Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tài liệu ôn thi môn Dân vận lớp Trung cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.06 KB, 18 trang )

Vấn đề 1: Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện
nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát tư thể
chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch
sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính
nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận
đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và
phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị có khác nhau
nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục
đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân
chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 2013 đã xác định:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân... ” điều đó càng
khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống
chính trị nước ta.
* Nhiệm vụ của Mặt trận tổ quốc Việt Nam:
Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là:
- Tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong nhân dân.
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật.
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà
nước.
- Tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các


nước trong khu vực và trên thế giới.
* Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Để phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra một nhiệm
vụ mới cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là: "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và
các đoàn thể thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội."
Giám sát và phản biện xã hội là một trong những chức năng, nhiệm vụ cơ bản, quan
trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được quy định rõ trong Quyết định số 217-QĐ/TW
ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị, theo đó:
“Giám sát” là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối
với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước
về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Giám sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
1

1


phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới,
những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà
nước trong sạch, vững mạnh.
“Phản biện xã hội” là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Phản biện xã hội
nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn
bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần
bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc
hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.

Giám sát và phản biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, tính
xây dựng, tính khoa học và thực tiễn. Phản biện xã hội là một hoạt động rộng rãi mang tính
nhân dân và có tổ chức, là việc một tổ chức đưa ra những chứng lý, lý lẽ, căn cứ khoa học để
làm rõ bản chất của một vấn đề, một sự kiện nào đó, là cơ sở để đưa ra một một chủ trương,
chính sách, quyết định hợp lý, hợp pháp.
Phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam là nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân
tham gia xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật và chính sách cụ thể của nhà
nước, góp phần hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với thực tiễn của
đời sống xã hội, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và thể hiện được ý chí, nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, thông qua hoạt động phản biện xã hội, sẽ góp
phần nâng cao vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc xây dựng, tập hợp khối đại đoàn kết
dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Nguyên tắc giám sát và phản biện xã hội
1- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đoàn thể chính trị - xã hội.
2- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội với các cơ quan, tổ chức có liên quan; không làm trở ngại các hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện xã hội.
3- Bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng.
4- Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên, lợi ích quốc gia, dân tộc.

2

2


II. Bài tập tình huống 1: Giải thích “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”

(Hồ Chí Minh)
Dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng ta, có ý nghĩa chiến lược trong
mọi thời kỳ cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, gắn liền với từng bước
trưởng thành của Đảng, công tác dân vận về thực chất là xây dựng, củng cố, tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và đã trở thành một truyền thống cực kỳ quý báu
và tốt đẹp của Đảng ta. Như vậy, công tác dân vận là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động nhân
dân thực hiện đg lối, chính sách của Đảng, pháp luật của NN thông qua nhà nước XHCN,
các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán
bộ, đảng viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định công tác vận động quần chúng là một
nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng trong bất cứ
điều kiện và hoàn cảnh nào. Tư tưởng đó đã được Người thể hiện sinh động trong bài báo
"Dân vận" đăng trên Báo Sự thật số 120, ra ngày 15/10/1949. Mở đầu bài báo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều
cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại. Bác chỉ rõ: “Dân vận là
vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp
thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính
phủ và đoàn thể đã giao cho”; “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả
hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v…) đều phải phụ trách dân
vận”... Và Người kết luận: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Sự nghiệp cách mạng của Đảng là lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh giành độc lập
Dân tộc, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là một nhà nước tốt đẹp, trong đó
người dân thực sự làm chủ.
Cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ là mục tiêu động lực của công tác
quần chúng, là cái “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết được mọi khó khăn.
Xuất phát từ quan điểm "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", Hồ Chí Minh luôn
nhìn nhận và đánh giá đúng lực lượng to lớn của dân. Người cho rằng, dù là việc lớn hay
việc nhỏ đều phải bàn bạc, lấy ý kiến của nhân dân, rồi vận động nhân dân thực hiện, có như

thế thì công việc mới thành công “Trong mọi việc đều phải dựa vào quần chúng… Lấy sức
quần chúng mà vượt khó khăn…”. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu
cũng xong”, lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết; Không ai chiến thắng được lực
lượng đó. Xuất phát từ quan điểm ấy, Bác đã tha thiết kêu gọi tất cả mọi người dân yêu
nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì
nước. Người căn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân. Như vậy, lực lượng làm nên thành bại của cách
mạng, thành công của công cuộc kiến thiết nước nhà đi tới ấm no, hạnh phúc và bảo vệ vững
chắc chủ quyền, độc lập, thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi thời đại, mọi hoàn
cảnh chính là dân, nhân dân.
3

3


Cũng trong tư tưởng của Người về “ Dân vận khéo”, tiêu chí để đánh giá dân vận khéo là
hiệu quả của công tác dân vận và “thành công” là tiêu chí cũng là dấu hiệu đúng đắn duy
nhất cho biết một hoạt động dân vận là “khéo”.
Khi nói “Dân vận khéo”, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong từng thời kỳ cách mạng, cũng
như trong từng thời gian cụ thể, việc xác định mục tiêu, nội dung dân vận đúng hay không
đúng sẽ quyết định đến việc thành công hay không thành công của cách mạng. “Dân vận
khéo” như Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, thì điều có ý nghĩa quyết định là phải xác định
đúng đắn mục tiêu và nội dung của công tác này, và bằng mọi cách biến mục tiêu, nội dung
đó thành sự thật.
Khéo: là sự tinh tế, khéo nắm bắt, đánh trúng tâm lý, suy nghỉ của người nghe, tùy từng
đối tượng, độ tuổi, trình độ mà có sự tinh tế trong cách vận động, đó là một nghệ thuật.
Dân vận khéo là dân vận sát dân. Bác nói : "cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện,
tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo..." của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép "Từ
trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần chúng". Nghĩa là "Bất cứ việc to, việc nhỏ,
chúng ta phải xét rõ và làm cho phù hợp với trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ

giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham ý muốn, tình hình thực tế của quần chúng. Do đó
mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế mới có thể lôi kéo được quần chúng".
Người cũng chỉ ra rằng chỉ có làm tốt công tác dân vận thì mới huy động được sức mạnh
vô địch của quần chúng nhân dân. Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"(8). Do đó cách
mạng muốn thành công, đạt được nhiều thành tựu lớn lao thì phải xây dựng nền tảng từ nhân
dân:"Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"(9). Hồ Chí Minh đã
kết luận: "kinh nghiệm trong nước và các nước cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng
việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không
xong"(10). Do đó, cần phải nhận thức rõ công tác vận động, giác ngộ quần chúng là công tác
quan trọng quyết định thành bại của cách mạng. Với nhận định ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa vị trí của nhân dân lên hàng tối thượng, khẳng định sức mạnh vô địch của quần chúng
nhân dân trong lịch sử cách mạng Việt nam.
Tư tưởng dân vận của Bác đã được khẳng định trong thực tiễn suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam: Trong hoạt động cách mạng, làm tốt công tác dân vận sẽ được nhân
dân nuôi dưỡng, che chở, giúp đỡ để hoàn thành mọi nhiệm vụ; trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, làm tốt công tác dân vận sẽ phát huy được sáng kiến, kinh nghiệm, nguồn lực và sự
ủng hộ của nhân dân để công tác đạt hiệu quả cao; trong xây dựng nông thôn mới, làm tốt
công tác dân vận sẽ huy động được nội lực, nhân dân tự nguyện hiến đất, đóng góp ngày
công làm các công trình phúc lợi phục vụ cộng đồng; biết lắng nghe ý kiến nhân dân để xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh… Hiệu quả của việc làm tốt công
tác dân vận là nhân dân được hưởng lợi, cán bộ được trưởng thành, tổ chức không ngừng
phát triển, mối quan hệ Đảng – Dân ngày càng gắn bó mật thiết, khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và phát huy.
Về phương pháp dân vận: Cán bộ dân vận “Phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm”. Người đặc biệt chú ý đến tầm cao trí tuệ của người làm công tác dân
vận (óc nghĩ); mục thị được sự việc liên quan đến chức năng nhiệm vụ công tác dân vận
(mắt trông); nghe được dân nói, nhưng không rơi vào tình trạng theo đuôi quần chúng mà
phải biểu thị được thái độ vừa cầu thị vừa định hướng dẫn dắt được quần chúng (tai nghe);
khảo sát tình hình thực tế (chân đi); tuyên truyền, cổ động nhân dân phải đúng và khéo thực

4

4


hiện các nhiệm vụ cách mạng; giáo dục bằng tấm gương sống và làm việc của mình (tay
làm). Tất cả phải được phối hợp một cách nhịp nhàng ở người cán bộ dân vận.
Quy trình của công tác dân vận được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra từ năm 1949, như
sau: 1. Giải trình cho dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của họ (dân biết); 2. Bàn bạc với
dân, hỏi ý kiến, kinh nghiệm của dân (dân bàn); 3. động viên và tổ chức toàn dân thi hành
(dân làm); 4. Cùng với dân kiểm thảo, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng (dân kiểm
tra).
Việc quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm về công tác dân vận, nhất là quan điểm
“Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng trong vận động, tập
hợp, tạo ra sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nhân tố cơ bản để giành thắng lợi
trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay, việc vận dụng quan điểm “Dân vận khéo”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiến hành công tác dân vận ở chính quyền cơ sở thực sự
mang tính bức thiết. Muốn vậy, cần chú ý thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, quán triệt, giáo dục quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
đường lối của Đảng về công tác dân vận.
Việc quán triệt, giáo dục quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải
được tiến hành bài bản, cụ thể và phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, như phải gắn
với chương trình học tập, bồi dưỡng của cán bộ, đảng viên; tập huấn nghiệp vụ; sinh hoạt,
nói chuyện chuyên đề; sơ, tổng kết về công tác dân vận… Quá trình đó đồng thời gắn với
quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận, đặc biệt là thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.
Hai là, thường xuyên bồi dưỡng phương pháp “Dân vận khéo” cho đội ngũ cán bộ,
công chức.
Xây dựng cho cán bộ, công chức tinh thần tôn trọng và phục vụ nhân dân vô điều kiện;

xây dựng và thực hành phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân”. Rèn luyện cho cán bộ, công chức biết cách vận dụng thành thạo các bước
công tác: Điều tra, nghiên cứu, khảo sát nắm chắc tình hình nhân dân trên địa bàn thông
qua các kênh thông tin khác nhau, các hoạt động của các tổ chức đoàn thể...; tuyên truyền,
giáo dục nhân dân về chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, quy định ở địa phương; vận động, thuyết phục nhân dân hưởng ứng, tham gia
phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quốc
phòng, phong trào “xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”; hướng dẫn nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, phát triển sản xuất, ứng dụng
khoa học - kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động…
Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở tiến hành công
tác dân vận.
Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân trực tiếp lãnh đạo tiến hành công tác dân vận. Do vậy,
cấp ủy đảng ở cơ sở phải đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cho từng thời gian nhất định;
giao trách nhiệm dân vận cho từng cán bộ, đảng viên; lãnh đạo chính quyền, mặt trận Tổ
quốc, đoàn thanh niên, hội nông dân, hội phụ nữ, hội chiến binh cùng tiến hành công tác
dân vận. Đặc biệt, phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống
chính trị và lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, đôn đốc, phối hợp giữa các tổ chức trong công
tác dân vận phải nhịp nhàng, đồng bộ.
Bốn là, xây dựng và nhân rộng mô hình “dân vận khéo”.
5

5


Để xây dựng được mô hình "dân vận khéo" đòi hỏi cấp ủy mỗi địa phương phải có chủ
trương, kế hoạch sát thực tế và thực hiện chặt chẽ các khâu: Lựa chọn mô hình; dự kiến
nhân sự; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, phương pháp dân vận; xây dựng cơ sở vật chất và
điều kiện cần thiết cho công tác dân vận; thử nghiệm mô hình và tổ chức rút kinh nghiệm;
học tập, vận dụng để nhân rộng mô hình.


