Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần than cao sơn - vinacomin.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.8 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU
…………………………………………………………………………...
1
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHI PHÍ VÀ GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN …….
5
1.1. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất ……………………….
5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất chi phí sản xuất …………………
5
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất ……………………………………….
6
1.2. Giá thành sản phẩm ……………………………………………...
10
1.2.1. Khái niệm về giá thành sản phẩm ………………………………. 10
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm …………………………………… 11
1.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và gia thành sản phẩm ……...
12
1.2.4. Các phương pháp tính giá thành ………………………………... 13
1.2.5. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ………………
18
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản ………………
22
1.3.1. Các nhân tố khách quan ………………………………………… 23


1.3.2. Các nhân tố chủ quan …………………………………………… 24
1.4. Công tác quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
trong Tập đoàn công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam …………
26
1.4.1. Sự cần thiết khách quan của quản trị chi phí, giá thành …………
26
1.4.2. Các phương pháp hạ giá thành sản phẩm ……………………….
27
1.4.3. Công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm của
VINACOMIN
29
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM CÁC ĐƠN VỊ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN CỦA
CÔNG TY CỔ PHẢN THAN CAO SƠN - VINACOMIN GIAI
ĐOẠN 2006 – 2010 …………………………..
35
2.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần than Cao Sơn VINACOMIN 35
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ……………………………… 35
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần than Cao Sơn-
VINACOMIN.
37
2.1.3. Đặc điểm khoáng sàng và công nghệ khai thác than của Công ty
cổ phần than Cao Sơn ………………………………………………….
40
2.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2006- 2010
49
2.2.1. Sản lượng sản xuất ………………………………………………
49
2.2.2. Doanh thu ……………………………………………………….
51

2.2.3. Kết quả kinh doanh ……………………………………………..
52
1
1. Tính cấp thiết của luận văn
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
trong quá trình đó cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức cũng không hề ít
đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nắm bắt được
thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành than đã và đang
khẳng định vị thế của một tập đoàn kinh tế vững mạnh. Ngoài việc cung cấp
than đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, Tập đoàn Công nghiệp Than
và Khoáng sản Việt Nam đã và đang đặt những bước chân ra thị trường thế
giới. Do dự báo nhu cầu than cho nền kinh tế đất nước tăng nhanh, Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu ngành than nâng cao sản lượng đến năm 2025 phải cung
cấp cho nền kinh tế đất nước 120 triệu tấn than - gấp 3 lần sản lượng hiện
nay. Để đạt được mục tiêu này, ngành than phải đương đầu và khắc phục các
vấn đề cơ bản là : điều kiện khai thác than càng ngày càng khó khăn do các
khoáng sàng than dễ khai thác đã gần hết; phải tiến hành khai thác than thân
thiện với môi trường để giữ gìn môi trường sống chung của loài người.
Do các điều kiện khai thác xuống sâu và ngày càng khó khăn, cung độ
vận chuyển tăng, tỷ trọng than hầm lò tăng và giá cả đầu vào, chính sách thuế,
chi phí môi trường tăng nên giá thành than năm 2010 tăng 76,5% so với năm
2006 và dự kiến tiếp tục tăng khoảng 5 đến 10% một năm trong các năm tiếp
theo. Nếu so với giá thành sản xuất than của các nước sản xuất than lớn như
Trong Quốc, Mỹ... thì giá thành sản xuất than của nước ta tương đối cao do
năng suất thấp.
Đối với trong nước, chủ yếu cung cấp than cho bốn hộ lớn: điện, xi
măng, giấy và đạm, trong đó than điện chiếm phần lớn và tiếp tục tăng mạnh
trong các năm tới để đáp ứng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

Tuy nhiên giá bán than cho các hộ này còn thấp hơn giá thành (không
theo cơ chế thị trường) do Nhà nước khống chế để ổn định đời sống dân sinh
và nền kinh tế quốc dân, nhưng hiện nay Nhà nước không còn bù đắp phần
chi phí chênh lệch như trước nên tiêu thụ than trong nước không mang lại lợi
nhuận cho ngành than.
Do đó, bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện công tác tổ chức sản
xuất, đầu tư thêm thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng và năng
suất, thì việc tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản
2
xuất than là yêu cầu có tính tiên quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững của
Tập đoàn TKV hiện nay và trong tương lai.
Vinacomin đã, đang và sẽ đặt mục tiêu quản lý sử dụng tiết kiệm chi
sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh lên hàng đầu. Công tác này
đó hoàn thiện qua từng giai đoạn, hoàn thiện cả về cơ chế và phương pháp
quản trị và đó tạo ra lợi nhuận và tiêm lực tài chính chủ yếu của Tập đoàn.
Hiện nay, VINACOMIN áp dụng khoán giá thành theo đơn giá công đoạn
tổng hợp, một phương pháp quản lý chi phí, giá thành tiên tiến, khoa học; đơn
giá được ban hành niêm yết công khai từng công đoạn sản xuất ; trên cơ sở
đơn giá công đoạn và điều kiện sản xuất cụ thể Tập đoàn ban hành giá bán
than nội bộ cho từng đơn vị. Theo cơ chế đó, để tăng lợi nhuận và hiệu quả
sản xuất kinh doanh các công ty thành viên phải có biện pháp quản lý tiết
kiệm chi phí, giảm giá thành sản xuất.
Tuy nhiên, do mục tiêu sản lượng, nên các công ty khai thác than thuộc
VINACOMIN nhiều lúc chưa thật sự quan tâm đến giảm giá thành sản xuất,
còn có tình trạng "sản xuất bằng mọi giá", dẫn đến chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm tăng cao, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp khai thác than nói riêng và của ngành than nói chung.
Xuất phát từ thực tế đó, vấn đề "Nghiên cứu một số giải pháp giảm giá
thành sản phẩm tại Công ty cổ phần than Cao Sơn – VINACOMIN” là vấn đề
có ý nghĩa thiết thực về lý luận, thực tiễn và có tính khả thi cao.

