Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tai lieu on tap mon triet hoc lop trung cap ly luan chinh tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.96 KB, 47 trang )

Câu 1: Đề ra đường lối đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh “Đảng phải luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”.
Anh (chị) hãy phân tích cơ sở triết học và cơ sở thực tiễn của bài học trên và ý
nghĩa của nó trong thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay?
Bài làm:
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm n ền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đ ề ra
đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý
luận của triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng
bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên tắc đ ược rút
ra t ừ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã
viết: “Đảng ph ải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức đ ể vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là vấn đề
hết sức cần thiết đối với Đảng viên.
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Khái niệm
Vật chất theo quan điểm triết học Mác Lênin “là một phạm trù triết học đúng đ ể
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực t ại
khách quan (tồn tại khách quan) là một nội dung cơ bản trong định nghĩa vật chất của
Lênin, đó là sự tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần linh, thượng đế sinh ra,
không phải do ý thức chức quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại, vận
động, chuyển hóa và phát triển theo những quy luật vốn có của bản thân các sự vật, hiện
tượng, dù con người có muốn, có biết hay chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn tồn
tại.
Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện
tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có t ổ chức đ
ặc biệt là bộ óc của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài


vào bộ óc của con người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và đ ược hi ện th
ực hóa bằng ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Giữa vật
chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đ ối với vật chất.
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn s ản
sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết đ ịnh nội dung và xu h
ướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc
của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, cơ
quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não ng
ười, t ạo thành ngu ồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt
1


động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự
nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức.
Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế gi ới khách quan vật chất là đối
tượng, khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình thức, khả năng và quá trình vận
động của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh v ật ch ất, sức mạnh cải
tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các
điều kiện phương tiện vật chất cần thiết cho hành động.
Tuy nhiên, mặc dù do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức l ại có tính đ ộc l ập
tương đối. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh của ý thức đ ối v ới v
ật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động chứ không thụ động máy móc nguyên si. S ự
phát triển của ý thức là một quá trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những
hiểu bi ết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và
phát triển sự vật và qua đó sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò đ ịnh hướng cho con
ng ười trong vi ệc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các
phương án, hành đ ộng t ối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm
biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra.

Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng : Một là
ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng
hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí đ
ộng cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực ti ễn.
Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật
nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học,
phản động, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự
tác đ ộng của ý th ức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh
ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
1.3. Ý nghĩa, quy luật khách quan
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, một nguyên tắc được rút ra, đó
là nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, “ph ải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Nguyên
t ắc này đòi h ỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ chính bản thân
sự vật với những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách
quan, phải có thái độ tôn trọng sự thật, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm
chính sách, không đ ược l ấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược
cách mạng. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan
điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát
phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đ ạt
t ới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc
tìm ra nh ững bi ện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất
của sự vật, trên cơ sở đó thực hiện việc biến đổi từ cái “vật tự nó” thành cái phục vụ cho
nhu cầu lợi ích của con người Trong thực tế nhận thức và hoạt động của con người, nếu
chúng ta tuyệt đối hóa một trong hai mặt của vật chất và ý thức thì sẽ có những sai lầm
2



và rơi vào một trong 2 bệnh : chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý
chí là khuynh hướng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan quá đề cao,
cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa r ời hi ện th ực khách quan, bất chấp
quy luật khách quan, điều kiện khách quan, lấy nhi ệt tình cách mạng thay thế cho sự
yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội áp đặt ý chí vào thực tế khi định ra chủ tr ương chính
sách. Ngược lại với bệnh chủ quan duy ý chí là bệnh bảo thủ trì trệ. Đây là tình trạng ỷ
lại, dựa dẫm, chờ đợi, ngại đổi mới thẩm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với
cái đã có do khuynh hướng cường điệu vai trò quyết định của vật chất, sùng bái sức
mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan.
2. Cơ sở thực tiễn và ý nghĩa
Trước đổi mới, ta phạm những sai lầm nào?
Bệnh chủ quan duy ý chí và là bệnh bảo thủ trì trệ là một sai lầm của Đảng ta tr ước
thời kỳ đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Đánh giá về mức đ ộ sai l ầm do
chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đ ảng đã
“nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục
tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan
duy ý chí và bảo thủ trì trệ, Đảng đã có những sai lầm nghiêm trọng và kèo dài về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện trong giai đoạn này,
vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện
ĐH Đảng lần VI đánh giá nh ư sau : “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện
nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm
vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình
độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây d ựng công nghiệp nặng mà không chú
ý phát triển công nghiệp nhẹ”.
Trên thực tế, do việc đầu tư cơ sở sai và tràn lan, không có cơ sở khoa học, không
phù hợp với điều ki ện thực tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác
nguồn vốn đ ầu tư không hi ệu quả, nhiều công trình đầu tư dở dang và thậm chí không
đủ nguyên liệu đ ể đ ưa vào hoạt động (cụ thể như đầu tư nhà máy đường đều khắp các

