêu dùng
những giá trị văn hóa tinh thần, nhằm giao lưu những tư tưởng, ý nghĩa và những
tác phẩm văn hóa của con người sinh ra, đó cũng chính là để hoàn thiện chất lượng
sống của con người trong xã hội.
Khái niệm này cũng là cơ sở quan trọng để tác giả vận dụng trong công tác tổ
chức, xây dựng những chương trình, hoạt động văn hóa bổ ích theo đúng chủ
trương, hướng dẫn của cơ quan, lãnh đạo cấp trên.
Chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa là Nhà nước, được tổ chức thống nhất
từ trung ương đến địa phương, quyền quản lý được phân cấp: cấp trung ương, cấp
tỉnh (tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh,


20
quận thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường thuộc quận). Quản lý nhà
nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là chủ thể quản lý. Ví dụ
quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp xã thì UBND xã là chủ thể quản lý nhà nước.
Công chức văn hóa - xã hội xã được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa
giúp UBND xã có thể được coi là chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa trên địa
bàn xã.
Khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan, tổ chức,
cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hóa.
Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: các hoạt

động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng tạo…) và các giá trị
văn hóa (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể). Mặt khác, theo sự phân
công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt động
văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý. Văn hóa giáo dục,
khoa học công nghệ… do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý.
1.2.1.2. Mục tiêu của quản lý văn hóa
Mục tiêu quản lý nhà nước về văn hóa bao gồm những mục tiêu chung và
mục tiêu cụ thể. Hoạt động văn hóa là một dạng hoạt động xã hội quan trọng, tất
yếu phải có sự quản lý của nhà nước, chính vì thế quản lý nhà nước trên lĩnh vực
văn hóa là tất yếu khách quan. Do hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng tạo, là
hoạt động tư tưởng và còn là hoạt động kinh tế, nên quản lý văn hóa là hoạt động xã
hội mang tính đặc thù. Chính vì tính đa năng của hoạt động văn hóa, nên quản lý
trên lĩnh vực văn hóa mang tính đặc thù. Tính đặc thù của quản lý văn hóa không
những thể hiện trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống văn hóa, mà nó còn thể hiện
ở công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở các cấp, từ vĩ mô đến các đơn vị cơ sở.
a. Về mục tiêu chung
Quản lý văn hóa là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa ở từng cấp, từng địa
phương, từng hoạt động cụ thể thì mục đích quản lý nhà nước về văn hóa phải được


21
xác định cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể.


22
b. Mục tiêu cụ thể
Hoạt động văn hóa là tổ chức các hoạt động có mục đích tuyên truyền, giáo

dục về một tư tưởng, lĩnh vực nào đó phục vụ công tác chính trị tư tưởng hay
nghiên cứu khoa học kỹ thuật - lịch sử văn hóa nghệ thuật, được tổ chức theo những
quy chế, nội quy nhất định, được thể chế hóa pháp luật do nhà nước ban hành, được
xã hội công nhận và tuân thủ, có mục đích, yêu cầu và những chức năng riêng được
xã hội quy định. Nhờ các các hoạt động văn hóa đó mà các quan hệ xã hội kết hợp
lại với nhau, đảm bảo cho các cộng đồng hoạt động nhịp nhàng.
Văn hóa có thể được thể chế hóa, được sử dụng như chính sách pháp luật
để điều chỉnh hành vi của con người. Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ
nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp
luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật
phải có khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Con người có văn
hóa luôn kết hợp hài hòa hai yếu tố căn bản gồm: Một là hành vi ứng xử đúng
mực, luôn nhã nhặn lịch thiệp, kính trên nhường dưới, biết tôn trọng thuần phong
mỹ tục, cổ vũ cái tốt và đấu tranh chống cái xấu, có trách nhiệm công dân; hai là
hành động thiết thực nhằm quảng bá lối sống đẹp, có tri thức cao nhưng phải biết
khuếch tán giá trị tri thức với cộng đồng.
Mặc dù văn hóa có thể không thể chế hóa thành luật nhưng cũng giúp điều
chỉnh hành vi đạo đức của xã hội. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được
thực hiện chủ yếu bằng hai phương thức: Một là, sử dụng sức mạnh của dư luận để
động viên, khuyến khích những chủ thể có đạo đức và hành vi tốt đẹp, đồng thời,
phê phán, lên án nghiêm khắc những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến người khác,
đến cộng đồng. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức phải tự nguyện, tự giác điều chỉnh
hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Quản lý văn hóa phải hướng đến mục tiêu là đem lại sự phát triển kinh tế xã
hội cho đất nước. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế là mối quan hệ cơ bản trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Đây là mối quan hệ biện
chứng và đóng vai trò quan trọng trong duy trì sự ổn định kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội... của mỗi quốc gia. Văn hóa phải phát triển trên nền tảng của kinh tế, là mục
tiêu động lực của kinh tế và làm cho xã hội phát triển bền vững.