2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở lý luận cơ bản về quản lý giá thành và kết quả nghiên cứu, đánh
giá thực trạng quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần than Cao Sơn - VINACOMIN, đề tài sẽ đưa ra một số giải pháp quản lý
chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm mục tiêu giảm giá thành sản phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận
văn là các biện pháp quản trị chi phí và quản trị sản xuất hợp lý nhằm làm
giảm giá thành sản xuất than.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu thực trạng
quản lý chi phí, giảm giá thành sản xuất than tại Công ty cổ phần than Cao
Sơn. Nguồn tài liệu được sử dụng là các thông tin và số liệu thực tế đã khảo
sát tại Công ty than Cao Sơn trong những năm gần đây làm luận cứ để tìm ra
3
các giải pháp quản lý giảm giá thành sản phẩm áp dụng tại Công ty cổ phần
than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2010 - 2015
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đưa ra
và phân tích các cơ sở lý luận; sử dựng phương pháp thống kê, nghiên cứu so
sánh, phân tích, quy nạp, diễn dịch và phương pháp thực chứng để phân tích
và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Sử dụng điều tra thực tế, thu thập số liệu bằng các phương pháp khảo
sát, thống kê, tổng hợp từ thực tế sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần
than Cao Sơn - VINACOMIN. Kết hợp với phương pháp tham khảo tài liệu
hoặc công trình nghiên cứu của các chuyên gia, các tổ chức tư vấn về các vấn
đề quản lý giá thành sản phẩm nói chung và giá thành sản xuất than nói riêng.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp phần hệ thống hoá các
lý luận về quản trị chi phí, quản trị sản xuất nhằm mục tiêu giảm giá thành

sản xuất trong các doanh nghiệp.
Đề tài đánh giá thực chất hiệu quả công tác quản lý giá thành sản xuất
than lộ thiên của Tập đoàn VINACOMIN nói chung và của Công ty Cổ phần
than Cao Sơn - VINACOMIN nói riêng. Từ đó đưa ra các giải pháp tăng
cường quản lý chi phí sản xuất, hợp lý hoá quá trình sản xuất để giảm giá
thành sản phẩm của Công ty cổ phần than Cao Sơn - VINACOMIN nói chung
và của ngành than nói chung.
7. Nội dung đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được trình bày thành 3 phần
với kết cấu như sau :
Chương 1 . Tổng quan về chi phí và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp khai thác khoáng sản
Chương 2. Phân tích thực trạng giá thành sản phẩm của Công ty cổ
phần than Cao Sơn - VINACOMIN giai đoạn 2006 - 2010
Chương 3 . Một số giải pháp giảm giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần than Cao Sơn -VINACOMIN.
8. Cơ sở tài liệu
Để thực hiện luận văn tác giả đã đi thực tế, thu thập số liệu, tham khảo
lý thuyết, văn bản pháp quy có liên quan đến đề tài ở Vinacomin, thư viện
4
quốc gia, giáo trình cao học của Trường Đại học Mỏ Địa chất, nhất là sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo ở Khoa Kinh tế - QTKD và nhiều trường Đại học
khác. Nhân đây, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân thành sự
giúp đỡ của các cơ sở thực tế, trường Đại học Mỏ - Địa chất trong quá trình
thu thập số liệu và viết luận văn.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
1.1. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất [1; 2; 3]

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, bản chất chi phí sản xuất
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình
sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn
liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản
xuất. Nói cách khác quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của ba
yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá
trình sản xuất cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố trên. Sự tham gia của các
yếu tố đó vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau và hình
thành khoản chi phí tương ứng. Để tạo ra sản phẩm, lao vụ dịch vụ thì các
doanh nghiệp phải chi ra các khoản chi phí chủ yếu đó là: hao phi về lao động
vật hoá như: chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, khấu hao tài sản cố
định.... hao phí lao động sống cần thiết như: chí phí về tiền lương, tiền công
phải trả cho người lao động, các khoản tính theo lương....Đó chính là chi phí
sản xuất kinh doanh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp.
Như vậy chi phí có thể hiểu một cách trìu tượng là biểu hiện bằng tiền
của những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chi phí là những phí tổn về nguồn
lực, tài sản cụ thể sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Những nhận thức về chi
phí có thể khác nhau về quan điểm, hình thức thể hiện nhưng tất cả đều thừa
nhận một vấn đề chung: chi phí là phí tổn về tài nguyên, vật chất, lao động và
phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh.
Bản chất của chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá
trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
Về mặt lượng thì chi phí sản xuất phụ thuộc vào 2 nhân tố:
Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất tham gia vào một thời kỳ nhất
định. Giá cả của các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền công của một đơn vị
lao động đã hao phí. Chi phí là một phạm trù chung, khái quát nên khi hoạt
động chi tiêu còn đơn giản việc sử dụng phạm trù này không gây ra nhiều rắc
rối song khi kinh doanh đã ở qui mô lớn, chu kì kinh doanh kéo dài,... thì việc
sử dụng chỉ riêng phạm trù chi phí sẽ trở thành bất tiện và thậm chí rất bất

tiện. Vì lẽ đó, phạm trù chi phí đã được phát triển thành ba phạm trù cụ thể
hơn là chi tiêu, chi phí tài chính và chi phí kinh doanh.
6
Chi tiêu (chi ra): là lượng tiền một doanh nghiệp đã trả cho một người,
một nhóm người hoặc một tổ chức nào đó. Chi tiêu gắn chặt với các quá trình
thanh toán thuần tuý tài chính cho nên chỉ được sử dụng trong kế toán tài chính.
Chi phí tài chính: là sự giảm tài sản ròng, là hao phí của một thời kỳ
tính toán được tập hợp ở kế toán tài chính. Chi phí tài chính của một thời kỳ
tính toán xác định là chi tiêu gắn liền với kết quả của thời kỳ đó. Chi phí tài
chính là chi phí gắn với kế toán tài chính.
Chi phí kinh doanh: là là sự hao phí xét trên phương diện giá trị các
vật phẩm và dịch vụ để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng như để duy trì
năng lực sản xuất cần thiết cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó.
Chi phí kinh doanh có ba đặc trưng bắt buộc: một là, chi phí kinh
doanh phải là sự hao phí vật phẩm và dịch vụ gắn với từng thời kì; hai là, sự
hao phí vật phẩm và dịch vụ phải gắn liền với kết quả do sự hao phí đó gây
ra; ba là, những vật phẩm và dịch vụ hao phí đó phải được đánh giá theo
nguyên tắc bảo toàn tài sản về mặt hiện vật. Chi phí kinh doanh là chi phí gắn
với kế toán quản trị.
Mặc dù cùng là chi phí nhưng chi phí kinh doanh khác với chi phí tài
chính về cả nội dung và độ lớn. Về bản chất, có nội dung chi phí mà có sự
trùng lặp giữa chi phí kinh doanh và chi phí tài chính, cũng có các nội dung
chi phí mà chi phí kinh doanh khác biệt so với chi phí tài chính và cũng có nội
dung chi phí mà chi phí tài chinh khác biệt so với chi phí kinh doanh.
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Khi xét về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí .. của chi phí
trong quá trình kinh doanh, chi phí có rất nhiều loại khác nhau. Để tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán chi phí, cần phải phân loại
chi phí hay sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm theo đặc trưng
nhất định. Trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại khác nhau, tuy nhiên, lựa