6

6


Vấn đề 2:
I. Hoạt động chủ yếu của hội ND VN ở cơ sở:
* Khái niệm hội ND:
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp.
Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất
chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu
khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định
trong xã hội.
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam tiền thân là Nông hội đỏ, thành lập ngày 14/10/1930, trải qua
các thời kỳ cách mạng luôn trung thành với Đảng và dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân và công
cuộc xây dựng nông thôn mới.
Mục đích của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh
về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong khối liên minh vững chắc công, nông, trí,
bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
* Hoạt động chủ yếu của hội ND VN ở cơ sở gồm các nội dung chính sau:
- Đẩy mạnh các phong trào nông dân, trực tiếp thực hiện một số chương trình, dự án
phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nông thôn mới: tổ chức các hoạt động khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, dạy nghề, hỗ trợ việc làm, các dịch vụ về vốn, giống, nông nghiệp,

tiêu thụ nông sản, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỷ thuật,
công nghệ mới để có năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa cao, khai thác tiềm năng, phát
huy nội lực, cần kiệm phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác.
- Tổ chức, hướng dẫn nông dân chuyển dịch cơ cấu nông ngiệp, phát triển ngành nghề,
khai thác và sử dụng có hiệu quả đất trống, đồi núi trọc, mặt nước ao hồ, đầm phá ven biển,
phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề,
dịch vụ.
- Chủ động tham gia vào chương trình quốc tế về xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm
giàu bằng việc hướng đẫn người nghèo cách làm ăn về khuyến nông, khuyến lâm theo
phương thức "cầm tay chỉ việc", giúp đỡ nhau tiêu thụ sản phẩm, xây dựng tổ hội nghề
nghiệp, tổ đoàn kết, tổ hợp tác, HTX, tổ tương trợ, tổ liên doanh liên kết, giúp các hộ nghèo
đói vươn lên.
- Phát huy vai trò làm chủ của nông dân tham gia xây dựng hương ước, quy ước làng,
xã, thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn. Xây dựng Đ, xây dựng chính quyền vững mạnh,
thực hiện "Dân biết dân làm dân bàn dân kiểm tra". Những việc chung và những việc có liên
quan đến quyền lợi và ghĩa vụ của ND làm tốt công tác hoàn giải và các mâu thuẩn trong nội
bộ của nông dân được giải quyết tốt ở cơ sở, xây dựng VH tinh thần, nếp sống lành mạnh,
tiết kiệm trong việc ma chay, cưới xin, lễ hội; tích cực phòng chóng các tệ nạn xã hội, giữ
gìn vệ sinh môi trường ở nông thôn.
7

7


- Đổi mới phương thức hoạt động theo hướng đa dạng, thiết thực để thu hút và tập hợp
đông đảo nông dân tham gia hoạt động hội:
+ Tăng cường các hoạt động dịch vụ hỗ trợ ND về vốn, kỷ thuật, công nghệ, tiêu thụ sp,
thông tin thị trường,... nhằm phục vụ cho sx, kinh doanh và tổ chức đời sống. Chú trọng
phương thức chỉ đạo điểm, xây dựng mô hình trình diễn, xây dựng các chi hội, tổ hội, hội
viên thành những điển hình tiên tiến, tổng kết rút kinh nghiệm và nhân ra diện rộng để nhiều

người học tập và làm theo.
+ Tổ chức các hội thi "kiến thức nhà nông", "nhà nông đua tài", "chi hội trưởng giỏi",
"chủ nhiệm câu lạc bộ ND giỏi", thi tìm hiểu PL bằng hình thức sân khấu hóa,... hội nghị
chuyên đề, hội nghị đầu bờ về phát triển kinh tế hộ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phổ biến
khoa học-kỷ thuật, thông qua VH văn nghệ, gương "người tốt, việc tốt"... để tuyên truyền
giáo dục hội viên hội ND.
+ Các chi, tổ hội động viên ND, góp công, góp của phù hợp xây dựng đường làng, ngõ
xóm, trường học, trạm xá,... đồng thời kiểm tra, dân chủ công khai thu, chi, xd cơ sở hạ tầng
ở nông thôn.
- Chăm lo lợi ích chính đáng của ND. Chăm lo lợi ích của ND vừa là mục đích yêu cầu,
vừa là động lực của công tác vận động ND. Nhiệm vụ quan trọng trước hết trong công tác
vận động nd là phải nắm được tình hình đời sống tâm tư, nguyện vọng của nd để chủ trương
giải quyết kịp thời các yêu cầu, nguyện vọng của họ. Lợi ích của nd rất đa dạng, pphú, song
có thể tập trung vào 3 mặt chính là: dân sinh, dân trí, dân chủ.
+ Cải thiện dân sinh: cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nd, trc hết là
đời sống vât chất là yêu cầu, là mong muốn hàng đầu của nd hiện nay và cũng là mong
muốn của Đ ta. Vì vậy, phải khuyến khích giúp đỡ nd phát triển kinh tế, làm giàu chính
đáng, đẩy mạnh chương trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết tốt các vấn đề xh
+ Nâng cao dân trí: cùng với cải thiện đời sống vật chất, nâng cao dân trí là 1 đòi hỏi
trong cuộc sống của nd, một yêu cầu cấp bách của sự nghiệp cnh, hđh, hội nhập quốc tế. Đ ta
xác định, đảm bảo công bằng xh trong giáo dục, mọi người nông dân, con em nd đều đc đi
học, nhất là đv những gia đình nghèo, gđ chính sách. Phát triển và tăng cường mạng lưới văn
hóa, thông tin tuyên truyền ở cơ sở để nâng cao mức hiểu biết, hưởng thụ, sáng tạo văn hóa
của nông dân ở mọi miền đnước.
+ Thực hiện dân chủ: cương lĩnh xd đất nước trong thời kì quá độ lên cnxh của Đ đã xác
định: " dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đnước. Xd và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xhcn, đảm bảo dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực" vì vậy tổ chức cơ sở hội nd
phải làm tốt việc vận động nd làm tốt việc thực hiện quyên dân chủ của mình để phát huy
tính tích cực tự giác, sáng tạo của nd trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa

phương, đơn vị, mọi việc thực hiện đúng nguyên tắc "dân biết dân bàn dân làm dân kiểm
tra". Chống mọi biểu hiện quan liêu coi thường dân.
* Những thách thức của hội nông dân VN hiện nay là:
Trong những năm sắp tới, nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội và còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc ở nông thôn cần phải giải
quyết. Các giá trị văn hoá truyền thống đứng trước thách thức bị mai một; ô nhiễm môi
trường nông thôn, tệ nạn xã hội gia tăng, an ninh trật tự trên địa bàn nông thôn còn diễn
biến phức tạp. Nông nghiệp nước ta tiếp tục chịu áp lực cạnh tranh rất lớn do sản xuất
8

8


nhỏ, phân tán, lạc hậu, năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp
còn yếu kém. Trình độ văn hoá, tay nghề, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Tăng
trưởng nông nghiệp mới chỉ tạo ra khối lượng nhiều, nhưng giá trị thấp; hiệu quả sử
dụng đất đai, tài nguyên chưa cao.
Do tác động của quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, nông dân sẽ ngày càng giảm đi về số lượng, nhưng chất lượng ngày càng
tăng lên. Theo dự báo, lao động nông nghiệp nước ta sẽ còn khoảng 40% lao động xã
hội vào năm 2015 và 30% vào năm 2020. Một bộ phận nông dân thiếu đất, thiếu việc
làm cùng với ảnh hưởng của thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, cạnh tranh của cơ chế thị
trường… làm cho phân hoá giàu, nghèo diễn ra nhanh hơn, tác động sâu sắc đến sản
xuất, đời sống của một bộ phận nông dân và nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc ở
nông thôn.
Tình hình trên, sẽ tạo ra cả những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của
nông nghiệp, nông thôn, của giai cấp nông dân và tổ chức Hội Nông dân trong thời gian
tới. Đòi hỏi tổ chức Hội Nông dân các cấp phải vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ, đáp
ứng những yêu cầu mới của thực tiễn đặt ra về nâng cao nhận thức chính trị, trình độ

sản xuất, quản lý, kinh doanh và ý thức trách nhiệm của cán bộ, hội viên, nông dân
trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nhằm nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nông dân.

9

9


II. Bài tập tình huống: Phong cách làm công tác dân vận của Hồ Chí Minh.
Dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng ta, có ý nghĩa chiến lược trong
mọi thời kỳ cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, gắn liền với từng bước
trưởng thành của Đảng, công tác dân vận về thực chất là xây dựng, củng cố, tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và đã trở thành một truyền thống cực kỳ quý báu
và tốt đẹp của Đảng ta. Như vậy, Công tác dân vận là công việc của toàn bộ hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, đưa các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã
hội, thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết
định cho sự thành bại của cách mạng trong bất cứ điều kiện và hoàn cảnh nào. Người chỉ ra
rằng: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người
dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công
việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”.
Công tác dân vận luôn luôn gắn liền với những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng
Cộng sản Việt Nam, và đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập
dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bài báo "Dân vận" đăng trên Báo Sự thật số 120, ra ngày 15/10/1949 Bác Hồ đã
chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức
nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v…) đều phải phụ trách dân vận” và Người kết

luận:“Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Người cán bộ dân vận không ngừng bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trình độ
năng lực nghiệp vụ, nắm vững những quan điểm, mục tiêu, nội dung, quy trình, phương thức
công tác dân vận, mà còn phải ra sức rèn luyện tác phong người cán bộ dân vận. Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu người cán bộ dân vận phải có tác phong làm việc “đúng” và “khéo”. Đây
là vấn đề có ý nghĩa hết sức cơ bản và thời sự đối với người làm công tác dân vận.
Cán bộ “dân vận khéo”, theo Hồ Chí Minh, đó phải là những người có kỹ năng nghiệp
vụ. Kỹ năng ấy bao gồm: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Nghĩa
là phải vận dụng “ngũ quan”, hiểu rõ thực tế, nói phải đi đôi với làm. Phải có óc nghiên cứu
để nắm vững bản chất của con người, của sự việc. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
nhắc nhở: “Dân vận khéo” là phải tránh bệnh chủ quan, phải phát huy dân chủ. Bởi theo
Người: “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến” và “Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng
tiến lên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ dân vận phải có tác phong làm việc “đúng”
và “khéo”. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức cơ bản và đến nay vẫn còn mang tính thời sự đối
với người làm công tác dân vận.
Một là, người cán bộ làm công tác dân vận nhất thiết phải có tác phong quần chúng. Tác
phong này bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: quần
chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Có lòng tin vô
tận đối với quần chúng, chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng, coi đó là nguồn sức
mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Theo Bác, “nước lấy dân làm gốc”,
10