tỉnh nhưng có tỉnh không đủ nguyên vật liệu để cung cấp cho nhà máy hoạt động).
Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí trong việc dùng kế hoạch pháp lệnh đ ể chỉ huy
toàn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan ni ệm gi ản đ ơn
về ch ủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ trương
sai trong vi ệc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế
trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính
đến điều kiện khả năng thực tế ” nên dẫn đến việc SX chậm phát triển, mâu thuẩn giữa
cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi
phạm những quy lu ật khách quan của nền kinh tế SX hàng hóa (quy luật cung cầu quy
luật giá trị, quy lu ật c ạnh tranh, phá sản …).
Tóm lại, việc bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của
phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa ... vào việc chế định các chủ trương
3


chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm trọng.
Nguyên nhân của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ mà Đảng ta mắc phải
có nguyên nhân khách quan nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan Đó là sự y ếu
kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn. Đó là việc hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý ti
ếp thu k ế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân
loại, thậm chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa
chú ý t ổng k ết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và lý luật suông.
Bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con
người chi ph ối. Những nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do xuất phát điểm
của nước ta quá thấp, nền SX nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh
kéo dài ảnh hưởng rất l ớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn
làm cho đội ngũ cán bộ - đ ảng viên không có điều kiện để học tập nên trình độ KH

công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đ ủ những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ
chế quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo tưởng, “kiêu ngạo cộng sản… cũng tạo điều
kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ.
 Văn kiện Đại hội VI của Đảng rút ra bài học và vận dụng thực tiễn vào cách
mạng VN:
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đại hội Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài
học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đ ảng
” (Văn kiện Đại hội Đảng lần VI trang 30). Đây là sự vận dụng đúng đ ắn nguyên t ắc
khách quan, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan v ốn
có c ủa nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công
cuộc xây d ựng đất nước ta từ sau ĐH Đảng lần VI Đại hội Đảng lần VI đã xác định xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm
xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng v ội làm trái quy luật.
Văn kiện Đại hội xác định: " Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá đ ộ lên chủ
nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận,
hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không
chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển
không đ ồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ". Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều
chỉnh lại theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và
khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục
tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất
khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc
bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra
4



sản phẩm hàng hóa. Về cơ chế quản lý kinh tế, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị
trường được đưa vào Nghị quyết một cách rõ ràng "Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước" (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội : ). Cơ chế quản lý kinh tế được Đại hội VI xác định : "Tính kế hoạch là
đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử
dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý
kinh tế". Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh
thương nghiệp và xây d ựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và
dịch vụ ngân hàng, hoạt đ ộng theo ch ế đ ộ hạch toán kinh tế. Vấn đề phân phối đã
được chú trọng hơn trong quan hệ SX bằng vi ệc thực hi ện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh t ế là chủ yếu, đồng thời dựa trên
mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông
qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong t ừng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện
cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất. Văn
kiện Đại hội chỉ rõ: "Đ ể phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành
phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất đ ịnh
trong xã h ội, nh ưng ph ải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến
khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo".
Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đ ầu t ừ vi ệc Đ ảng
phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức
đúng và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Đồng thời với
việc đổi mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán
bộ KHKT, đ ội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết
cái mới, không ng ừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu,
bước đi, đ ổi mới và ki ện toàn t ổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị … là những biện pháp nhằm t ừng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ

quan duy ý chí.
Với những đường lối, chủ trương trên của Đảng, Nhà nước đã cụ thể hóa bằng nhiều
nghị quyết và chính sách phù hợp và khi tri ển khai thực hi ện đã có tác dụng rất lớn
trong việc thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của người dân : đó là Ngh ị quyết 168
về chuyển đổi cơ cấu SX, các chính sách đất đai cho người dân tộc, chính sách tái định
cư, chính sách cứu đói giảm nghèo ... đồng thời với thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở và
việc tôn vinh các cá nhân, tập thể có hi ệu quả năng suất lao đ ộng cao, làm kinh tế
giỏi ... đã thực sự khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của cá nhân,
tập thể và nhân rộng những mô hình SX, kinh tế tiên tiến
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước đ ược ổn định và
nâng cao, các ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát tri ển mạnh, tỷ lệ hộ đói
nghèo giảm mạnh từ 20% xuống còn 11%, tăng trưởng kinh tế tăng và giữ mức ổn định,
thu nhập của hộ thành thị tăng từ 10 triệu/năm lên 50 triệu/năm, chế độ XHCN ngày
càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những
5


bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tóm lại, từ những
phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên một nền tảng tư
tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó sự quán
triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là đi ều ki ện đ ảm bảo sự dẫn
dắt đúng đắn của Đảng

6


Câu 2: Vai trò của thực tiễn đối với lý luận, nhận thức? Ý nghĩa phương pháp
luận? Liên hệ trong việc khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều ở cán bộ
hiện nay?

