Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

SKKN tổ chức các hoạt động trải nghiệm ở trường THPT thông qua dạy học môn địa lí lớp 10 nhằm phát triển năng lực cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.82 MB, 117 trang )

PHẦN ĐẶT VẤN ĐỀ
I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong Luật giáo dục Việt Nam, nguyên lý giáo dục quy định:“Hoạt động giáo
dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, lí luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo
dục gia đình và xã hội”. Đây là tư tưởng chỉ đạo quan trọng trong quá trình đổi mới
giáo dục phổ thông hiện nay.
Dạy học từ trải nghiệm thực tế, trải nghiệm sáng tạo là xu hướng, phương pháp
dạy học mới đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của những người làm giáo dục. Mô
hình học tập từ trải nghiệm ngày càng được nhân rộng và thu hút sự tham gia của
nhiều người do tính hiệu quả mà nó đem lại. Học tập trải nghiệm là một quá trình
xã hội bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này được liên hệ
bằng vốn hiểu biết và kinh nghiệm cụ thể của người học, trên cơ sở đó, giáo viên hệ
thống hóa những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, đáp ứng mục tiêu dạy học. Để thực hiện
tốt hoạt động trải nghiệm sáng tạo cần gắn thực tiễn nhà trường với xã hội, hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh đáp ứng những yêu cầu đổi
mới giáo dục theo định hướng mà Bộ giáo dục đề ra cũng như đáp ứng kì vọng của
những người dân vào nền giáo dục nước nhà. Tuy nhiên hiện nay hầu hết các nhà
trường chỉ mới tiến hành dạy lí thuyết, các hoạt động thực hành chưa triển khai
đồng bộ, đầy đủ được do thiếu thời gian, khó khăn về kinh phí, hình thức tổ chức.
Hoạt động trải nghiệm (HĐTN), một hợp phần quan trọng trong chương trình
giáo dục phổ thông. Địa lí được coi là "ngành học về thế giới" đưa vào giảng dạy ở
các trường phổ thông nhằm mục đích trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản
về khoa học địa lí, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết
cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng với
yêu cầu phát triển của đất nước. Thực tế cho thấy, bộ môn Địa lí khác với các môn
khoa học tự nhiên khác ở chỗ: đối tượng nghiên cứu của nó rất rộng, trải dài trên
nhiều lãnh thổ và mỗi nơi lại có những nét đặc trưng. Vì thế, khi hình thành khái
niệm địa lí (nhất là các khái niệm địa lí chung) không có gì tốt bằng việc học sinh
Trang 1




được tự mình trải nghiệm và rút ra khái niệm sẽ làm vấn đề được rõ nét và khắc sâu
hơn.
Mục tiêu của chương trình sách giáo khoa Địa lí lớp 10 - THPT là giúp học sinh
có được những hiểu biết cơ bản, hệ thống về Trái Đất- môi trường sống của con
người, về thiên nhiên và những hoạt động kinh tế của con người trên phạm vi quốc
gia, khu vực và thế giới đồng thời luyện cho HS những kĩ năng hành động, ứng xử
thích hợp với môi trường - tự nhiên, xã hội. Đó là một phần học vấn phổ thông cần
thiết cho mỗi người lao động trong xã hội hiện đại, trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Chương trình Địa lí lớp 10 bao gồm hai phần lớn: phần Địa lí tự nhiên đại
cương thực học là 22 tiết, trong đó 3 tiết thực hành, phần Địa lí kinh tế - xã hội đại
cương thực học là 22 tiết trong đó có 4 tiết thực hành.
Đây là những nội dung kiến thức cơ bản về tự nhiên và kinh tế xã hội có thể
áp dụng phương pháp dạy học trải nghiệm. Những mục tiêu này góp phần định
hướng cho hoạt động học tập trải nghiệm dễ dàng đạt được hiệu quả, giúp cho GV
dễ dàng lựa chọn nội dung có thể trải nghiệm và việc soạn thảo, tổ chức học tập trải
nghiệm sáng tạo bám sát với nội dung chương trình. Việc thiết kế và sử dụng hình
thức tổ chức học tập trải nghiệm phụ thuộc vào mục tiêu của bài học, chủ đề mà
giáo viên xây dựng dựa trên chương trình chuẩn. Để hình thành cho học sinh những
kiến thức cơ bản cần thiết, rèn luyện kĩ năng địa lí, thái độ và hành vi đúng đắn.
Đồng thời khơi dậy ở các em lòng say mê, hứng thú học tập, bước đầu tập duyệt
nghiên cứu khoa học. Tạo cho học sinh một không gian học tập tích cực, cảm thấy
có nhu cầu tự học, biến hóa quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
Xuất phát từ những lí do trên đồng thời ý thức được trách nhiệm của bản thân
trong việc nỗ lực tìm hiểu, học tập những định hướng mới trong giáo dục nhằm
nâng cao kiến thức chuyên môn, góp phần nâng cao hiệu quả trong công việc giảng
dạy tại trường phổ thông nên tôi quyết định chọn đề tài “Tổ chức các hoạt
động trải nghiệm ở trường THPT thông qua dạy học môn Địa lí lớp 10 nhằm

