Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI THU HOẠCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.53 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Công an Nhân dân Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng
cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Công an nhân dân có
chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lý về bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các
thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng tư tưởng - chính trị đúng đắn
về công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân có nét đặc trưng nổi bật là lấy chính trị làm gốc,
gắn sức mạnh của lực lượng vũ trang với sức mạnh của quần chúng, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Người coi chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
vững mạnh về chính trị là yếu tố quan trọng đầu tiên, là nền tảng cơ bản, cốt lõi,
yếu tố quyết định sự trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng vũ trang (Công an
nhân dân và Dân quân tự vệ). Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh
về chính trị cũng là quan điểm lãnh đạo của Đảng ta trong quá trình tổ chức, giáo
dục, rèn luyện các lực lượng công an nhân dân. Là một cán bộ trong lực lượng
Công an nhân dân, qua học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh để góp phần xây
dựng lực lượng Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại em lựa
chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng lực lượng Công an nhân
dân” làm bài thu hoạch kết thúc môn học của mình.

1


NỘI DUNG
1. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm tư tưởng Hồ


Chí Minh; ở đây, chúng ta tiếp cận khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII
năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta đã nêu khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, đến Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/ 2001) Đảng ta đã bổ sung khái niệm tư tưởng
Hồ Chí Minh đến Đại hội XI của Đảng (2011) khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
được khái quát lại, bổ sung hoàn chỉnh.
Đến nay chúng ta sử dụng khái niệm nay: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Khái niệm trên nêu rõ cấu trúc, nguồn gốc, nội dung và giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với Đảng và dân tộc ta.
* Thứ nhất, về cấu trúc: Khái niệm nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt
Nam”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung bàn đến các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, bao gồm: xác định con đường của cách mạng Việt Nam; mục
tiêu, nhiệm vụ cách mạng; lực lượng tiến hành; phương pháp tiến hành và giai cấp
lãnh đạo cách mạng.
Nhận thức như vậy để khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần tránh
những khuynh hướng sai lệch và xuyên tạc cho rằng:
Một là, không có tư tưởng Hồ Chí Minh: cho rằng không có hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ một vài phát biểu ngắn gọn của Người.
Hai là, cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không hiểu tư tưởng
của Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như vậy vô
tình hạ thấp chứ không phải đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Ví dụ: tư tưởng Hồ Chí
Minh về phòng cháy chữa cháy…
Phải hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm khoa học, vì thế hết sức

cô đọng, chặt chẽ, có nội hàm lý luận cao, có sức sống mãnh liệt và giá trị lý luận,
thực tiễn rất to lớn không những với cách mạng Việt Nam mà còn đối với sự

2


nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng loài người trên phạm vi toàn thế
giới.
* Thứ hai, về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ rõ ba nguồn gốc lý luận hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Bao gồm: Chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đặc biệt, chủ nghĩa
Mác - Lênin có vai trò quyết định nhất tới việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
bởi đã trang bị cho Người thế giới quan và phương pháp luận Mác xít. Với thế giới
quan và phương pháp luận Mác xít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất trong
tư tưởng cách mạng của mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị
tích cực và tiến bộ trong truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn
hóa nhân loại, giúp Người nhận định, đánh giá, phân tích, tổng kết rất nhiều những
học thuyết, quan điểm khác nhau và đặc biệt là những kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn một cách khoa học, để từ đó nâng trí tuệ của Người lên một tầm cao mới tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu,
chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các
dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi
đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách
mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính
mình.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở
chỗ đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ
sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.

Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông
không phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ
nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với
thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và
phương pháp luận cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn xa lạ với chủ
nghĩa giáo điều xơ cứng.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan,
chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình
cách mạng Việt Nam. Vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lê- nin”. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không
những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến
thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng
3


vấn nhà báo Pháp vào tháng 7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành
được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi
giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được
là chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Bác vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta. Hồ Chí Minh nhận thấy chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu vẫn được
hình thành trên nền tảng triết lý phương Tây, mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở
phương Tây. Để hoàn thiện, Người đã bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin bằng dân tộc
học phương Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới. Ví như, Thứ nhất,
xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội: Ở Phương Tây sau khi các cuộc cách
mạng tư sản thành công, các quốc gia tư bản được thành lập thì mâu thuẫn cơ bản
và chủ yếu là giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; còn ở Việt Nam lúc này là
thuộc địa của thực dân Pháp mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với bọn đế quốc xâm
lược và phong kiến tay sai là mâu thuẫn cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Thứ hai, mục