chọn tiêu thức phân loại nào là phải dựa vào yêu cầu của công tác quản lý.
Sau đây, ta xem xét một số cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu:
a) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí (theo tính
chất, nội dung kinh tế của chi phí
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Về thực
chất chủ yếu có ba yếu tố chi phí là chi phí về sức lao động, chi phí về đối
tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên để cung cấp thông
tin về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân
tích định mức vốn lưu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí,
7
các yếu tố chi phí trên có thể được chi tiết hoá theo nội dung kinh tế cụ thể
của chúng. Theo cách' phân loại này thì chi phí được chia làm bảy yếu tố:
Yếu tố nguyên vật liệu : Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ, . . . sử dụng vào sản xuất -
kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu
thu hồi).
Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất - kinh doanh
Yếu tố tiền lương và các khoản có tính chất lương: phản ánh tổng số
tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho người lao động Yếu
tố BHXH, BHYT, KPCĐ: tính theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và
phụ cấp lương phải trả cho người lao động
Yếu tô khâu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố
định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh
doanh trong kỳ.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ dịch vụ mua ngoài
dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào việc sản xuất kinh doanh trong
kỳ. Cách phân loại này là để tập hợp chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đồng nhất của chi phí mà không xét đến công dụng, địa điểm phát sinh của

chi phí. Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý chi phí sản xuất,
nó cho biết tỷ trọng từng yếu tố chi phí qua đó đánh giá, phân tích tình hình
thực hiện chi phí sản xuất, cung cấp tài liệu cho việc lập dự toán chi phí sản
xuất. Tuy nhiên cách phân loại này có nhược điểm là không tính được giá
thành cho từng đơn vị sản phẩm do không phân biệt được chi phí theo mục
đích và công dụng.
b) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo chức năng hoạt động
Cách phân loại này căn cứ vào chức năng hoạt động mà chi phí phát
sinh để phân loại. Toàn bộ chi phí được chia thành 2 loại là chi phí sản xuất
và chi phí ngoài sản xuất.
Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc chế tạo sản
phẩm hoặc dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Đối với các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp, chi phí sản xuất được chia thành 3 loại:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị của nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,.. dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm.
8
Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các
khoản trích theo lương cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đ/tấn của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất
sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.
Đây là những chi phí phát sinh tại phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh
nghiệp.
Chi phí ngoài sản xuất: là các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu
thụ sản phẩm và quản lý chung toàn doanh nghiệp, bao gồm:
Chi phí bán hàng: là toàn bộ những chi phí phát sinh cần thiết để tiêu
thụ hàng hoá, sản phẩm; bao gồm các khoản chi phí như vận chuyển, bốc vác,
bao bì, lương nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, khấu hao TSCĐ và
những chi phí liên quan đến dự trữ, bảo quản sản phẩm, hàng hoá, . .
Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ những chi phí chi ra cho việc

tổ chức và quản lý trong toàn doanh nghiệp. Đó là những chi phí hành chính,
kế toán, quản lý chung . .
Cách phân loại này giúp thấy rõ được chức năng của từng khoản mục
chi phí mà không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào và giúp
cho nhà quản trị dự toán được các khoản mục trọng yếu trong chi phí sản xuất
sản phẩm, cung cấp số liệu cho việc xây dựng kế hoạch giá thành và quản lý
giá thành theo khoản mục chi phí, từ đó xác định nguyên nhân, đề ra các giải
pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
c) Phân loại chi phí sản xuất theo cách thức kết chuyển chi phí
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi
phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản
xuất ra hoặc được mua. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì
các chi phí này bảo gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi phí sản phẩm được xem là gắn liền
với từng đơn vị sản phẩm, hàng hoá khi chúng được sản xuất ra hoặc được
mua vào, sản phẩm, hàng hoá tồn kho và khi sản phẩm, hàng hoá được tiêu
thụ thì mới trở thành phí tổn để xác định kết quả kinh doanh.
Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó,
bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, nó không phải là
một phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là các
phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Đối
9
với các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hoặc trong kỳ không
có hoặc có ít doanh thu thì chúng được tính thành phí tổn của kỳ sau để xác
định kết quả kinh doanh.
d) Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí
Cách phân loại này căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng chịu
chi phí để phân loại, chi phí được chia thành 2 loại:

Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến đối tượng
chịu chi phí và được hạch toán vào đối tượng có liên quan. Thông thường chi
phí trực tiếp là các chi phí đơn nhất cấu tạo bởi một yếu tố như: chi phí
nguyên vật liệu, chi phí tiền lương,..
Chi phí gián tiếp: là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu
chi phí, do đó nó được phân bổ vào các đối tượng có liên quan theo các tiêu
thức nhất định. Chi phí gián tiếp thường là những chi phí tổng hợp của nhiều
chi phí đơn nhất.
e) Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách ứng xử của chi
phí
Với các cách phân loại nêu trên, các chi phí phát sinh được xem là các thông
tin quá khứ, độ lớn của nó chỉ có thể được xác định sau khi các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành. Chính vì vậy, các cách phân loại chi
phí trên chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị trong việc
xác định các xu hướng biến động và mối quan hệ giữa chi phí phát sinh, sản
lượng thực hiện và lợi nhuận thu được; lập kế hoạch và lựa chọn các phương
án kinh doanh hiệu quả nhất. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
thường được áp dụng trong kế toán quản trị, cách phân loại này sẽ khắc phục
những hạn chế kể trên. Nguyên tắc phân loại dựa trên mối quan hệ của chi phí
phát sinh với mức độ, quy mô của hoạt động làm phát sinh chi phí ấy. Theo
cách phân loại này, chi phí được chia thành biến phí (chi phí biến đổi), định
phí (chi phí cố định) và chi phí hỗn hợp.
Biến phí. là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó có quan hệ tỷ lệ
thuận với mức độ hoạt động. Tuỳ thuộc vào đặc điểm và nội dung cụ thể của
hoạt động mà người ta lựa chọn tiêu thức phù hợp để xác định mức độ hay
quy mô của hoạt động tương ứng. Biến phí có đặc điểm là tổng biến phí tỷ lệ
thuận với mức độ hoạt động còn biến phí đơn vị thì mang tính ổn định, không
biến động khi mức độ hoạt động thay đổi. Biến phí thường bao gồm các
khoản mục chi phí trực tiếp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như:
chi phí nguyên, nhiên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp...