10


“gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Các tổ chức Đảng, cán bộ,
đảng viên phải thể hiện tinh thần phụ trách trước nhân dân. Bao nhiêu cách tổ chức và cách
làm việc đều vì lợi ích của quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù

hợp với quần chúng thì ta phải bỏ đi hoặc sửa lại; việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm;
việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh; phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một
người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm
cho kỳ được”. Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức
toàn dân ra thi hành.
Trước lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong
phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
“Giải thích cho dân hiểu - bàn bạc với dân - tổ chức toàn dân thực hiện - kiểm tra, kiểm
điểm rút kinh nghiệm - phê bình, khen thưởng” là quy trình làm công tác dân vận mà Người
đã tổng kết, được Đại hội VI của Đảng quán triệt và nêu thành phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Với lòng nhân ái bao la, Người đã thâm nhập vào quần chúng bằng phong cách thật sự
của người cán bộ với nụ cười hiền hậu, giọng nói ấm áp và vòng tay rộng mở.
Hai là, người cán bộ dân vận cần có tác phong làm việc khoa học, mà trước hết, phải “óc
nghĩ, mắt trông, tai nghe”.
Theo Bác Hồ, “gặp mỗi vấn đề, phải suy tính kỹ lưỡng, chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ
làm liều, chớ gặp sao làm vậy”. Muốn quyết định đúng một vấn đề, trước hết phải “điều tra,
nghiên cứu rõ ràng”. Có nắm chắc tình hình thì đề ra chính sách mới đúng. Và mỗi khi làm
xong một công việc, dù thành công hay thất bại, phải biết tổng kết, rút kinh nghiệm để làm
“khuôn phép” cho những công việc khác, coi đó là “chìa khoá phát triển công việc và để
giúp cho cán bộ tiến tới”.
Làm việc gì cũng có mục đích rõ ràng, có chương trình, kế hoạch khả thi, và biết tổ chức
thực hiện có hiệu quả nhất.
Ba là, người cán bộ dân vận phải có tác phong làm việc thiết thực, cụ thể. Bác Hồ
nghiêm khắc lên án bệnh “hữu danh vô thực”, bệnh hình thức, khi ra chỉ thị, nghị quyết thì
không gắn với điều kiện thực tế, không gắn với quần chúng và cơ sở. Trong chỉ đạo thực
hiện thì không có kế hoạch và biện pháp cụ thể, không kiểm tra, kiểm soát, không tổng kết
đúc rút kinh nghiệm. Bác còn chỉ rõ: Khi ra quyết định công tác, hay định ra cách tổ chức

thực hiện, không được ngồi trên bàn giấy, nghe người dân báo cáo rồi vẽ vời, do chủ quan
tưởng tượng mà không đi sâu đi sát thực tế. Người kịch liệt phê phán những lối làm việc
không thiết thực, làm cho có chuyện, làm được ít suýt ra nhiều, “để làm một bản báo cáo cho
oai, nhưng xét kỹ lại rỗng tuyếch”.
Bốn là, người cán bộ dân vận phải có tác phong “miệng nói, tay làm”, là nói và làm
thống nhất, nói và làm đi liền với nhau. Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối
“chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, tức là nói mà không làm của những người hứa
suông, hoặc “nói một đàng, làm một nẻo” của những kẻ cơ hội. Người cán bộ dân vận phải
“thật thà nhúng tay vào việc”, phải làm việc một cách thật sự, cùng lao động, cùng chiến đấu,
lăn vào cuộc sống hằng ngày của quần chúng để thực hiện mục đích của công tác dân vận.
“Miệng nói, tay làm”, nhưng là làm có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân, là một nội dung đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
11

11


Điều tối kỵ đối với cán bộ dân vận là “nói nhiều làm ít”, hoặc làm ngược điều mình nói,
hoặc nói cho người khác làm, còn bản thân mình thì “đánh trống, bỏ dùi”, hứa hươu, hứa
vượn, vô cảm trước những bức xúc của người khác.
Năm là, người cán bộ dân vận phải có “tác phong nêu gương”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống; mọi lúc, mọi
nơi, phải “nêu gương” để quần chúng noi theo. Theo Người, “nói chung thì các dân tộc
phương Đông giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm
bài diễn văn tuyên truyền. Tác phong “nêu gương” có sức thuyết phục và hướng dẫn rất
lớn”.
Dân vận trong lời giải thích, vận động, thuyết phục, chưa đủ. Cần phải dân vận trong
hành động, trong cuộc sống, mẫu mực về phẩm chất đạo đức, lối sống. Đức tính giản dị,
hành động gương mẫu là tấm gương sống của cán bộ, đảng viên.
Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một cái gì đó quá cao xa,

khó thực hiện mà rất gần gũi, dễ hiểu. Đó là phong cách gần dân, sát dân, quan điểm quần
chúng, sát thực tiễn, rất khoa học, và tất cả đều có điểm xuất phát "bao nhiêu lợi ích vì
dân... phải đặt quyền lợi nhân dân lên trên hết".
Tư tưởng dân vận của Bác đã được khẳng định trong thực tiễn suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam: Trong hoạt động cách mạng, làm tốt công tác dân vận sẽ được nhân
dân nuôi dưỡng, che chở, giúp đỡ để hoàn thành mọi nhiệm vụ; trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, làm tốt công tác dân vận sẽ phát huy được sáng kiến, kinh nghiệm, nguồn lực và sự
ủng hộ của nhân dân để công tác đạt hiệu quả cao; trong xây dựng nông thôn mới, làm tốt
công tác dân vận sẽ huy động được nội lực, nhân dân tự nguyện hiến đất, đóng góp ngày
công làm các công trình phúc lợi phục vụ cộng đồng; biết lắng nghe ý kiến nhân dân để xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh… Hiệu quả của việc làm tốt công
tác dân vận là nhân dân được hưởng lợi, cán bộ được trưởng thành, tổ chức không ngừng
phát triển, mối quan hệ Đảng – Dân ngày càng gắn bó mật thiết, khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và phát huy.
Ngày nay cùng với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập ngày
càng sâu rộng khu vực và thế giới, vị thế Việt Nam ngày càng khẳng định; trình độ dân trí
ngày càng nâng cao. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi nhận
thức và hành động của người lãnh đạo phải phù hợp xu thế phát triển, với tình hình thực tế.
Việc “giải thích cho dân hiểu” được Đảng ta nêu rõ trong Nghị quyết số 25-NQ/T.Ư khóa XI
về công tác dân vận: “Tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức
mạnh tổng hợp của các cơ quan thông tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin truyền
thông, đối thoại trực tiếp với nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài nghi trong xã hội”.
Về hành động của người làm công tác dân vận chính là phong cách: “trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Tham nhũng, quan liêu và những biểu hiện
tiêu cực khác đang làm xói mòn niềm tin của dân với Đảng. Vì vậy, đẩy mạnh chống tham
nhũng, quan liêu, lợi ích nhóm, xa hoa, lãng phí chính là những nhiệm vụ chủ yếu trong công
tác xây dựng Đảng, cũng là làm công tác dân vận, làm sao cho người dân được nói giữa dạ
mình, bớt đi những thủ tục hành chính nhiêu khê, phiền hà.
Để thực hiện dân vận “khéo”, thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành 12 từ,
đó là “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.