đích của cách mạng: Trên cơ sở xác định mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội, quan
điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng trước hết phải thực hiện nhiệm vụ giải phóng
giai cấp, trong khi đó ở một nước thuộc địa như Việt Nam theo Hồ Chí Minh trước
hết cách mạng phải nhằm giải phóng dân tộc, vấn đề này ở các nước tư bản châu
Âu cơ bản đã được giai cấp tư sản làm trong cuộc cách mạng tư sản. Thứ ba, quan
điểm về Đảng và xây dựng Đảng: Để thực hiện được mục đích của cuộc cách
mạng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác phải có Đảng lãnh đạo, Đảng đó là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa hai yếu tố: chủ
nghĩa Mác cộng với phong trào công nhân. Ở Việt Nam, để cách mạng thắng lợi,
Bác khẳng định phải có Đảng chân chính lãnh đạo, “Đảng phải lấy chủ nghĩa MácLê làm cốt” và ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam phải có thêm yếu tố phong
trào yêu nước và ngay từ đầu Đảng đã cắm rễ sâu trong lòng dân tộc.
Nếu Hồ Chí Minh không vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta để xây dựng hệ thống lý luận cách mạng soi
đường cho cách mạng Việt Nam thì làm sao chúng ta có thể chớp thời cơ và giành
thắng lợi nhanh gọn trong thời gian chưa đầy hai tuần của tháng Tám năm 1945 và
tiếp theo là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến thần thánh, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội khi cả nước có chiến tranh với tư duy “chủ nghĩa xã hội thời chiến”.
Như vậy Bác đã tiếp thu có chọn lọc các yếu tố tích cực, biết kế thừa có phê
phán, chọn lọc mọi tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của mình,
đúng như Bác đã nói “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo
đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có
ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm
4


là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn
Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh
phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ
của các vị ấy”.
* Thứ ba, về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:

Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ba là, tư tưởng về quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Bốn là, tư tưởng về đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Năm là, tư tưởng về chăm
lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Sáu là, tư tưởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Bảy là, tư tưởng về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế
và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
* Thứ tư, về giá trị: Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”. Tài sản tinh thần là khái niệm khó có thể nhận diện một cách cụ thể
nhưng nó lại có khả năng gắn kết cộng đồng, kết dính tâm thức dân tộc. Trong thực
tế tài sản vật chất có thể mất đi nhưng tài sản tinh thần thì luôn bền vững bởi nó
góp phần tạo dựng nên truyền thống văn hóa, tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực
của xã hội đồng thời định hướng giá trị cho tương lai.
Khi nói đến tài sản tinh thần là nói đến sức sống của một di sản trong cộng
đồng, trong lòng dân tộc. Nhân dân ta, Đảng ta đã thừa hưởng một tài sản tinh thần
to lớn là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó chính là niềm tự hào lớn lao của dân tộc Việt
Nam. Xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của
dân tộc ta không chỉ thuần túy như một sự đề cập về vấn đề sở hữu mà còn xác
định ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn, làm giàu và phát huy tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng cho Đảng ta xây
dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và dẫn dắt nhân dân đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình của cách mạng nước ta:
thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng lợi trong kháng chiến

chống Mỹ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
5


Đảng ta đã chỉ rõ: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi cho
công cuộc đổi mới ở nước ta, sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây dựng
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và
trong giai đoạn hiện nay là soi đường cho Đảng và nhân dân ta trên con đường
thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thông qua việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng,
củng cố cho cán bộ, đảng viên lập trường, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái,
bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng Công an nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng Công an nhân dân là một bộ
phận quan trọng trong kho tàng lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng lực lượng Công an nhân dân là ngọn đuốc soi đường, cơ sở
tư tưởng - lý luận cho việc hình thành và phát triển khoa học Công an nhân dân
Việt Nam, gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc
sâu sắc của Công an nhân dân.
Bản chất giai cấp của Công an nhân dân gắn liền với nguồn gốc ra đời và sự
hình thành Nhà nước Dân chủ Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vì vậy, ngay
từ khi ra đời, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã hòa quyện trong mình yếu
tố giai cấp và dân tộc, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng, đấu
tranh với các hoạt động thù địch, xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân
dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế quốc”;

“Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính
sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự
phục vụ nhân dân”. Bản chất giai cấp của Công an nhân dân được thể hiện trước
hết là việc xác định lý tưởng và mục tiêu chiến đấu; ý thức và tinh thần sẵn sàng xả
thân vì sự nghiệp cách mạng; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các
loại tội phạm.
Người dạy Công an nhân dân “phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nghĩ đến
lợi ích toàn dân trước lợi ích cá nhân”. Lực lượng Công an nhân dân sinh ra từ
nhân dân, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, đề cao trách nhiệm trước nhân dân
“phải đi đường lối quần chúng thì nhân dân mới tin yêu, giúp công an và công an
mới thành công được”.
6


Thứ hai, xây dựng người công an nhân dân toàn diện cả về đức và tài nhằm
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trong xây dựng người cán bộ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng
tính toàn diện cả về đức và tài, trong đó đức là gốc. Trong thư gửi đồng chí Hoàng
Mai, Giám đốc Công an khu XII (ngày 11-3-1948), Hồ Chí Minh đã chỉ ra tư cách
người công an cách mạng chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc về tư cách, khái quát
hình mẫu người công an cách mạng với những phẩm chất đặc trưng: sống có lý
tưởng trong sáng, có bản lĩnh, dũng khí và ý chí tiến công cách mạng, tuyệt đối
trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; đoàn kết, gắn bó với đồng chí, đồng
đội; toàn tâm, toàn ý với công việc; cương quyết, khôn khéo với kẻ thù và bọn tội
phạm; sẵn sàng hy sinh bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Thứ ba, xây dựng bộ máy công an phải thiết thực, chắc chắn; phong cách, lề
lối làm việc dân chủ, sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, với địa bàn cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng tư tưởng - chính trị cho công tác xây
dựng tổ chức bộ máy công an nhân dân, Người khẳng định, bộ máy công an nhân
dân phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của Đảng, phải vì nhân dân, phục

vụ nhân dân vô điều kiện; phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Người chỉ đạo: “Xây dựng bộ máy công an nhân dân. Tức là
công an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân... Cách tổ chức công an
phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình thức, giấy má. Lề lối làm việc phải
dân chủ” và “phải củng cố thật tốt công an khu phố, huyện và xã. Đó là những cơ
sở của công an”.
Trong xây dựng tổ chức bộ máy công an, Người đặc biệt coi trọng việc gắn
công tác tổ chức với xây dựng nhân tố con người, lề lối, tác phong làm việc dân
chủ; phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, coi trọng công tác quản lý, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân.
Thứ tư, giáo dục, đào tạo, huấn luyện cán bộ là công việc gốc; là vấn đề hệ trọng,
có ý nghĩa chiến lược trong quá trình thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh,
trật tự.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác giáo dục, đào tạo,
huấn luyện đội ngũ cán bộ công an, Người khẳng định: “Đảng, Chính phủ rất chú ý
đến công tác của công an và đến việc giáo dục cán bộ công an” và chỉ rõ, trong
công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện, việc cốt yếu là làm sao cho người học hiểu
thấu vấn đề; phải gắn liền lý luận với công tác thực tế; huấn luyện phải nhằm đúng
nhu cầu và không học ở nhân dân là một thiếu sót lớn.
Đề cao vai trò của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác sử
dụng cán bộ. Theo Người, phải dùng cán bộ đúng khả năng, chuyên môn; chống
7


việc sử dụng cán bộ không đúng như: bảo thợ rèn đi đóng tủ, bảo thợ mộc đi rèn
dao. Đối với cán bộ công an, phải có chính sách quan tâm đúng đắn, phù hợp và
“những cán bộ có ưu điểm thì phải khen thưởng; người làm trái kỷ luật thì phải
phạt. Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không phạt thì không giữ
vững kỷ luật. Thưởng phạt nghiêm minh là cần thiết”.
3. Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng lực