10
Định phí. là những khoản mục chi phí mà độ lớn của nó không đổi về
tổng số khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp. Phạm vi phù
hợp là phạm vi giữa mức độ hoạt động tối thiểu và mức độ hoạt động tối đa
mà đơn vị dự tính thực hiện. Định phí có đặc điểm là tổng định phí ổn định,
không biến động khi mức độ hoạt động thay đổi còn định phí đơn vị tỷ lệ
nghịch với mức độ hoạt động. Định phí thường bao gồm các khoản chi phí
gián tiếp như các chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng,
phương tiện kinh doanh...
Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và yếu tố
định phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí sửa chữa thường xuyên tài
sản cố định. ở một khối lượng sản phẩm sản xuất nhất định thì chi phí hỗn
hợp thể hiện đặc điểm của định phí, vượt trên khối lượng đó thì chi phí hỗn
hợp thể hiện đặc điểm của biến phí.
f) phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh:
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn
bộ chi phí được chia ra làm 3 loại:
Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, quản lý doanh nghiệp.
Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt
động vay nợ, đầu tư tài chính, mua bán chứng khoán.
Chi phí hoạt động khác: Gồm các chi phí ngoài dự kiến như chi phí về
thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, chi phí về nộp phạt. Chi phí sản xuất
trong doanh nghiệp bao gồm nhiều loại và có thể được phân chia ra nhiều tiêu
thức khác nhau phục vụ cho công tác quản lý, kiểm tra tính hiệu quả sử dụng
chi phí cho từng bộ phận sản xuất và cho toàn doanh nghiệp. Từ việc xem xét
chi phí ở từng góc độ khác nhau và mục đích, yêu cầu quản lý mà ta chọn lựa
tiêu thức phân loại cho phù hợp với thực tế doanh nghiệp.
1.2. Giá thành sản phẩm
1.2.1. Khái niệm về giá thành sản phẩm

Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao
phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công
tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Bản chất giá thành là chi phí và là chi
phí có mục đích được sắp xếp theo yêu cầu của các nhà quản lý. Là sự dịch
chuyển giá trị của các yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm hoàn thành và được
tiêu thụ. Tính toán giá trị sản phẩm chính là tinh toán xác định sự dịch chuyển
các yếu tố vật chất tham gia vào khối lượng sản phẩm vừa được sản xuất hoàn
11
thành và tiêu thụ nhằm mục đích thực hiện chức năng của giá thành sản phẩm
là chức năng bù đắp, chức năng lập giá và chức năng đòn bẩy kinh tế. Về mặt
bản chất chi phí và giá thành sản phẩm giống nhau, nghĩa là cùng biểu hiện
bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa bỏ ra, nhưng
khác nhau về mặt lượng. Khi nói đến chi phí sản xuất là giới hạn chúng cho
một thời kỳ nhất định, không phân biệt là cho loại sản phẩm nào, đã hoàn
thành hay chưa, còn khi nói đến giá thành sản phẩm là nói là xác định một
lượng chi phí sản xuất nhất định tinh cho một đại lượng kết quả hoàn thành
nhất định. Đứng trên giác độ quá trình hoạt động để xem xét, thì quá trình sản
xuất là một quá trình hoạt động liên tục, còn việc tính giá thành sản phẩm là
một điểm cắt có tính chu kỳ để so sánh chi phí với đại lượng kết quả, nên tại
thời điểm tính giá thành có thể có khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành,
chứa đựng một lượng chi phí cho nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Tương tự như vậy, đầu kỳ có thể có một lượng sản phẩm sản xuất chưa hoàn
thành ở kỳ trước chuyển sang kỳ này để tiếp tục sản xuất chứa đựng một
lượng chi phí sản xuất cho nó, gọi là chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ. Như
vậy giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ bao gồm chi phí sản xuất của kỳ
trước chuyển sang và một phần chi phí phát sinh trong kỳ. Hơn nữa, giá thành
sản phẩm mang tính chủ quan, phụ thuộc vào những phương pháp tính toán
phân bổ như việc ghi nhận trước vào giá thành sản phẩm những khoản được
coi là chi phí nhưng thực tế chưa phát sinh hoặc những chi phí thực tế đã chi
ra nhưng được phân bổ cho nhiều kỳ, nhằm đảm bảo một sự ổn định tương

đối cho giá thành sản phẩm qua các thời kỳ.
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá, giá thành được
xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau, có nhiều cách
phân loại giá thành khác nhau.
a) Theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành
được chia làm ba loại:
Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trước khi bước vào kinh
doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, dự toán chi phí
của kỳ kế hoạch. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu, là căn cứ để phân
tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, thực hiện nhiệm vụ hạ
giá thành, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Giá thành định mức: được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản
phẩm. Trong khi giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức
12
bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch thì giá thành
định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng
thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi
phù hợp với các thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình
sản xuất.
Giá thành thực tế. là chi tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình
sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn trong
việc vận dụng các giải pháp về kinh tế, tổ chức, kỹ thuật, . . . để tiến hành quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ để nhà quản lý xem
xét, định giá bán sản phẩm và xác định nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước
đồng thời phân chia kết quả kinh doanh. Cách phân loại này có tác dụng trong
việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được nguyên nhân vượt hay hụt
định mức chi phí trong kỳ hạch toán từ đó để có biện pháp điều chỉnh chi phí

cho phù hợp.
b) Xét theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành hai loại:
Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả
những chi phí phát sinh liên quan đến sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm
vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm chi phí vật liệu trực tiếp, nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các
khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí
sản xuất, quản lý và bán hàng). Giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành
đầy đủ hay giá thành toàn bộ và được tính theo công thức:
Giá thành
toàn bộ
=
Giá thành sản
xuất sản phẩm
+
Chi phí quản
lý doanh
nghiệp
+
Chi phí tiêu (1.1)
thụ sản phẩm
1.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và gia thành sản phẩm
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau vì quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt:
hao phí sản xuất và kết quả sản xuất. Cả chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra
cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu
kinh tế trong đó chi phí sản xuất phản ánh hao phí sản xuất còn giá thành sản
phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Hơn nữa trong công tác hạch toán kế

13
toán, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai công
việc liên tiếp và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở
để tính giá thành sản phẩm, sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất có thể
ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Đồng thời công tác tập hợp chi phí sản
xuất chính xác, đầy đủ, một cách khoa học và hợp lý sẽ làm tăng tính chính
xác của thông tin giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có những điểm
khác nhau. Về mặt thời gian, chi phí sản xuất gắn liền với một thời kỳ nhất
định còn giá thành sản phẩm liên quan đến nhiều kỳ. Về mặt giá trị chi phí
sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra trong kỳ sản xuất kinh doanh không
tính đến việc chi phí đó có liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành
hay chưa trong khi đó giá thành sản phẩm là chỉ tiêu luôn gắn với sản phẩm
hoàn thành, bao gồm những chi phí tính cho khối lượng sản phẩm hoàn thành
trong kỳ mà không tính đến chi phí đó phát sinh ở kỳ nào.
Ta có công thức thể hiện mối liên hệ giữa giá thành sản phẩm và chi
phí sản xuất như sau:
Tổng giá
thành sản
phẩm hoàn
thành
=
Chi phí
sản xuất
dở dang
+
Chi phí sản
xuất phát sinh
trong kỳ (đã trừ
các khoản thu