Trả lời
- Khái niệm thực tiễn:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt
động tinh thần. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng
siêu nhiên là thực tiễn. Có nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng: hoạt động thực
nghiệm khoa học là thực tiễn. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho thực tiễn là hoạt động vật chất - cảm tính, mang
tính lịch sử, có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Từ quan niệm
này của triết học duy vật biện chứng về thực tiễn, chúng ta thấy thực tiễn có ba đặc
trưng sau:
Một là, thực tiễn không phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những
hoạt động vật chất - cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công
cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi
chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, đắp đê, cày ruộng, …
Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động
thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo
người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định.
Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và
xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của
hoạt động thực tiễn.
Có ba hình thức thực tiễn cơ bản:
Một là, sản xuất vật chất. Đó là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người.
Hai là, những hoạt động chính trị-xã hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng
dân tộc, mít tinh, biểu tình ...
Ba là, hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức đặc biệt, bởi lẽ trong thực
nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng
thành tựu khoa học, công nghệ vào nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó, sản xuất
vật chất đóng vai trò quyết định, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất

vật chất.
- Khái niệm lý luận:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang
tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống,
nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có những đặc trưng:
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ.
7


Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có trí
thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất, hiện tượng.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động
thực tiễn con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy
luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp « vật
liệu » cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức. Chính việc đo đạt
ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp - La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý
Talét, Pitago... ra đời.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách
khác, thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức
phát triển.
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan cho con người. Chẳng hạn, thông qua
các hoạt động sản xuất, chiến đấu, sáng tạo nghệ thuật... những cơ quan cảm giác như
thính giác, thị giác... được rèn luyện. Các cơ quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ
sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu

quả hơn như kính thiên văn, máy vi tính... đều được sản xuất, chế tạo trong sản xuất vật
chất. Nhờ những công cụ máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính xác hơn,
đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó, thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối
bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay từ tưở mông muội, để sống, con người phải tìm
hiểu thế giới xung quanh, tức là để sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ
khi con người xuất hiện trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu
thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá
trị của tri thức - kết quả của nhận thức.
Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa
thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Theo triết
học duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Bởi lẽ chỉ có
thông qua thực tiễn, con người mới vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư
tưởng. Thông qua quá trình đó, côn người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính
tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai
đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ
sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát
triển. Cho nên, khi thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp.
8


Nghĩa là những tri thức đã đạt được trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm
thông qua thực tiễn.
- Khái niệm Nhận thức: là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế
giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri
thức về thế giới khách quan. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức. Quan

điểm này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con
người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; coi
nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt
động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức
được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng. tích cực, tự giác và
sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến
nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện sâu sắc, toàn diện hơn, ...
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực,
mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình. Đó là quá trình đi
từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức
thông thường đến trình độ nhận thức khoa học, ...
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các
sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học. Kết quả
của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại là tri
thức kinh nghiệm thông thường và những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri
thức đó có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trìu tượng, có tính hệ thống trong
việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau
nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh
nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu
phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn, tạo thành cơ sở hiện
thực đề kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý
luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ chỉ dừng lại ở sự mô tả,
phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do
đó, nó chỉ dem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh

được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Vì
vậy, nhận thức kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thế chứng minh được đầy đủ tính tất
yếu. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận
thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc
lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự
hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để
phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con nsười, thông
9


qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành
cái khái quát, có tính phổ biến.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực
tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra
với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với
những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ
biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách từ giác và gián tiếp
từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự
phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgích. Đó là cái khái niệm, phạm trù và các
quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lạ
vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các
phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học
để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận
thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời
đại khoa học và công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất
của quá trình nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận

thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã
chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông
thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất
của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển
thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát
đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó
lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường,
làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình
con người nhận thức thế giới.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu
cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính
con người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới
nên con người tất yếu phải tác động vào các sự vật, hiện tuợng bằng hoạt động thực tiễn
của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tuợng bộc lộ những thuộc tính,
những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận
thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của
thế giới. Trên cơ sở đó hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn của con người cần phải đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của
những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và
phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít ở những năm 40 của thế kỷ XIX cũng
10


bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây, nhất
là khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ
nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác

những tiềm năng bí ẩn của con người... Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực
tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng
dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa
rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của minh. Cùng vĩ thế,
chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nếu
nó xa rời thực tiễn.
- Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhờ những đặc trưng
ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động
thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của con người
góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn.
Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng
để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động
thực tiễn chủ động, tự giác, giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực
tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát
từ thực tiễn của địa phương, của ngành và đất nước.
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển
lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn
kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm
(khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, coi thường,
hạ thấp lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa
lý luận, coi thường và hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của
người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác không tính đến điều kiện thực tiễn
cụ thể của mình).

Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với
làm”, tránh nói một đằng, làm một nẻo; nói nhiều làm ít; nói mà không làm...
Trong quá trình xây dựng, chúng ta đã gặt hái nhiều thành tựu đáng khích lệ, đưa đất
nước lên một vị thế mới, trở thành một đối tác quan trọng, một người bạn đáng tin cậy
đối với nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên, trong quá trình đấu tranh cải tạo, xây dựng xã hội mới, đôi lúc chúng ta
mắc phải những sai lầm. Đôi khi chủ quan duy ý chí, rơi vào bệnh giáo điều, đề cao lý
luận; lý luận không bám sát thực tiễn hoặc nóng vội đốt cháy giai đoạn một cách thiếu
11


biện chứng. Vì thế, có giai đoạn, kinh tế đất nước trì trệ, chậm phát triển, đời sống khó
khăn, nhất là từ sau 1975 đến trước Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VI năm 1986.
Cũng có lúc, không ít cán bộ, đảng viên quá đề cao thực tiễn, xem nhẹ lý luận, sa
vào chủ nghĩa kinh nghiệm, tự mãn, thiếu sáng tạo, chậm bắt nhịp cuộc sống và xu thế
vận hành, phát triển chung của thời đại, đẩy đất nước đến nguy cơ tụt hậu.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những vận động và biến đổi nhanh
chóng của thế giới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn. Từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI trở
đi, Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự chú trọng đến hiệu quả của hoạt động thực tiễn,
đúc kết lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, nắm bắt kịp thời xu thế của thời đại, xây dựng
những đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng, tạo
những bước tiến quan trọng, chủ động hội nhập với thế giới.
Liên hệ trong khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều ở cán bộ
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu hóa vai trò của lý luận, coi
nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Biểu hiện:
(1) Nắm lý luận chỉ dùng ở câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cú”, không nắm được
thực chất khoa học của lý luận, không tiêu hóa được kiến thức sách vở; (2) Coi những
nguyên lý, lý luận như những tín điều, không thấy được sức sống của lý luận là ở chỗ

phải luôn sửa đổi, bổ sung, phát triển trên cơ sở thực tiễn mới; (3) Vận dụng lý luận và
những kinh nghiệm đã có một cách rập khuôn, máy móc, không tính đến điều kiện lịch
sử - cụ thể, đến trình độ của thực tiễn. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là không biết
vận dụng lý luận vào thực tế, không biết đem lý luận ra thực hành. Đúng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lý giải “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý
luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường
lý luận khoa học. Biểu hiện: (1) Thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, ngại học
lý luận, không chịu khó nâng cao trình độ lý luận; (2) Tiếp xúc với lý luận ở trình độ tư
duy kinh nghiệm từ đó đơn giản hóa, thông tục hóa, kinh nghiệm hóa lý luận, cố gắng
“đẽo gọt” lý luận cho vừa với khuôn khổ, kích thước kinh nghiệm của mình; (3) Coi
thường lý luận, không tin vào lý luận và không chịu khó vận dụng lý luận vào thực
tiễn. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm cũng là do không hiểu, không thấy được vai
trò to lớn của lý luận khoa học đối với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn chứng: “Có
những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những
anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ
quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn
nhiều. Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ
phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng
như một mắt sáng, một mắt mờ.”.
Cách khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là tuân thủ nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức và hành động với các yêu cầu cơ bản: (1)
Phải nhận thức đúng vai trò của lý luận, nắm bắt hệ thống lý luận khoa học, đặc biệt là
12


tinh thần và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm
chắc lý luận của các khoa học cơ bản và khoa học chuyên ngành; (2) Phải vận dụng lý
luận vào thực tiễn một cách sáng tạo; (3) Khi thực tiễn thay đổi thì lý luận cũng phải

thay đổi theo; (4) Phải tích cực tu dưỡng, rèn luyện để có đủ các điều kiện về phẩm chất
và năng lực để thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; (5) Phải có quan điểm thực tiễn
đúng đắn, tích cực hoạt động thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tích cực sơ, tổng kết thực
tiễn để rút kinh nghiệm, phát triển lý luận.

13


Câu 3: Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất? Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam?
TRẢ LỜI
1. Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
1.1. Khái niệm:
 Lực lượng sản xuất là gì?
+ Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung
vật chất, kỹ thuật, công nghệ,… của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải
biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai
trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
+ Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong
đó, công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của
con người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan
trọng).
Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì,
tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi con
người)
 Quan hệ sản xuất là gì?
+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ
giữa người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội).