lượng Công an nhân dân
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
Công an nhân dân, những năm gần đây, thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc và các nghị quyết Hội nghị Trung ương, việc quán triệt, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân được đẩy mạnh và đạt
nhiều kết quả quan trọng. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an
nhân dân được Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an quan tâm chỉ
đạo quyết liệt; gương mẫu, đi đầu trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện đồng
bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, khâu đột phá trong công tác xây dựng lực lượng
Công an nhân dân; liên tục tổ chức các cuộc vận động xây dựng lực lượng Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đẩy mạnh phong
trào học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân lên tầm cao mới;
tạo chuyển biến rõ nét, tích cực trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; “cán
bộ, đảng viên trong Công an nhân dân luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt
đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, không có biểu
hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, vững vàng, trung thành, sẵn sàng vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”. Xác định công
tác cán bộ là khâu đột phá, đã chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm quy
trình, quy chế về công tác cán bộ theo hướng mở rộng dân chủ, công khai, minh
bạch; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ; quy trình
điều động, bố trí và bổ nhiệm cán bộ; chăm lo quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ có chuyên môn cao, kể cả số cán bộ có học hàm, học vị, cán bộ cấp
chiến lược, cán bộ nữ... Đồng thời, tăng cường biên chế cho lĩnh vực mới, địa bàn
phức tạp về an ninh, trật tự; coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, rà soát, tinh
giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ theo hướng tăng cường cho lực lượng
trực tiếp chiến đấu, cho cơ sở và xây dựng công an cấp huyện vững mạnh. Bộ
Công an đã chủ động xây dựng quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy công an các cấp gắn
với việc luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí Giám đốc công an cấp
tỉnh, Trưởng công an cấp huyện không phải là người địa phương. Công tác thanh

tra, kiểm tra và giám sát về công tác cán bộ được thực hiện thường xuyên; chú
8


trọng thi đua khen thưởng, phát hiện và xử lý vi phạm nghiêm minh, kịp thời.
Đồng thời, nghiên cứu đề xuất, thể chế hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến công tác công an; về chế độ chính sách đối với Công an nhân dân đảm
bảo tương quan chung giữa các lực lượng, lĩnh vực.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần XII; Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 và nhất là Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) về sắp xếp, đổi mới, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính trị, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ
Công an đã chủ động nghiên cứu, xây dựng Đề án 106 “Một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”. Mục tiêu của đề án là kiện toàn tổ chức bộ máy Bộ Công an gắn với hoàn
thiện cơ chế, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân,
bảo đảm thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng và hoàn thiện
cơ chế phối hợp giữa Đảng ủy Công an Trung ương với các tỉnh ủy, thành ủy.
Thống nhất thực hiện chế độ thủ trưởng đơn vị đồng thời là bí thư cấp ủy để lãnh
đạo, chỉ đạo kịp thời, hiệu quả các mặt công tác công an. Đồng thời, tạo điều kiện
thuận lợi nhất để bố trí, điều chỉnh lại lực lượng, tăng cường lực lượng chiến đấu,
hướng về cơ sở và bố trí công an xã chính quy để lực lượng công an gần dân hơn,
bám sát cơ sở hơn, nắm tình hình và giải quyết hiệu quả các vấn đề về an ninh, trật
tự ngay từ cơ sở; khắc phục được chồng chéo, chia cắt; tăng cường cải cách hành
chính; tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư, hiện đại hóa trang bị, phương tiện
chiến đấu...
Bên cạnh những thành tựu to lớn và kết quả đã đạt được, công tác xây dựng
lực lượng Công an nhân dân còn bộc lộ một số hạn chế, như: công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng còn hình thức, hiệu quả chưa cao; công tác tổ chức và quản lý
cán bộ ở một số đơn vị chưa được chú trọng đúng mức, hiệu quả còn hạn chế; sai
phạm trong cán bộ, đảng viên tuy có giảm nhưng còn xảy ra một số sai phạm

nghiêm trọng; một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút về tinh thần trách nhiệm,
trung bình chủ nghĩa, thiếu ý thức rèn luyện phấn đấu, văn hóa ứng xử hạn chế,
một số trường hợp vi phạm điều lệnh, quy trình công tác... đã ảnh hưởng không
nhỏ tới uy tín và niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với lực lượng Công
an nhân dân.
4. Một số vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng lực lượng Công an
nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay
Tình hình thế giới, khu vực và trong nước những năm tới tiếp tục diễn biến
phức tạp, đặt ra nhiều thách thức đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự và xây
dựng lực lượng Công an nhân dân. Đáng kể là, sự phát triển của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi căn bản mọi mặt đời sống xã hội;
9


các thế lực thù địch tăng cường thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân
bằng những thủ đoạn mới hết sức thâm độc, hòng làm thay đổi chế độ chính trị,
xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bên cạnh đó,
tình hình tội phạm cũng có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó có nhiều loại tội
phạm mới, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm khủng bố, tội phạm sử dụng công
nghệ cao, những vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng và mang tính
toàn cầu... Để tổ chức quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng Công an nhân dân đạt hiệu quả cao, cần tập trung xử lý tốt một số việc
cụ thể sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện cơ chế, phương thức lãnh
đạo bảo đảm không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với Công an nhân dân. Lực lượng Công an nhân dân thực sự gương
mẫu, đi đầu trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết
của Đảng; trong đó, tập trung việc tổ chức thực hiện Chương trình hành động của
Đảng ủy Công an Trung ương về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4

(khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự
chuyển hóa” trong nội bộ”, gắn với triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, bồi
dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và năng lực
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân. Tiếp tục đổi mới,
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống; mỗi
cán bộ, chiến sĩ công an phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí chiến
đấu, tinh thần cách mạng tiến công, hành động theo Sáu điều Bác Hồ dạy Công an
nhân dân, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện ngại khó, ngại khổ, lơ là trách
nhiệm trong công tác, nhất là tư tưởng trung bình chủ nghĩa của một bộ phận cán
bộ, đảng viên. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cán
bộ có trình độ cao về khoa học công an, có trình độ khoa học - kỹ thuật - công
nghệ cần thiết và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tăng cường công tác quản lý cán bộ, thực hiện tốt quy hoạch, bổ nhiệm,
luân chuyển cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chuẩn bị nhân sự cấp ủy
các cấp trong Công an nhân dân cho nhiệm kỳ mới. Rà soát đội ngũ cán bộ, đảng
viên và quyết liệt trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ, đảm bảo cơ cấu lãnh đạo, chỉ
10


huy từng đơn vị theo quy định; chủ động phát hiện để có biện pháp giáo dục phù
hợp và loại trừ biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong từng đơn vị công an.
Ba là, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, bảo đảm tinh gọn, hợp lý, hiệu quả đối
với các đơn vị nghiên cứu, sự nghiệp, các học viện, nhà trường và doanh nghiệp
trong Công an nhân dân. Coi trọng công tác tư tưởng, xử lý kịp thời những bất cập,

những hệ lụy trong việc điều chỉnh, sắp xếp, bố trí cán bộ. Khẩn trương ban hành
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế công tác, quy trình làm việc,
cơ chế phối hợp, phân công, phân cấp rõ ràng, rành mạch giữa công an các cấp; bố
trí lực lượng quản lý tốt đối tượng, địa bàn, tuyến, lĩnh vực và mục tiêu trọng điểm,
tăng cường cho lực lượng trực tiếp chiến đấu và đầu tư toàn diện cho công an cấp
huyện; nghiên cứu đề xuất cơ sở pháp lý để từng bước xây dựng công an xã chính
quy và lực lượng bảo vệ trị an cơ sở đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ gìn an
ninh, trật tự trên địa bàn.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; biểu dương khen thưởng kịp
thời và nhân rộng điển hình, mô hình tiên tiến; chủ động phát hiện và xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm, đảm bảo phương châm “chủ động, không có vùng cấm,
không có ngoại lệ”, chú trọng các lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ phát sinh sai
phạm. Cán bộ, chiến sĩ vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, minh
bạch, công bằng. Thủ trưởng công an đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm
liên đới nếu không kịp thời phát hiện hoặc phát hiện mà chậm xử lý sai phạm của
cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.

KẾT LUẬN
Giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
bối cảnh tình hình chính trị thế giới và trong nước có nhiều diễn biến rất phức tạp;
11


nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đặt ra
những yêu cầu và nội dung mới. Đất nước có những bước phát triển mới nhưng
vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế, nhất là tình trạng suy thoái ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ tham nhũng, quan liêu, các vấn đề an ninh phi
truyền thống... Bên ngoài, xuất hiện các vấn đề thách thức đối với bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không từ bỏ các

hoạt động chống phá cách mạng nước ta, bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" kết
hợp với bạo loạn lật đổ; chúng thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn hòng "phi chính
trị hóa" lực lượng vũ trang, nhằm tước bỏ quyền lãnh đạo của Đảng đối với Công
an nhân dân, xóa nhòa bản chất giai cấp, làm biến chất chính trị của lực lượng
Công an nhân dân. Trong bối cảnh tình hình đó, để xây dựng lực lượng Công an
nhân dân vững mạnh về chính trị thì mỗi cá nhân, tập thể cán bộ chiến sỹ Công an
nhân dân phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng, thấm nhuần sâu sắc và vận dụng linh hoạt tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng Công
an nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, tr. 312, Tập 7 tr. 269, Tập 9, tr. 310, Tập
11, tr. 599, 599, 248, Tập 14, tr. 72 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
12


(2) Đảng ủy Công an Trung ương, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Công
an Trung ương lần thứ VI, Hà Nội, 2015, tr. 29.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội-2016.
(4) Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Hệ cao cấp lý luận chính trị) (2019);
Nxb Lý luận chính trị.

13



×