hồi ghi giản chi
phí)
+
Chi phí sản
xuất dở
dang cuối
kỳ
(1.2)
Như vậy, nếu giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau
hay không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi
phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Nói một cách khác, chi phí sản xuất ảnh
hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá
thành sản phẩm. Nếu tiết kiệm chi phí sản xuất thì sẽ hạ giá thành sản phẩm.
1.2.4. Các phương pháp tính giá thành
1.2.4.1. Phân biệt đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành.
a) Đối tượng tập hợp chi phí: Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là
phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất cần được tập hợp theo nó. Thực chất là
việc xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí để cung cấp số liệu tính
giá thành và phục vụ cho công tác quản lý.
Nơi phát sinh chi phí: Phân xưởng, đội sản xuất, bộ phận chức năng...
Nơi gánh chịu chi phí: Sản phẩm, công việc, lao vụ, công trình, hạng
mục công trình, đặt hàng...
14
Căn cứ vào đặc điểm tình hình cụ thể của doanh nghiệp và dựa trên
những căn cứ sau để xác định đúng đồi tượng tập hợp chi phí sản xuất :
+ Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: Có phân
xưởng, không có phân xưởng.
+ Căn cứ vào đặc điểm của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm: sản
xuất giản đơn, sản xuất phức tạp, quy trình công nghệ liên tục...
b) Đối tượng tính giá thành: Đối tượng tính giá thành là những sản

phẩm, công việc lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành cần phải tính tổng giá thành và
giá thành đơn vị Tuỳ theo đặc điểm, tình hình của doanh nghiệp mà đối tượng
tính giá thành có thể là:
Từng công việc, đơn đặt hàng, sản phẩm đã hoàn thành.
Từng loại thành phẩm, bộ phận chi tiết sản phẩm.
Từng công trình, hạng mục công trình.
Như vậy, xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất chính là việc xác
định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và
nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định
sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị.
Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang
trên dây chuyền sản xuất, tuỳ theo yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế mà
doanh nghiệp áp dụng.
1.2.4.2. Các phương pháp tính giá thành
a) Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn)
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình
sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu
kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác
(quặng, than, gỗ...).
Giá thành sản phẩm được tính trực tiếp như sau:
Trường hợp cuối kỳ không có sản phẩm dở dang thì không phải tổ chức
đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ và khi đó:
Giá thành đơn vị
Sản phẩm hoàn thành
=
Tổng chi phí sản xuất
Số lượng sản phẩm hoàn thành
(1.3)
Trường hợp cuối kỳ có nhiều sản phẩm dở dang và không ổn định thì
kế toán phải tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ và khi đó:

Tổng giá
thành sản
= Chi phí sản
xuất phát
+ Chi phí sản
xuất dở
- Chi phí sản
xuất dở dang (1.4)
15
xuất thực tế sinh trong kỳ dang đầu kỳ cuối kỳ
Giá thành đơn vị
sản phẩm h
=
Tổng giá thành sản xuất thực tế
Khối lượng sản phẩm hoàn thành
(1.5)
b) Phương pháp tính giá thành
Phương pháp này áp dụng trong những doanh nghiệp thuộc loại hình
sản xuất phức tạp kiểu chế biến liên tục. Bán thành phẩm của bước trước là
đối tượng chế biến của bước sau và đến bước cuối cùng mới tạo ra được thành
phẩm. Để tính được giá thành của thành phẩm ta phải lần lượt tính giá thành
của bán thành phẩm bước trước tuần tự theo các bước kế tiếp sau và cuối
cùng mới tính được giá thành của thành phẩm.
Đối tượng hạch toán chi phí là từng bước của quy trình công nghệ. Đối
tượng tính giá thành có thể là bán thành phẩm từng bước và thành phẩm ở
bước cuối cùng, hoặc cũng có thể chỉ là thành phẩm ở bước cuối cùng.
* Tính giá thành phân bước theo phương án có bán thành phẩm:
Phương pháp này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu
hạch toán nội bộ cao hoặc có bán bán thành phẩm ra bên ngoài. Đặc điểm của
phương pháp này là khi tập hợp chi phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ,

giá trị bán thành phẩm của các bước trước chuyển sang bước sau được tính
theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng khoản mục chi phí và gọi
là kết chuyển tuần tự.
Dở dang
đầu kỳ
bước 1
+
Chi phí
NVL
+
Chi phí
chế biến
Bước 1
-
Dở dang
đầu kỳ
Bước 1
=
Z bán
thành
phẩm
Bước 1
Z bán
thành
phẩm
Bước 1
+
Dở dang
đầu kỳ
Bước 2

+
Chi phí
chế biến
Bước 2
-
Dở dang
cuối kỳ
Bước 2
=
Z bán
thành
phẩm
Bước 2
Z bán
thành
phẩm
Bước n-1
+
Dở dang
đầu kỳ
Bước n
+
Chi phí
chế biến
Bước n
-
Dở dang
đầu kỳ
Bước n
=

Σ Giá
bán thành
phẩm
Hình 1.1. Sơ đồ trình tự tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành phân bước theo
phương án hạch toán có bán thành phẩm
* Tính giá thành phân bước theo phương án không có bán thành phẩm:
16
Trong những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kế toán nội bộ không
cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài thì chi phí
phát sinh trong mỗi giai đoạn được tính nhập vào giá thành thành phẩm một
cách đồng thời, song song nên còn gọi là kết chuyển song song. Theo phương
án này kế toán không cần tính giá thành bán thành phẩm hoàn thành trong
từng giai đoạn mà chỉ tính giá thành thành phẩm hoàn thành bằng cách tổng
hợp chi phí nguyên vật liệu chính và các chi phí chế biến khác trong các giai
đoạn công nghệ. Có thể phản ánh phương pháp này qua sơ đồ sau:
Hình 1.2. Sơ đồ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành phân bước theo
phương án không có bán thành phẩm
c) Phương pháp hệ số.
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp một đối tượng hạch toán
chi phí tương ứng với nhiều đối tượng tính giá thành, thích hợp với những
doanh nghiệp trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên
liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều loại sản phẩm
khác nhau và chi phí không thể tập họp riêng cho từng loại sản phẩm được mà
phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất Theo phương pháp này, doanh
nghiệp phải xác định được hệ số chi phí cho từng đối tượng tính giá thành hay
từng sản phẩm. Sau đó, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy các
loại sản phẩm về sản phẩm tiêu chuẩn, từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan
đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm tiêu
chuẩn và giá thành từng loại sản phẩm.
Tổng số sản phẩm

gốc đã quy đổi
=

=
n
i 1
Số lượng của từng
loại sản phẩm
x
Hệ số quy đổi
sản phẩm từng
loại
(1.6)
17
Chi phí vật liệu chính tính cho thành phẩm
Chi phí vật liệu chính tính cho thành phẩm
Chi phí vật liệu chính tính cho thành phẩm
Chi phí vật liệu chính tính cho thành phẩm
Tổng
giá
thành
sản
phẩm
hoàn
thành
Giá thành đơn vị
sản phẩm tiêu
chuẩn
=
Tổng giá thành của tất cả cá loại sản phẩm