23
1.2.1.3. Đặc điểm chung và công cụ quản lý văn hóa
Quản lý văn hóa là công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc
ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hoá, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế,
xã hội của từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung.
Trong quản lý văn hóa - xã hội, Nhà nước ban hành các chính sách nhằm ổn
định trật tự xã hội, gìn giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, xây dựng nếp
sống văn hóa mới… Hoạt động xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp
luật về văn bản pháp luật về văn hóa. Chính sách văn hóa được hiểu là tổng thể
những nguyên tắc thể hiện tư tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương
hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa. Chính sách văn hóa đặt ra các nguyên
tắc chung của sự nghiệp phát triển văn hóa phù hợp với mục tiêu phát triển văn hóa
chung của đất nước. Chính sách văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản
lý nhà nước về văn hóa, song chính sách văn hóa không thể thay thế chính sách
pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về văn hóa nhằm phát huy tác
dụng của văn hóa tới sự hình thành nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh
thần của con người.
Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về văn hóa là hiến pháp, luật và các văn
bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp
quy. Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí của nhà quản lý. Cách thức
quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích chứ không phải là việc làm
có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà quản lý, càng không phải là
hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý.
1.2.1.4. Đặc điểm của công tác quản lý văn hóa ở cấp huyện
a. Về quy mô, đối tượng
Về chủ thể quản lý văn hóa ở nước ta, có thể phân chia tương đối: nếu quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa cấp vĩ mô, thì chủ thể là Nhà nước, Quốc hội,

Trung ương Đảng... Còn quản lý văn hóa cấp tỉnh, và thành phố trực thuộc Trung
ương, thì chủ thể là Sở Văn hóa, thể thao & du lịch (trực thuộc văn hóa, thể thao &


24
du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố). Quản lý văn hóa cấp vi mô là là quản
lý cấp huyện, đơn vị thuộc Sở Văn hóa, các doanh nghiệp văn hóa... Như vậy, quản
lý văn hóa cấp thành phố trực thuộc tỉnh, tuy có đặc điểm riêng, nhưng cơ bản
tương đương với cấp huyện về cơ cấu tổ chức bộ máy, là Phòng Văn hóa và thông
tin.
Về đối tượng, quản lý văn hóa ở cấp vĩ mô: các chủ thể định hướng phát
triển, xây dựng, quản lý các chính sách, quy hoạch, chiến lược phát triển sự nghiệp
văn hóa quốc gia. Quản lý văn hóa cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, là
chủ thể thực hiện chính sách, quy hoạch chiến lược phát triển sự nghiệp văn hóa của
địa phương, của ngành. Quản lý cấp vi mô (huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, đơn vị
doanh nghiêp...), là chủ thể căn cứ vào chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ
chung về phát triển văn hóa, thực hiện quản lý nhà nước về các hoạt động văn hóa
trên địa bàn, hoặc lĩnh vực của đơn vị mình.
b. Về mục đích
Trong quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp thành phố ở nước ta, thì quản lý
văn hóa ở những thành phố trực thuộc Trung ương và những thành phố trực thuộc
tỉnh có những đặc điểm giống nhau và khác nhau. Trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và tốc độ đô thị hoá mạnh như hiện nay, công tác quản lý văn hoá ở
các cấp, đặc biệt là cấp thành phố trực thuộc tỉnh đang là vấn đề đặt ra có tính cấp
thiết. Quản lý nhằm thực hiện chính sách văn hóa phát huy truyền thống yêu nước
và cách mạng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao
chất lượng toàn diện xây dựng và phát triển nền văn hóa với đặc trưng tiêu biểu là
dân tộc, khoa học, hiện đại, dân chủ và nhân văn sâu sắc.
Quản lý văn hóa nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế, kế thừa và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng

đồng các dân tộc, tích cực và chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của cư dân đô thị trong xu thế ngày càng chủ động hội nhập quốc tế,
xây dựng con người và lối sống văn hóa, đời sống văn hóa và môi trường văn hóa
lành mạnh.Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở các thành phố
thuộc tỉnh cũng nhằm khắc phục những bất cập, yếu kém trong công tác quản lý văn


25
hóa trước đây. Quản lý văn hóa hiệu quả không những tạo điều kiện để người dân
tiếp thu các giá trị văn hóa mới, mà còn nhằm chống lại các phản văn hóa.
1.2.2. Nội dung quản lý các hoạt động văn hóa của Trung tâm Văn hóa, Thể thao
& Du lịch huyện
1.2.2.1. Lập kế hoạch hoạt động
a. Khái niệm và vai trò của lập kế hoạch hoạt động văn hóa
Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình thời
gian, có thời hạn, nguồn lực thực hiện, ấn định những mục tiêu cụ thể sẽ đạt được
và xác định biện pháp tốt nhất… để thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề
ra. Lập kế hoạch hoạt động là một nhiệm vụ không thể thiếu của nhà quản lý để
thực hiện chức năng quản lý công việc. Một bản kế hoạch tốt sẽ giúp dễ dàng hơn
trong điều hành công việc và ngược lại, nếu không biết cách xây dựng bản kế hoạch
công việc hiệu quả sẽ không cao.
Việc xây dựng kế hoạch cho Trung tâm văn hóa thể thao và du lịch huyện
kiểm soát được hoạt động của trung tâm, tư duy có hệ thống hơn để xây dựng mục
tiêu trước mắt và lâu dài, phối hợp được nhiều nguồn lực hữu hiệu hơn để phát triển
hoạt động văn hóa của Trung tâm trong các điều kiện và sự kiện cụ thể. Bên cạnh
đó, khi lập kế hoạch Trung tâm VHTT&DL sẽ giảm được sự chồng chéo, giảm
những hoạt động lãng phí. Khi có kế hoạch hoạt động, Trung tâm VHTT&DL sẽ
phối hợp được với các cơ quan khác, các sở ban ngành, các đoàn thể cùng vào cuộc
để hoạt động có quy mô hơn, có chiều sâu hơn và được thực hiện một cách tốt nhất.

b. Các loại kế hoạch hoạt động
Quản lý các hoạt động văn hóa đươc thể hiện qua việc lập kế hoạch hoạt
động hàng năm của Trung tâm văn hóa, thể thao & du lịch huyện về một số nội
dung cơ bản như sau:
- Các hoạt động tuyên truyền, cổ động tại cơ sở: Tuyên truyền, cổ động là
hoạt động có mục đích của một chủ thể (trung tâm VHTT&DL huyện) nhằm truyền
bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những tri thức, giá
trị tinh thần, tư tưởng đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành
động theo những định hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Đối tượng được tuyên


×