12

12


- Óc nghĩ: Điều này được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí hàng đầu, cho thấy người đặc biệt
đề cao trí tuệ và yêu cầu về sự “động não” của người làm công tác dân vận.
Bác Hồ muốn khẳng định, công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những
công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học -khoa học về con người, một nghệ thuật nghệ thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày công tìm tòi suy nghĩ để phân tích
chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận
động nhân dân có hiệu quả.
- Mắt trông: Là quan sát mọi sự việc, hiện tượng từ thực tiễn phong trào cách mạng
của quần chúng, để “trăm nghe không bằng một thấy”. Với sự nhạy cảm, tinh tế trong quan
sát, kết hợp với “óc nghĩ” xác định được đúng, sai, nhận rõ bản chất và hiện tựợng của
từng sự việc, từng vấn đề để làm đúng, tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước để có
cách giải pháp đúng đắn kịp thời đưa phong trào của quần chúng đi đúng hướng. Ở điểm
này, Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải thường
xuyên sâu sát cơ sở. Vì chỉ có sát cơ sở mới có thể “thấy” mọi sự việc, vấnđề. Theo đó,
muốn vận động quần chúng một cách thiết thực, muốn làm tốt vai trò tham mưu phải “mục
sở thị” được các sự việc và vấn đề liên quan đến công tác dân vận.
- Tai nghe: là một phương pháp khoa học của công tác dân vận, theo Hồ Chí Minh cũng
với “óc nghĩ”, “mắt trông”, người làm công tác dân vận còn phải đồng thời nắm bắt kịp
thời các thông tin từ quần chúng. Đòi hỏi phải biết nghe dân nói, từ đó mà hiểu được những
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân; loại trừ những thông tin thiếu chân thực, chính
xác. Nghe dân nói, cũng là để biết dân đã hiểu gì, hiểu đến mức như thế nào, đã làm như thế
nào và làm được đến đâu. Về bản thân, mình cũng thấy được những gì cần phải bổ sung,
điều chỉnh khi thực hiện công tác dân vận.
- Chân đi: là yêu cầu gắn với cơ sở, một đòi hỏi bức thiết, luôn đặt ra đối với cán bộ
dân vận, đây cũng là một yếu tố chống căn bệnh quan liêu, hành chính, làm việc theo kiểu

giấy tờ của các cơ quan. Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực luôn luôn hướng về cơ sở và
gắn bó với cơ sở. Sinh thời, dù bận trăm công, nghìn việc nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
luôn dành thời gian đi cơ sở để khảo sát tình hình thực tế, lắng nghe ý kiến của dân và trực
tiếp tháo gỡ những khó khăn nẩy sinh trong dân. Xuống với dân như về gia đình mình,
người tuyệt đối không muốn “cờ rong, trống mở” xe đưa xe đón.Nhiều lần người đến thăm
cơ sở nhưng không báo trước. người hết sức nghiêm khắc với bệnh tô vẽ, thổi phồng thành
tích dẫn tới lừa dân, hại dân, dối trên, lừa dưới của một số cán bộ mắc bệnh thành tích.
- Miệng nói: Là thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, nhất là tuyên tuyền miệng, một hình
thức tuyên truyền không thể thiếu của người làm công tác dân vận. Người cán bộ dân vận
phải thường xuyên có trách nhiệm tuyên truyền, cổ động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng... Theo Hồ Chí Minh, để
dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ và làm theo thì công tác tuyên truyền miệng phải đúng và phải
khéo. Nói với với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực và cụ thể, tránh mệnh lệnh, hơn thế,
còn phải có thái độ mềm mỏng; đối với người già, các bậc lão thành phải cung kính, lễ độ,
với đồng chí, đồng bào phải đúng mực, nghiêm trang, với nhi đồng phải thương yêu, quý
mến.
13