+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình
sản xuất đó.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ thống nhất và chi phối, tác
động lẫn nhau trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.
 Trình độ của lực lượng sản xuất là gì?
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, ở trình
độ kĩ năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản
xuất…ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình độ của lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cụ thể:Tương ứng với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt
của nó.Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển, do yêu
cầu phát triển của sản xuất vật chất khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển lên
một trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo cho phù hợp tạo
động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.2. LLSX quyết định quan hệ sản xuất (phân tích)
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó
14


quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó,
tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất
phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa
người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển
hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản

xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm
lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất
tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã
viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay
các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản
xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội".
1.3. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lượng sản xuất (phân tích)
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao
động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa
học và công nghệ, v.v... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu
hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay
thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức
và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu
tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát
triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ,

chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự
tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
* Khi nào thì một quan hệ sản xuất được coi là phù hợp (hay không phù hợp) với
trình độ của lượng sản xuất (giải thích)
15


LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất, có mối quan hệ biện chứng
lẫn nhau hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ
của LLSX. LLSX luôn luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối ổn định . Khi
LLSX phát triển lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp với nó nữa , trở thành
chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt
của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình
độ mới của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.Việc xóa bỏ
quan hệ sản xuất cũ , thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt
vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất
mới.Trong xã hội co giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan
hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là
tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội .
2. Liên hệ với thực tế Việt Nam?
 Trước đổi mới: QHSX và LLSX ?
Trước đây, nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất
thấp kém, trình độ quản lí thấp với nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, tự túc. Hơn nữa,
nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến trải qua hai cuộc đấu tranh, nhiều lần bị
đế quốc Mĩ bao vây nền kinh tế vì vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát
triển.Sau khi giành được chính quyền,nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, lực lượng
sản xuất chưa phát triển, chủ yếu với tư liệu lao động thô xơ, lực lượng lao động còn
thấp kếm, tụt hậu, không động đều… trước yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nước ta

đã vứt bỏ hết các yếu tố tư bản chủ nghĩa với quan niệm tư bản chủ nghĩa là xấu,không
áp dụng nó chỉ cho tồn tại những quan hệ chủ nghĩa xã hội,nước ta xóa bỏ nhanh chế độ
tư hữu chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể lúc đó được
coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không
mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém
thì quan hệ sản xuất lại quá phát triển,phát triển với mức độ cao, đã để lại hậu quả
là:kinh tế kiệt quệ,nguy cơ nghèo đói tăng cao,việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư
liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng,
người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, không làm chủ được qúa trình sản xuất,
phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn
đến tư liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể, kinh tế quốc doanh thiết
lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn
dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất
và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn lương,
chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng và chất lượng lao động
của từng cá nhân đã đóng góp…dẫn tới tình trạng đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động,
sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai
chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ
16


với kết quả hoạt động của mình, sinh ra tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người
có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
 Từ khi đổi mới: QHSX và LLSX?
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu thế
của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên
phải trải qua thời kỳ quá độ.Đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta thực hiện chính sách từng

bước đổi mới đất nước,đưa đất nước phát triển tiến lên mục tiêu đã đề ra. Tại Đại hội
lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những
bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức
tăng trưởng cao. Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới
nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Điểm nổi lên
là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng yếu mà chúng
ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên cũng không
phải đạt được kết quả ngay tức thì,mặc dù lực lượng sản xuất của nước ta không ngừng
phát triển, trình độ của người lao động không ngừng được nâng lên công tác giáo dục và
đào tạo được chú trọng… nhưng chưa đúng yêu cầu của thời kì đổi mới, không có tính
cạnh tranh.Tư liệu sản xuất tuy phát triển song vẫn còn thấp kém, lạc hậu, không đều,sở
hữu tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo. Nhưng Đảng và Nhà nước
nhạy bén trước thời cuộc khắc phục tình hình,với việc đưa ra quan hệ sản uất bằng con
đường đúng đắn với cơ chế tồn tại nhiều thành phần kinh tế do đó tồn tại cùng một lúc
nhiều quan hệ sản xuất khác nhau tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau,
với lực lượng sản xuất thấp kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất
không đồng đều, khắc phục tình trạng lực lượng sản xuất thấp kém lại sử dụng quy luật
quan hệ sản xuất quá cao hoặc không phù hợp diều này hợp quy luật bước đầu vận dụng
đúng quy luật.
 Hiện nay ?
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì
phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một
thành phần rất năng động, hiệu quả Trong suốt quá trình đổi mới hơn 30 năm qua, Ðảng
ta không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất.
Ðó là một quá trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian qua đã