Trang 2


phát triển năng lực cho học sinh” để nghiên cứu tìm ra cách khắc phục những
nhược điểm nói trên. Qua đó tôi mong muốn các đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm
những kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả dạy và học môn Địa lí lớp 10.
II- MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

1. Mục đích
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lí lớp 10, nâng cao hiệu quả
giảng dạy của giáo viên. Góp phần tạo hứng thú môn học, khắc sâu kiến thức, phát
huy tính tự giác, độc lập và sáng tạo của học sinh.
Giúp học sinh rèn luyện, phát triển năng lực tư duy, năng lực nghiên cứu, năng
lực hành động, năng lực vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn một cách có
hiệu quả trên cơ sở hiểu được bản chất của vấn đề.
Thông qua dạy học trải nghiệm sáng tạo môn Địa lí lớp 10 – THPT nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, góp phần nâng cao hiệu quả
học tập môn Địa lí ở nhà trường phổ thông.
2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học trải nghiệm sáng tạo cho HS
trong dạy học môn Địa lí.
- Xác định, lựa chọn, tổ chức các hình dạy học trải nghiệm sáng tạo đem lại
hiệu quả thông qua môn Địa lí lớp 10 ở trường THPT Kim Liên, trường THPT
- Từ kết quả đạt được đề tài đưa ra các kiến nghị, đề xuất.
III - ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP, TÀI LIỆU VÀ THỜI GIAN
NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Toàn bộ học sinh lớp 10 Trường THPT Kim Liên, trường THPT Nam Đàn
I, trường THPT Nam Đàn II của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An từ năm học

2017 - 2018 và năm học 2018 - 2019.
Trang 3


2. Phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Đề tài sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái
quát hóa các tài liệu như SGK Địa lí 10, các tài liệu lý luận dạy học Địa lí, các
trang web có nội dung liên quan, các tạp chí giáo dục…sau đó tiến hành phân tích,
so sánh, chọn lọc nội dung xây dựng khung lý thuyết làm luận cứ lý luận cho các
vấn đề nghiên cứu. Thời gian tiến hành từ 22/6/2017 – 23/8/2017.
b. Nhóm phương pháp điều tra, nghiên cứu thực tiễn
Tổ chức điều tra thực tế bằng phiếu hỏi (370 phiếu hỏi được phát cho HS
khối 10 của 3 trường - mẫu phiếu ở phụ lục 1) và quan sát thực tế trong các buổi
tham quan học tập trải nghiệm. Nhằm đưa ra những luận chứng quan trọng, khách
quan, chính xác về tổ chức dạy học trải nghiệm cho học sinh lớp 10 ở trường THPT
thông qua môn Địa lí.
Điều tra để thu thập thông tin từ giáo viên giảng dạy môn Địa lí ở 3 trường để
từ đó tìm ra nguyên nhân, đề xuất các giải pháp (mẫu phiếu ở phụ lục 2).
c. Phương pháp thống kê
- Thống kê theo kết quả điểm số học sinh làm báo cáo thu hoạch sau hoạt động
trải nghiệm, các số liệu thu thập được từ tổng hợp kết quả
- Sử dụng bộ công cụ và các tiêu chí đánh giá năng lực hợp tác để đánh giá
học sinh và xử lý bằng phần mềm Excel.
d. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sau khi thực hiện ở các lớp thực nghiệm và đối chứng đạt kết quả cao. Ngoài
việc chia sẽ kinh nghiệm với đồng nghiệp, tác giả sẽ tiếp tục làm tốt hơn nữa trong
những năm tiếp theo.
e. Phương pháp tham vấn chuyên gia
Trang 4