Tổng số sản phẩm tiêu chuẩn đã quy đổi
(1.7)
Sau khi xác định được giá thành của sản phẩm quy đổi, xác định giá
thành thực tế của sản phẩm theo công thức sau:
Giá thành đơn vị
Sản phẩm từng loại
=
Giá thành đơn vị
sản phẩm tiêu
chuẩn
X
Hệ số quy đổi
sản phẩm từng
loại
(1.8)
d) Phương pháp tỷ lệ
Theo phương pháp này, căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất
thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức) để tính giá thành đơn vị
và tổng giá thành sản phẩm tùng loại.
Giá thành đơn vị
sản phẩm từng
loại
=
Giá thành kế hoạch (hoặc
định mức) đơn vị sản phẩm
từng loại
X
Tỷ lệ chi
phí
(1.9)

Trong đó:
Tỷ lệ
chi phí
=
Tổng giá thành thực tế của tất cả sản phẩm
Tổng giá thành kế hoạch (hoặc đinh mức) của tất cả
sản phẩm
x100 (1.10)
Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp một đối tượng hạch
toán chi phí tương ứng với nhiều đối tượng tính giá thành . Khi áp dụng
phương pháp tỷ lệ chi phí, các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm sẽ
giảm được khối lượng công việc cần hạch toán, việc tính giá thành sản phẩm
sẽ thuận lợi hơn.
e) Phương pháp liên hợp :
Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản
xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc
tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh
nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, đóng giầy, may mặc... Trên thực tế, có thể
kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ
lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ...
18
Tuy nhiên, doanh nghiệp nên áp dụng nhất quán một phương pháp hạch
toán chi phí với phương pháp tính giá thành đã lựa chọn bởi việc doanh
nghiệp lựa chọn phương pháp hạch toán chi phí và phương pháp tính giá
thành là dựa trên những căn cứ như quy mô sản xuất kinh doanh, quy trình
công nghệ sản xuất sản phẩm và đối tượng hạch toán cũng như đối tượng tính
giá thành sản phẩm đã xác định phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
1.2.5. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để
đánh giá được hiệu quả của quá trình sản xuất. Thông qua việc phân tích giá

thành sản phẩm để đánh giá toàn bộ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức
sản xuất mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá trình sản xuất và việc sử dụng
các yếu tố đầu vào đã phù hợp chưa.
Phân tích giá thành còn biết được nguyên nhân và các nhân tố làm cho
chi phí biến động, ảnh hưởng tới giá thành từ đó người quản lý sẽ có các
quyết định tối ưu hơn. Nội dung của phân tích chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm gồm:
1.2.5.1.Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm:
Để cung cấp những thông tin khái quát về hình hình tiết kiệm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm cho nhà quản lý, công việc đầu tiên của nhà phân tích
chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm là tiến hành đánh giá chung tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm.
Khi đánh giá chung, nhà phân tích tính ra và xem xét chỉ tiêu "Tỷ lệ %
thực hiện kế hoạch giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hoá". Chỉ tiêu này
được tính như sau:
100
)(
(%)
1
1
x
ZQ
ZQ
R
n
i
lili
n
i
lili



=
=
=
(1.11)
Trong đó :
R:Tỷ lệ % thực hiện kế hoạch giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hoá.
Q
li
: Số lượng sản phẩm i sản xuất kỳ thực tế.
Z
oi
, Z
li
: Giá thành công xưởng đơn vị sản phẩm i kỳ kế hoạch kỳ thực tế.
Căn cứ vào kết quả tính toán, nếu R <100% thì chứng tỏ doanh nghiệp
đã tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Khi đó chênh lệch giá thành theo
19
số tuyệt đối sẽ mang dấu (-); nghĩa là số chênh lệch này chính là số chi phí
tiết kiệm được do hạ giá thành tính trên sản lượng sản phẩm sản xuất thực tế.
Ngược lại nếu R > 1 00% chứng tỏ giá thành thực tế cao hơn kế hoạch
và khi đó chênh lệch giá thành theo số tuyệt đối sẽ mang dấu (+), số chênh
lệch này phản ánh số chi phí vượt tính trên lượng sản phẩm sản xuất thực tế.
1.2.5.2. Phân tích tình hình biến động của một yếu tố và khoản mục chi
phí trong giá thành sản phẩm
Như đã đề cập ở phần trên, do chi phí sản xuất có nhiều loại với tính
chất, kết cấu, công dụng và mục đích sử dụng khác nhau, nên để biết được sự
thay đổi cũng như nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của từng loại, cần thiết
phải đi sâu xem xét tình hình biến động của từng yếu tố và khoản mục chi

phí. Dưới đây là nội dung và phương pháp phân tích một số yếu tố và khoản
mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí sản xuất :
a) Phân tích khoản mục chi phí nguyên, nhiên, vật liệu
Chi phí nguyên, nhiên vật liệu trực tiếp bao gồm toàn bộ các chi phí về
nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... mà doanh nghiệp đã bỏ ra có
liên quan trực tiếp đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch
vụ. Đây là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm sản
xuất.
Trong quá trình sản xuất cùng với việc nâng cao trình độ cơ giới hoá, tự
động hoá và hiệp tác hoá sản xuất, năng suất lao động được tăng lên không
ngừng dẫn đến sự thay đổi cơ cấu chi phí trong giá thành sản phẩm . tỷ trọng
hao phí lao động sống giảm thấp và ngược lại tỷ trọng hao phí lao động vật
hoá tăng lên. Vì vậy phân tích sự ảnh hưởng của nguyên, nhiên, vật liệu nhằm
tìm biện pháp giảm bớt chi phí này trong giá thành đơn vị sản phẩm.
Phân tích chi phí vật liệu được tiến hành theo trình tự sau:
Bằng phương pháp so sánh thực tế với dự toán sẽ xác định số
chênh lệch chi phí vật liệu (tiết kiệm hoặc vượt chi).
Xác định các nhân tố ảnh hưởng là giá cả vật liệu đưa vào sản xuất và
tìnhhình thực hiện định mức hao phí vật liệu. Việc thay đổi cơ cấu vật liệu sử
dụng so với kế hoạch cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến chi phí về vật liệu.
Mức tăng (giảm) chi phí vật tư cho 1 đơn vị sản phẩm thực hiện so với
kế hoạch ảnh hưởng đến sự biến động của giá thành sản phẩm được tính như sau:
Số tuyệt đối:
∑ ∑
= −
−=
n
i
oii
n

i
lili
GmGmC
1
0
1
(1.12)
20
Số tương đối:
100(%)
0
1
00
1
x
Z
GmGm
t
n
i
iili
n
i
li
∑∑
==