đạt được những thành tựu to lớn: 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá
trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất Giai đoạn 2005-2010: Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5
17


năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng
số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và
gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD,
gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%.
GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD, chỉ số HDI đã liên tục tăng cao.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ,
ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển
mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. Hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển
khá, đáp ứng yêu cầu trước mắt và tọa được những năng lực gối đầu cho thời kì sau. Cơ
sở vật chất của các ngành giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ , y tế, văn hóa,
thể duc thể thao…đều được tang lên đáng kể.Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước
phát triển mới cả về quy mô, chất lượng hình thức và cơ sở vật chất, chất lượng giáo
dục – đào tạo từng bước chuyển biến phát triển Vấn đề việc làm và đời sống của nhân
dân được giải quyết có nhiều hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai
mạnh mẽ, rộng khắp nhất là ở các vùng cao, xã nghèo, đạt được kết quả tốt.Đời sống
nhân dân của người vùng cao được cải thiện rõ rệtCác công tác xã hội ngày càng nhiều,
được mở rộng và đạt được những kết quả tốt Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật,
chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan
trọng. Đạt được những thành tựu như trên là do Đảng và Nhà nước ta vận dụng đúng
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước

ta đem lại.

18


Câu 4: Phân tích nội dung, cơ chế biểu hiện và chức năng của quy luật giá trị? Vận
dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta hiện nay?
1. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở
đâu có trao đổi, sản xuất hàng hoá thì ở đấy có sự hoạt động của quy luật giá trị. Khi
đạt dến trình độ kinh tế thị trường thì quy luật giá trị vẫn tiếp tục chi phối và điều
tiết nền kinh tế.
Quy luật giá trị yêu cầu: sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên theo
nguyên tắc ngang giá trị, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong
trao đổi hàng hóa với nhau, hai bên trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau còn lượng
giá trị là bằng nhau. Hai hàng hóa được trao đổi trực tiếp với nhau theo một tỷ lệ
nào đó có nghĩa là chúng kết tinh một lượng lao động bằng nhau.
Khi có sự xuất hiện của tiền để mua, bán thì giá cả hàng hóa cũng vẫn
phải dựa trên cơ sở giá trị của nó. Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến
đổi lên, xuống của giá cả của hàng hoá trên thị trường. Nếu sức mua đồng tiền
không đổi, không có sự điều tiết của nhà nước và không bị chi phối bởi tình trạng
độc quyền thì sẽ xảy ra ba trường hợp:
- Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
- Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
- Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị
Giá cả hàng hóa dưới tác động của quan hệ cung-cầu có thể cao hay thấp hơn
giá trị của chính nó nhưng tổng giá cả luôn luôn bằng tổng giá trị.
2. Tác động của quy luật giá trị
-Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Quy luật giá trị tự động điều tiết sản xuất thể hiện ở chỗ thu hút vốn (tư liệu

sản xuất và sức lao động) vào các ngành sản xuất khác nhau (theo sự biến động
cung, cầu, giá cả) tạo nên cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và đáp ứng nhu cầu của xã
hội.
Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ, nó
thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Do đó, góp phần làm
cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
-Kích thích ứng dụng tiến bộ, nâng cao năng suất lao động
19


Người sản xuất có lãi hay không là do giải được bài toán giảm hao phí lao
động của mình tới mức thấp hơn so với hao phí lao động xã hội.
Muốn vậy, những người sản xuất hàng hóa phải ứng dụng tiền bộ khoa họckỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm, tăng
năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Quá trình này diễn ra liên tục sẽ làm cho
lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
-Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu, người nghèo
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động
xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư
liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh với quy mô lớn hơn, trở nên giàu có hơn.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá
biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, phá
sản, trở thành người lao động làm thuê.
Sự phân hóa như thế là một trong những tiền đề cho sự ra đời của phương
thức sản xuất TBCN.
3. Vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta hiện nay
Quy luật giá trị có tác động hai mặt cả tích cực và tiêu cực. Trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cần vận
dụng các mặt tích cực của quy luật đồng thời phải hạn chế những mặt tiêu cực của nó.
*Vận dụng mặt tích cực của quy luật

- Đối với vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước”. Để thực hiện điều này, khi vận dụng quy luật giá trị trong
vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước, cần phải tôn trọng và phát huy vai trò tự điều tiết
của quy luật giá trị. Nhà nước phải chuyển từ vai trò can thiệp trực tiếp như trước đây
sang hỗ trợ, tạo thuận lợi hóa và quản lý phát triển, trong đó chú trọng bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo lập các cơ hội kinh doanh và khởi nghiệp; thiết lập khuôn khổ pháp
luật, chính sách và bộ máy thực thi nhằm đảm bảo các loại thị trường liên tục được hoàn
thiện, hoạt động minh bạch, hiệu quả và cạnh tranh công bằng.
- Đối với các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế nước ta:
Trong nền kinh tế của nước ta hiện nay, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Tham gia vào nền kinh tế hàng hóa buộc các chủ thể phải năng động trong sản xuất
kinh doanh, phải tìm cách tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất để hạ giá
thành sản phẩm; phải tìm đến ngành hoặc lĩnh vực mà mình có lợi thế, đến mặt hàng
nhiều người cần, tức phải nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh tế.
20


Quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh với nhau, điều này làm
cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng có hiệu quả, kích thích tiến bộ kỹ thuật và
công nghệ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật giá trị còn có tác dụng bình tuyển người sản xuất, nhờ đó chọn ra được
những người năng động, tài kinh doanh, biết làm giàu, đồng thời buộc người kém cỏi
phải vươn lên, tích cực hơn nếu không muốn trở thành người nghèo khó.
* Hạn chế mặt tiêu cực của quy luật
Sự vận động của quy luật giá trị cũng đưa đến những tác động tiêu cực mà tự nó

không thể khắc phục được, dẫn đến các tổn hại mà xã hội khó chấp nhận: phân hóa giàu
- nghèo, người giàu có thể áp chế người nghèo bằng trao đổi hàng hóa bất công bằng.
Kinh tế thị trường tự phát cũng dẫn đến tàn phá môi trường sống chung đó là tình trạng
khai thác cạn kiệt tài nguyên, làm mất cân bằng sinh thái và gây ô nhiễm môi trường;
gây ra những cú sốc cung - cầu, khủng hoảng kinh tế và các căn bệnh kinh tế như đình
trệ, suy thoái, lạm phát tiền tệ… làm cuộc sống trở nên quá bấp bênh.
Để hạn chế các mặt tiêu cực này, với vai trò điều tiết nền kinh tế, Nhà nước phải xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
lành mạnh; Kinh tế nhà nước với các nguồn lực, công cụ, chính sách của mình chủ đạo
trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế,
kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến lược và bảo vệ môi trường; Đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, Kiên quyết đấu tranh
với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận
thương mại…; Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa
xã hội, thực hiện công bằng xã hội, Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an
toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực
hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp, thực hiện chương trình xóa
đói, giảm nghèo…
Đối với các chủ thể kinh tế cần tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật, thực hiện
cạnh tranh lành mạnh, Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động,
nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi
của người lao động…
Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận
động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, nhằm khai
thác đối đa mặt tích cực, lợi thế của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế, khắc phục
mặt trái, khiếm khuyết của nó, phục vụ lợi ích của mọi người dân, hướng đến thực hiện
các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.


21


22


Câu 5. Sản xuất hàng hóa xuất hiện từ những điều kiện nào và có ưu điểm gì so với
sản xuất tự cung, tự cấp? Trên cơ sở đó hãy làm rõ tính tất yếu và những vấn đề cần
khắc phục trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam?
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người và được làm ra với mục đích là để bán hoặc trao đổi. Có nhiều cách phân loại
hàng hóa như: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi vật thể; hàng hóa hữu hình, hàng hóa
vô hình…Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất, mà trong đó sản phẩm làm
ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi,
mua-bán. Kiểu sản xuất như thế chỉ có thể xuất hiện khi có đủ hai điều kiện như sau:
Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự
chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản
xuất khác nhau. Mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc vài thứ sản phẩm nhất
định, nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi họ phải tiêu dùng nhiều loại sản phẩm khác
nhau, do đó, họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Nhờ có phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất mà năng
suất lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để trao đổi và tiêu dùng. Phân
công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở
rộng hơn, đa dạng hơn.
Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản xuất
độc lập nhất định. Sự tách biệt này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử do do sự đa dạng

về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất hoặc do có sự tách biệt tương đối giữa quyền
sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt này làm cho người
này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán
hàng hóa.
Để đạt được mục đích kinh tế của mình bất kể người sản xuất hàng hóa nào cũng
phải tham gia vào quan hệ kinh tế với người khác. Trên cơ sở đó hình thành và phát
triển các mối quan hệ giữa người với người ngày càng đa dạng và phong phú.
2. Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng mông muội, xóa bỏ nền kinh tế tự
nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội,
kỹ thuật của từng người, từng địa phương, từng vùng, các quốc gia khác.
Thứ hai: Quy mô sản xuất được mở rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.
23


Thứ ba: Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật
cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thứ tư: Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần
ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng.
Song bên cạnh đó, sản xuất hàng hóa cũng tồn tại những mặt trái của nó như: Phân
hóa giàu nghèo, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng, phá hoại môi trường…
3. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quắ
trình phát triển nền kinh tế đất nước.
Như đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu
dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã phát triển tới

trình độ khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển
Việt nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hâu , trình độ xã hội còn thấp , bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, di lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những
người cộng sản và nhân dân Việt Nam , là khát vọng thiêng liêng ngàn đời của nhân dân
Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ
trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội
kiểu Xô Viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp . Mô hình này đã
thu được những kết quả quan trọng , nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước
có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm ;và trong công tác
chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là
bệnh giáo điều , chủ quan , duy ý chí . Lối suy nghĩ và hành động đơn giản , nóng vội
không tôn trong quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với
thực tế ở Việt Nam .
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam(tháng 12
năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả
hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con
đường , phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội , đặc biệt là quan niệm về công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ , về cơ cấu kinh tế , thừa nhận sự tồn tại
khách quan của sản xuất hành hoá và thị trường . Phê phán triệt để cơ chế tập trung ,
quan liêu , bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI là
một mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt
Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
*Những vấn đề cần khắc phục
Chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
không phải là việc làm trong một sớm một chiều, tức khắc có ngay được, đây phải là
một quá trình gồm nhiều bước chuyển. Theo đó, những việc cần làm là:
Đổi mới quản lý kinh tế của Nhà nước
Sự hình thành sở hữu nhà nước và khu vực kinh tế nhà nước là tất yếu khách quan.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước là những chủ thể kinh