Việc xây dựng phiếu khảo sát điều tra học sinh, giáo viên và phương pháp tổ
chức các hoạt động trải nghiệm tác giả đã tham khảo ý kiến của một số giảng viên
đại học, những giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong trường phổ thông.
3. Thời gian nghiên cứu, áp dụng và những đóng góp mới của đề
tài a. Thời gian nghiên cứu
- Năm học 2017 - 2018.
b. Thời gian áp dụng
- Áp dụng đề tài và đạt kết quả cao từ năm học 2018 - 2019.
c. Những đóng góp mới của đề tài
- Thông qua dạy học môn Địa lí 10, giáo viên có các hình thức tổ chức các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với điều
kiện thực tế của trường phổ thông.
- GV đánh giá đúng năng lực học tập của từng thọc sinh. Giúp học sinh học
yêu thích và học tập tốt môn Địa lí.
4. Tài liệu nghiên cứu, tham khảo
- Đặng Văn Đức, Kĩ thuật dạy học Địa lí ở trường THPT, Nxb.Giáo dục, 1999.
- Đặng Văn Đức – Nguyễn Thị Thu Hằng, “Phương pháp dạy học Địa lí theo
hướng tích cực”, Nxb ĐHSPHN, 2007.
- Sách giáo khoa Địa lí 10, sách giáo viên Địa lí 10, Nhà xuất bản giáo dục năm
2015;Sách giáo khoa Địa lí 10 nâng cao, sách giáo viên Địa lí 10 nâng cao, Nhà
xuất bản giáo dục năm 2006;
- Tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Địa lí 10, Nx giáo
dục năm 2009;
- Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Địa lí 10, Nhà xuất bản ĐHSP năm

2010;
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy SGK Địa lí 10, Nhà xuất bản giáo dục năm
2014;