13


- Tay làm:là thể hiện quan niệm học đi đôi với hành, là gương mẫu,làm gương trước
cho quần chúng. Nếu nói là để dân nghe, thì làm là để dân thấy, dân tin, dân học làm theo.
Lời nói đi đôi với hành độnglà một yêu cầu, một phương pháp hết sức quan trọng đối với
cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến hai mặt của một vấn đề này. Người từng có hàng loạt bài viết, bài nói phê
phán những cán bộ, đảng viên “nói không đi đôi với làm”, “nói hay mà làm dở” hoặc
“đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ rõ “cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, phải thiết thực,
miệng nói, tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì nói vô ích”.
Như vậy: “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân

dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các công việc
cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận động nhân dân thực
hiện các chủ trương, chính sách.
“Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay, “phải thật thà nhúng
tay vào việc”, không được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác
nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại. Bác cũng nghiêm khắc phê phán “bệnh nói
suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”.Đây cũng thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng và hành
động thường ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh.
"Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" là có sự thống nhất, hòa
quyện chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Đó có thể coi cẩm nang về phương pháp dân
vận cho tất cả cán bộ, đảng viên trong công tác dân vận.
Dân vận trong lời giải thích, vận động, thuyết phục, chưa đủ. Cần phải dân vận trong
hành động, trong cuộc sống, mẫu mực về phẩm chất đạo đức, lối sống. Đức tính giản dị,
hành động gương mẫu là tấm gương sống của cán bộ, đảng viên.
Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một cái gì đó quá cao xa,
khó thực hiện mà rất gần gũi, dễ hiểu. Đó là phong cách gần dân, sát dân, quan điểm quần
chúng, sát thực tiễn, rất khoa học, và tất cả đều có điểm xuất phát "bao nhiêu lợi ích vì
dân... phải đặt quyền lợi nhân dân lên trên hết".

14

14


Vấn đề 3: Thanh niên
I./ Vị trí vai trò của thanh niên và của tổ chức đoàn:
Đoàn TNCS HỒ CHÍ MINH là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên VN do Đảng
CSVN và Chủ tịch HỒ CHÍ MINH sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những
thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, dân giàu .... văn minh.

ĐCSVN luôn xác định thanh niên là lực lượng xã hội hùng hậu, là đội quân xung kích
cách mạng, là lớp người kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng, là lực lượng quyết định sự
phát triển tương lai của đất nước, tiền đồ của dân tộc VN.
Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của BCH TW Đảng khóa X khẳng định: "thanh
niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích
trong xd và bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp
cnh, hđh đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng CNXH".
Đoàn TNCSHỒ CHÍ MINH kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng và Chủ tịch HỒ CHÍ MINH; thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, tổ
chức động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN; tích cực tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Điều 14 điều lệ Đảng CSVN xác định rõ: "Đoàn TNCS HỒ CHÍ MINH là đội dự bị tin
cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng
vẻ vang của Đảng, và Chủ Tịch HỒ CHÍ MINH; là lực lượng nòng cốt trong phong trào
thanh niên; là trường học XHCN; đại diện cho quyền lợi của thanh niên, phụ trách đội thiếu
niên tiền phong HỒ CHÍ MINH"
- Đối với hệ thống chính trị: Đoàn là thành viên trong hệ thống chính, hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
- Đối với Đảng: Đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là đội dự bị của
Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng.
- Đối với nhà nước: Đoàn là chỗ dựa vững chắc của nhà nước, trong công cuộc xây dựng
CNXH và bảo vệ tổ quốc. Đoàn phối hợp với các cơ quan của nhà nước, các đoàn thể nhân
dân, tổ chức xã hội và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi.
- Đối với các tổ chức XH của thanh niên: Đoàn có vai trò làm nòng cốt trong việc xây
dựng, tổ chức và hoạt động của HLH TNVN, hội SVVN và các tổ chức thành viên khác của
HLH TNVN.
- Đối với đội thiếu niên: Đoàn giữ vai trò là người phụ trách đội, có trách nhiệm xây
dựng và tổ chức đội, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, tạo điều
kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động của Đội.


15

15


II. Bài tập tình huống 3: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, công tác dân vận
tưởng là khó nhưng lại dễ, hiện nay trong điều kiện rất thuận lợi thì công tác dân vận
tưởng như dễ mà lại khó.
Trước đây, trong những năm đất nước ta còn nằm dưới ách đô hộ của thực dân, đế quốc,
khi chưa giành được chính quyền, toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên dưới
một lòng, tạo được thế trận lòng dân, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân để
giành chính quyền về tay nhân dân. Khi Cách mạng thánh Tám thành công, toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy; mọi người đều “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, đều có lợi
ích lớn nhất đó là độc lập, thống nhất Tổ quốc; mọi người đều cùng chung cái nghèo, cùng
nhau chia ngọt, xẻ bùi, vui vẻ và xan xẻ cái nghèo như nhau; nhân dân đặt hết niềm tin của
mình vào cán bộ của Đảng; người chỉ huy với người lính thực sự “một lòng phụ tử, hòa
nước sông chén rượu ngọt ngào”. Chính sự gắn bó máu thịt giữa cán bộ với nhân dân, giữa
người chỉ huy với người lính, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên sức mạnh vật chất và
tinh thần vô cùng to lớn làm nên những chiến thắng lẫy lừng.
Thời kỳ đó, công tác dân vận phải thực hiện trong những điều kiện rất khó khăn như:
Đất nước đang trong tình trạng chiến tranh, kinh tế lạc hậu, phương tiện kỷ thuật rất thiếu
thốn.
Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác dân vận chưa được đào tạo.
Trình độ dân trí còn thấp nên khả năng tiếp thu chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Đây chính là một thách thức dành cho cán bộ làm
công tác dân vận lúc bấy giờ.
Tưởng chừng những khó khăn trên sẽ làm giảm hiệu quả của công tác dân vận, trái lại
công tác dân vận thời kỳ này lại diễn ra rất thuận lợi và mang lại kết quả, thắng lợi vô cùng
to lớn. Thành quả có được bắt nguồn từ nguyên nhân:

Thứ nhất, lúc bấy giờ lợi ích của dân tộc và lợi ích cá nhân là một, toàn thể dân tộc cùng
hướng đến một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi đế quốc, giải phóng dân tộc.
Thứ hai, uy tín của Đảng, của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân rất cao, đặc biệt là tấm
gương mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phải nói rằng công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn so với
trước đây; trong đó một trong những khó khăn, trở ngại đó là điều khác biệt rất cơ bản hiện
nay so với trước đây là vấn đề lợi ích.
Thứ nhất là nước ta đang hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, đây là một nhiệm vụ rất nặng nề, khó khăn đòi hỏi cả hệ thống chính trị
thực hiện công tác dân vận.
Thứ hai là không ít tập thể, cá nhân làm công tác dân vận một cách hình thức, máy móc,
áp đặt, lợi dụng chức, quyền được giao để sách nhiễu nhân dân, đã không vận động nhân dân
tham gia mà còn làm khó, cản trở vai trò thực thi giám sát của nhân dân. Nhiều cán bộ lãnh
đạo, quản lý thiếu gương mẫu, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực nhưng lại đi tuyên truyền,
vận động nhân dân. Tình trạng phản cảm này dẫn tới sự suy giảm lòng tin của nhân dân vào
công tác dân vận. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đánh giá: Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng
phí, tùy tiện, vô nguyên tắc; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt
16

16


không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm
minh”.
Thứ ba là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, một số chính sách chưa đáp ứng
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết, quyền làm chủ của
nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm. Bên cạnh đó, khi đất nước hòa bình thì mục tiêu đầu tiên
của mỗi người chính là kinh tế. Và cũng chính mặt trái của nền kinh tế thị trường lúc này đã

ảnh hưởng không nhỏ tới người dân mà thậm chí là một bộ phận cán bộ, đảng viên. Họ đặt
lợi ích cá nhân của bản thân lên trên lợi ích của tập thể, nãy sinh tình trạng quan liêu tham
những, đây cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến thoái hóa đạo đức của một bộ phận cán
bộ.
Thứ tư là trình độ dân trí cao. Đây vừa là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn cho công tác
dân vận. Vì nhiều luồng thông tin chính thống và không chính thống người dân nắm bắt
nhiều lúc nhanh hơn, sâu hơn, rộng hơn cán bộ. Như vậy họ sẽ không biết nên tin vào thông
tin nào, sự nghi ngờ tăng lên, mà cán bộ không vững kiến thức chuyên môn, không khéo léo
nghệ thuật thì sẽ không thể nào thuyết phục được người dân tin vào Đảng, vào chính quyền.
Thứ năm là trong xu thế mở cửa và hội nhập khu vực và thế giới, nước ta đang có nhiều
thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, đặc biệt là âm mưu diễn biến hòa bình của các thế
lực thù địch, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia
rẽ nội bộ Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng; làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; ảnh hưởng xấu đến tâm tư, tình cảm,
nhiệt tình của những người chân chính, của nhiều cán bộ đang lăn lộn nơi khó khăn, vùng
sâu, vùng xa; nhằm làm giảm sức mạnh của lực lượng quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ,
xây dựng và phát triển đất nước.
Trong quá trình đổi mới, trước nhiều vấn đề của thực tiễn khi chuyển sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ Ðảng-Dân, Nhà nước - Nhân dân đang
nảy sinh những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới giữa yêu cầu phát triển và nâng cao đời
sống nhân dân. Công tác dân vận cũng phải giải quyết nhiều vấn đề mới nảy sinh từ cuộc
sống thực tế của các tầng lớp nhân dân mà một trong những vấn đề bức xúc, gây mất lòng tin
của nhân dân là tệ nạn tham nhũng, quan liêu của bộ máy Ðảng, Nhà nước, sự nhũng nhiễu
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ
sở. Nhiều việc làm vi phạm quyền dân chủ của nhân dân về kinh tế, chính trị, xã hội thật sự
là những vấn đề phản dân vận, làm cho dân chúng bất bình, suy giảm lòng tin với Ðảng, Nhà
nước.
Tóm lại, trong thời kỳ thực hiện công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tuy
điều kiện rất khó khăn thì công tác dân vận tưởng chừng rất khó mà lại dễ vì: mục tiêu
chung của Đảng và nhân dân đó là: cách mạng giành độc lập dân tộc, giành lại cuộc sống

tự do, tự chủ... bởi vậy tất cả mọi người đều vì mục tiêu đó mà đồng tâm, hiệp lực theo cách
mạng. Hiện nay, trong điều kiện thuận lợi thì công tác dân vận tưởng dễ mà lại khó, vì: nhân
dân đã được sống trong thời bình, đã được tự do, dân chủ; mặt khác những nhu cầu về cuộc
sống lại đa dạng, phong phú, mọi tầng lớp, mọi người đều có những mục tiêu riêng và thiên
về lợi ích cá nhân...
Công cuộc kháng chiến luôn gặp muôn ngàn khó khăn thử thách, có lúc tưởng chừng
không thể vượt qua, nhưng do Đảng ta biết dựa vào dân, tạo được thế trận lòng dân và được
dân tin yêu hết lòng ủng hộ. Chính nhân dân là người không tiếc máu xương, của cải để bảo
vệ Đảng, che chở cách mạng. Bài học về sức mạnh to lớn của nhân dân và sự gắn bó mật
17

17


thiết giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với Cách mạng tháng Tám
1945 mà còn xuyên suốt 2 cuộc kháng chiến cho đến ngày thống nhất non sông.
Công tác dân vận là một mặt công tác cơ bản của Đảng, nhân tố quan trọng góp phần
củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững
chắc. Trước yêu cầu mới của tình hình, nhiệm vụ, công tác dân vận cần tiếp tục đổi mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động, xứng đáng là cầu nối giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, phát huy
sức dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bế mạc Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chỉ có đổi mới và
làm tốt công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với dân, cũng như khối đại đoàn kết toàn dân thì mới phát huy
được sức mạnh to lớn của toàn dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hội
nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng (khóa XI), đã ban hành Nghị quyết 25-NQ/TW ngày
3/6/2013 về “Tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong tình hình
mới”. Có thể xem đây là điểm nhấn mới về sự lãnh đạo của Đảng với công tác vận động
quần chúng.


18

18



×