24


doanh có quyền quyết định công việc kinh doanh của mình. Nhà nước cần giải phóng
khỏi công việc kinh doanh. Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo ra môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nhằm mục đích đó, Nhà
nước với tư cách là cơ quan điều tiết nền kinh tế thị trường, cần phải:
- Thứ nhất, hoàn thiện một hệ thống luật dân sự bảo đảm điều chỉnh một cách kín kẽ
và đồng bộ các quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế.
- Thứ hai, đổi mới hoạt động kế hoạch của Nhà nước. Kế hoạch hóa phát triển kinh
tế - xã hội là cần thiết, nhưng phải thay đổi phương pháp, công nghệ kế hoạch hóa. Mô
hình kế hoạch hóa nhà nước sẽ là dạng tổ hợp các chương trình có mục tiêu liên quan
chặt chẽ với nhau, những chương trình đó được triển khai theo hình thức đấu thầu.
- Thứ ba, xây dựng và duy trì hệ thống tài chính - tín dụng ổn định và điều tiết lưu
thông tiền tệ. Phát huy đầy đủ vai trò các đòn bẩy kinh tế như giá cả, thuế, tín dụng, tiền
lương, khối lượng tiền mặt phát hành, giá cả và tỷ giá hối đoái, dự trữ và vàng, ngoại
tệ... Đồng thời, coi trọng công cụ pháp luật, tăng cường kiềm chế, kiểm soát của Nhà
nước. Chỉ khi Nhà nước kiểm soát được tài chính và tiền tệ thì Nhà nước mới có thể
kiểm soát, điều tiết được thị trường.
- Thứ tư, chính sách xã hội. Chức năng, vai trò và bản chất của Nhà nước ta là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cần phải xây dựng những chương trình
của Nhà nước về phát triển giáo dục, y tế, bảo vệ xã hội đối với người lao động. Thực
hiện tốt chính sách xã hội, phát huy nhân tố con người, hạn chế sự bóc lột, sự phân cực
giàu nghèo, phát triển các sự nghiệp phúc lợi công cộng, bảo đảm công bằng xã hội.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
Một quốc gia văn minh phải được tổ chức, quản lý thống nhất, phân ngành chuyên
sâu nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích xã hội. Chủ trương “xây dựng cơ chế thị trường có
điều tiết” đòi hỏi mọi ngành, mọi cơ quan các cấp từ trung ương xuống cơ sở cùng tham
gia điều tiết theo chức năng của mình. Nếu trên sân cỏ không thể có người vừa đá bóng
vừa thổi còi, thì trong sự phân công xã hội không thể duy trì một tổ chức vừa làm nhiệm

vụ quản lý hành chính, bảo vệ luật pháp lại vừa kinh doanh. Nó sẽ là một “lỗ hổng” lớn
(chứ không còn kẽ hở) cho những người làm ăn phi pháp, gây nhiễu thị trường.
Ngày nay, sau hơn 20 năm chuyển đổi sang kinh tế thị trường, đã có thể rút ra những
kinh nghiệm và bài học đáng tin cậy về quá trình chuyển đổi. Vấn đề chủ yếu là có tạo
ra được những nguyên tắc và tiền đề cần thiết để các thể chế của kinh tế thị trường có
thể hoạt động một cách bình thường hay không. Nếu không tạo được những điều kiện,
tiền đề như vậy, các thể chế kinh tế thị trường có thể tồn tại trên danh nghĩa nhưng
không thể phát triển được hoặc sẽ phát triển một cách méo mó, các quan hệ thị trường bị
biến dạng, gây tổn thất ở các mức độ khác nhau cho nền kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ VII đã quyết nghị đổi mới toàn diện đường lối kinh tế từ bao
cấp chuyển sang cơ chế thị trường, coi trọng khuyến khích đầu tư. Một bước đi thuận
quy luật mang giá trị chiến lược đã tạo được sức hấp dẫn mạnh mẽ. Tuy nhiên, thị
trường vốn mang đặc tính cơ bản là tự do cạnh tranh sinh tồn, manh nha hiện tượng vô
chính phủ nhằm lợi ích cục bộ, nên càng bộc lộ hai mặt trái ngược nhau trong quá trình
vận động.
25


×