=
(1.13)
Trong đó:

+ Z
o
là giá thành sản xuất kế hoạch của 1 đơn vị sản phẩm
+ G
l
(G
o
) Là giá thực tế và kế hoạch của vật tư i.
+ m
1
(m
o
) Là mức tiêu hao thực tế và kế hoạch vật tư i cho 1 đơn vị sản
phẩm.
Nếu kết quả tính được là số âm (-) : doanh nghiệp đã giảm được chi phí
vật tư và làm giảm giá thành sản phẩm (cả về số tuyệt đối và tương đối).
Nếu kết quả tính được là số dương (+) thì ngược lại
Nếu kết quả tính được bằng không ( =0) chứng tỏ tình hình chi phí vật
tư của Xí nghiệp không có ảnh hưởng gì đến biến động của giá thành sản
phẩm.
Ta có thể đi sâu phân tích tình hình trên theo các nhân tố ảnh hưởng:
Do sự thay đổi giá cả nguyên vật liệu, do mức hao phí vật tư cho 1 đơn vị sản
phẩm thay đổi, do thay đổi chủng loại vật tư làm giá thành biến động.
Do thay đổi đơn giá của nguyên vật liệu
Đơn giá nguyên vật liệu bao gồm giá mua vật liệu và chi phí thu mua
vật liệu như chi phí bốc xếp, vận chuyển, bốc dỡ, chi phí bảo quản, chi phí về
bến bãi và các khoản thuế; chi phí cho các trạm thu mua độc lập và chi phí
khác phải tính vào giá thành thực tế của vật liệu theo quy định chung. Nhân tố
giá mua vật liệu thường là nhân tố khách quan, nhưng do chịu ảnh hưởng của
tình hình cung cầu trên thị trường nên nếu doanh nghiệp biết chớp lấy thời cơ

mua theo những nguồn cung cấp khác nhau thì cũng có thể tác động tới giá
mua vật liệu.
Chi phí thu mua là nhân tố chủ quan phụ thuộc vào chất lượng công tác
cung ứng của doanh nghiệp; loại chi phí này phụ thuộc vào nguồn nhập vật
liệu, địa điểm mua, điều kiện phương tiện vận chuyển, trình độ cơ giới hoá
các nghiệp vụ kho, bốc xếp dỡ vật liệu...
Do mức tiêu hao nguyên vật liệu thay đổi
Tổng mức tiêu hao vật liệu trong kỳ tăng, giảm so với kế hoạch
Thường chịu sự tác động của các nhân tố là:
- Sự thay đổi mức tiêu hao nguyên vật liệu cho 1 đơn vị sản phẩm.
- Sự thay đổi số lượng sản phẩm sản xuất.
- Sự thay đổi của các nhân tố sử dụng nguyên vật liệu.
21
Người ta đặc biệt quan tâm đến các phương pháp giảm mức tiêu hao
nguyên nhiên, vật liệu cho một đơn vị sản phẩm.
Phương pháp phấn đấu tiết kiệm mức tiêu hao vật tư, nhiên liệu trong
quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp khai thác khoáng sản thường tập trung
vào các biện pháp cải tiến kỹ thuật, trang sắm thiết bị, công nghệ tiên tiến để
giảm mức tiêu hao vật tư, nhiên liệu; tổ chức sản xuất hợp lý để nâng cao
năng suất thiết bị giảm mức tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm.
b) Phân tích khoản mục chi phí nhân công trực tiếp
Là phân tích khoản mục chi phí nhân công trực tiếp trong giá thành đơn
vị sản phẩm là phân tích lương và các khoản trích theo tỷ lệ tiền lương cho
các quỹ KPCĐ, BHXH, BHYT trả cho lao động trực tiếp sản xuất kinh
doanh. Trình tự phân tích chi phí tiền lương:
Tính chênh lệch
tiền lương tuyệt đối
=
Quỹ lương
thực tế

-
Quỹ lương (1.14)
kế hoạch
Nếu: - Chênh lệch có dấu (-) là hụt chi quỹ lương
- Chênh lệch có dấu (+) là vượt chi quỹ lương
Tính chênh lệch
tương đối quỹ
lương
=
Quỹ lương
thực tế -
Quỹ lương
kế hoạch
X
Tỷ lẹ hoàn thành
kế hoạch sản
xuất
Chênh lệch tương đối có dấu (-): Số tính được là tiết kiệm tương đối
quỹ lương.
Chênh lệch có dấu (+): Số tính được là vượt chi không hợp lý quỹ lương.
Số chênh lệch tương đối thể hiện mức độ tiết kiệm hay lãng phí của
quỹ tiền lương.
Bước 2: Tìm nguyên nhân làm tăng, giảm quỹ lương trong chi phí sản xuất
Do thay đổi số lượng lao động, khối lượng sản phẩm, lao vụ thực hiện
Do thay đổi lương bình quân/người
Do thay đổi định mức năng suất lao động
Bước 3: Phân tích tăng, giảm khoản mục "chi phí tiền lương" trong giá
thành đơn vị sản phẩm mỗi. Việc tăng giảm khoản mục " chi phí tiền lương"
trong giá thành là do sự biến đổi của
Mức lương của thực tế so với kế hoạch

Năng suất lao động của người lao động trực tiếp sản xuất.
c) Phân tích yếu tố chi phí khấu hao tài sản cố định
22
Khấu hao tài sản cố định là biện pháp chủ quan trong quản lý nhằm thu
hồi lại bộ phận giá trị đã hao mòn của tài sản cố định. Khấu hao là định phí,
do đó chi phí khấu hao cho một đơn vị sản phẩm biến đổi so với kế hoạch là
do biến đổi năng suất thực tế so với năng suất kế hoạch của sản phẩm đó.
Việc thực hiện tăng hoặc giảm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản phẩm phụ
thuộc vào công tác tổ chức sản xuất, chăm sóc thiết bị để nâng cao năng suất
và sản lượng thực hiện của thiết bị.
d) Phân tích yếu tố chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là những chi phí chi ra trong phạm vi phân
xưởng sản xuất (trừ phí vật liệu trực tiếp và nhân công trực tiếp). Chi phí sản
xuất chung bao gồm nhiều loại, có loại là biến phí, có loại là định phí, có loại
hỗn hợp. Do vậy, để đảm bảo tính chính xác các nhận xét, trước khi phân tích
cần tiến hành điều chỉnh các khoản biến phí theo tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch
sản xuất.
Để phân tích chi phí sản xuất chung, người phân tích sử dụng phương
pháp so sánh So sánh trên tổng số và so sánh trên từng nội dung. Dựa vào tình
hình biến động và nội dung từng khoản chi phí để nhận xét.
e) Phân tích chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những chi phí chi ra có liên quan đến
việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm nhiều loại như chi phí nhân viên
quản lý, chi phí vật liệu, dụng cụ, khấu hao nhà, xe máy và thiết bị phục vụ
quản lý. .. Đây là những khoản chi phí tương đối cố định nên nếu có khoản
chi nào tăng lên so với kế hoạch là điều không bình thường, cần xem xét
nguyên nhân cụ thể.
Đối với chi phí bán hàng là các khoản chi liên quan đến việc tiêu thụ
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ... trước khi so với kế hoạch, cần tiến hành điều

chỉnh những khoản biến phí (chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hoa hồng bao gói...)
theo tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch tiêu thụ.Việc phân tích có thể phân tích
tương tự như chi phí sản xuất chung.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản
Thông qua việc phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phân
tích được các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đối với giá
thành, từ đó giám đốc doanh nghiệp đưa ra các quyết định quản lý tối ưu hơn.
23
Trong thực tế quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh ta có thể chia
các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thành hai
nhóm nhân tố khách quan và chủ quan.
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Là các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh, có tác động trực tiếp hay
gián tiếp đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, mà tự bản thân doanh
nghiệp không tự điều chỉnh thay đổi được.
Nói đến ngành khai thác khoáng sản nói chung và khai thác than nói
riêng là nói đến một ngành sản xuất nặng nhọc, vất vả, chịu sự tác động rất
lớn của điều kiện bên ngoài. Các nhân tố khách quan tác động lớn đến giá
thành sản xuất khoáng sản gồm:
Giá cả thị trường: Việc biến động giá cả đầu vào của nguyên, nhiên vật
liệu trên thị trường tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và làm tăng (giảm)
giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp có thể tác động rất ít đến nhân tố này
thông qua việc lựa chọn đối tác, chủng loại vật tư, nhiên liệu sao cho chi phí
sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu cho một đơn vị sản phẩm là nhỏ nhất.
Nhu cầu thị trường: Việc có được thị trường trong sản xuất kinh doanh
giải quyết được yếu tố đầu ra của sản phẩm dịch vụ là rất quan trọng qua đó chi
phí và giá thành cũng có những biến động theo nhu cầu thị trường. Nhu cầu
càng nhiều, doanh nghiệp sản xuất với một số lượng hàng hoá dịch vụ lớn
trong sẽ tiết kiệm được chi phí, giảm được giá thành trên một đơn vị sản phẩm.

Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp khai thác khoáng sản, mức độ tăng
sản lượng phù hợp với năng lực thiết bị, điều kiện khoáng sàng hiện có, nếu
không sẽ dân đến tình trạng "làm bằng mọi giá" dẫn đến tăng giá thành sản
phẩm.
Điều kiện địa lý, địa chất: Khai thác mỏ phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện địa chất, vị trí địa lý của khoáng sàng. Nó quyết định việc lựa chọn
phương án khai thác, công nghệ sản xuất và quyết định rất lớn đến giá thành
sản xuất.
Giá thành khai thác than lộ thiên được quyết định bởi các tham số : Hệ số
bóc đất đá lộ thiên (m
3
đất/tấn than nguyên khai), Tỷ lệ tổn thất than khai thác
(%), Tỷ lệ đất đá nổ mỏ lộ thiên (%), Cung độ vận chuyển đất đá và than (km).
Giá thành khai thác than hầm lò được quyết định bởi các tham số : Hệ
số đào lò (mét lò chuẩn bị sản xuất/tấn than nguyên khai), Tỷ lệ tổn thất than
khai thác (%), Cung độ vận chuyển đất đá và than (km), Tỷ lệ mét lò đá/tổng
24
số mét lũ chuẩn bị sản xuất, Tỷ lệ một lò chống sắt/tổng số một lò chuẩn bị
sản xuất chuẩn bị sản xuất...
Giá thành than chung của toàn Tập đoàn còn phục thuộc vào tỷ trọng than
nguyên khai (%). Tất cả các tham số trên đều do điều kiện địa lý, địa chất của
các khoáng sàng than quyết định, con người mặc dù có công nghệ tiên tiến hiện
đại cũng chỉ có thể tác động được một phần rất nhỏ.
Ngoài ra, tính chất cơ lý của đất đá, than; mức độ mài mòn, ăn mòn của
đất đá, than; môi trường axit của nước... còn ảnh rất lớn đến mức tiêu hao vật
tư, nhiên liệu ...
Khai thác khoáng sản, đặc biệt ở các mỏ lộ thiên còn phụ thuộc rất
nhiều vào thời tiết Nếu thời tiết mưa bão nhiều thiết bị xe máy không hoạt
động được, không có sản phẩm nhưng chi phí làm đường, củng cố điều kiện
khai thác, bơm nước ,... lại gia tăng giá thành sản phẩm.

Chế độ chính trị, chính sách pháp luật của nhà nước: Đây là nhân tố tác
động gián tiếp. Sự tác động này được phản ảnh qua sự ổn định trật tự xã hội,
sự điều chỉnh thuế quan, các chính sách vĩ mô của Nhà nước, quy định của
các cơ quan cấp trên như Bộ, Tập đ/tấn, chính sách bảo vệ môi trường... ảnh
hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm tăng (giảm) chi phí dẫn
đến giá thành biến động.
Còn các nhân tố như đối thủ cạnh tranh, thị trường tài chính ... cũng
gây ảnh hưởng nhưng không lớn lắm đến giá thành sản xuất khai thác mỏ.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
Là nhân tố tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm, mà tự bản thân doanh nghiệp có thể điều chỉnh cải tiến, thay thế được
các nhân tố này gồm:
Công nghệ sản xuất: Đây là nhân tố tác động lớn đến giá thành sản xuất
của doanh nghiệp. Lựa chọn công nghệ sản xuất tức là lựa chọn cách thức
khai thác, thiết bị sử dụng, từ đó quyết định đến năng suất lao động và chi phí
sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu, nhân công ; chi phí khấu hao ... cho một đơn
vị sản phẩm.Việc lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp, trung bình tiên tiến là
điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Tổ chức nguồn nhân lực: Đây là yếu tố có tính chất quyết định đến việc
quản lý sử dụng tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp có
đội ngũ người lao động có trình độ phù hợp, tuân thủ kỷ luật lao động tốt; có
chính sách đào tạo phù hợp sẽ khuyến khích người lao động tăng năng suất,
thực hiện tiết kiệm chi phí làm giảm giá thành.
25

×