Trang 5


- Thiết kế bài giảng Địa Lí nâng cao lớp 10 của Vũ Quốc Lịch – Phạm Ngọc
Yến, Nhà xuất bản Đại học sư phạm, năm 2006;
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Địa lí chu kỳ 3 (2004-2007) của Viện nghiên
cứu sư phạm năm 2005.
- Đổi mới phương pháp dạy học và những bài dạy minh họa Địa lí 10 của các tác
giả Đỗ Anh Dũng – Nguyễn Viết Bình – Nguyễn Thị Yến – Lê Mai Hồng, Nhà xuất
bản Đại Học Sư Phạm.
- Một số giải pháp dạy học trong bộ môn Địa lí ở trường THPT, tác giả Trần Thị
Duy Đào trường THPT Đức Trọng.
- Luận tiến sĩ Trần Thị Gái: Rèn luyện kĩ năng thiết kế hoạt động trải nghiệm
trong dạy học sinh học ở trường THPT.
- Sáng kiến kinh nghiệm: Học tập trải nghiệm sáng tạo trong chương trình Địa lí
10 - THPT tác giả Mai Thị Tuyết Nhung trường THPT C Nghĩa Hưng, Nam Định.
- Các trang Web: Truonghocketnoi.edu.vn, Idiali.com, Diali. traodoichuyenmon.
- Các bài viết, báo cáo, trang báo:
Bài viết “Để giờ học Địa lí sinh động” của Thạc sỹ Nguyễn Chí Tuấn (GV
Trường THCS - THPT Đinh Thiện Lý, TPHCM) trên Báo giáo dục thời đại ra
thứ 3 ngày 26 tháng 3 năm 2019
Bài viết “Dạy - học Địa lí qua các trò chơi” chia sẽ của cô Nguyễn Trịnh Minh
Hằng - giáo viên Trường THPT Nội trú tỉnh Lạng Sơn trên Báo giáo dục thời đại ra
ngày Thứ Sáu, 2/6/2017
Bài viết “Sử dụng phương pháp thảo luận trong giảng dạy Địa lí” của Cô
Nguyễn Thị Hằng - Trường THPT Nguyễn Huệ, Nam Định trên Báo giáo dục thời
đại ra ngày 17/7/2016
Báo cáo “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học ngoài giờ môn Địa
lí lớp 11” của tác giả Cao Thị - Khoa Địa lí, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế


Trang 6


PHẦN NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I - CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC TRẢI NGHIỆM
SÁNG TẠO

1. Cơ sở lí luận
Giáo dục trải nghiệm là khái niệm phức hợp, trong đó người dạy khuyến khích
người học tiến hành các hoạt động thực tế và thông qua thực hiện các hành động
để tăng cường sự hiểu biết, mở rộng kinh nghiệm, phát triển kỹ năng, hình thành
các giá trị sống, phát triển các tiềm năng của bản thân.
1.1. Khái niệm giáo dục trải nghiệm
Hiệp hội giáo dục trải nghiệm đã định nghĩa: “Giáo dục trải nghiệm là một triết
lý toàn diện, nơi mà kinh nghiệm được lựa chọn một cách cẩn thận được hỗ trợ bởi
sự phản ánh, phân tích, tổng hợp, được cấu trúc để yêu cầu người học chủ động, ra
quyết định, và chịu trách nhiệm về kết quả, thông qua các câu hỏi chủ động đặt ra,
điều tra, thử nghiệm, tò mò, giải quyết vấn đề, giả định trách nhiệm, sáng tạo, xây
dựng ý nghĩa, và tích hợp kiến thức phát triển trước đó”. Người học được tham gia
về mặt trí tuệ, tình cảm, xã hội, chính trị, tinh thần và thể chất trong một môi trường
mà người học có thể trải nghiệm thành công, thất bại, cuộc phiêu lưu, chấp nhận rủi
ro. Việc học tập thường liên quan đến sự tương tác giữa người học, người học với
môi trường. Nó thách thức người học để tìm hiểu vấn đế của các giá trị, mối quan
hệ, đa dạng và cộng đồng. Vai trò chính yếu của giáo dục bao gồm việc lựa chọn
những kinh nghiệm phù hợp, đặt ra vấn đề, thiết lập ranh giới, hỗ trợ người học,
đảm bảo an toàn về thể chất và tình cảm, tạo thuận lợi cho quá trình học tập, hướng
dẫn phản ánh, và cung cấp các thông tin cần thiết. Các kết quả của việc học tập là
cơ sở kinh nghiệm và học tập trong tương lai.
1.1.2. Khái niệm học tập trải nghiệm
Học tập trải nghiệm là quá trình học tập, qua đó kiến thức, năng lực được tạo ra

thông qua sự biến đổi kinh nghiệm. Kinh nghiệm đóng vai trò trung tâm trong quá
trình học “Học tập là quá trình mà kiến thức được tạo ra thông qua việc chuyển đổi
Trang 7


kinh nghiệm” (theo Kolb,1984). Kết quả của kiến thức là sự kết hợp giữa nắm bắt
kinh nghiệm và chuyển đổi nó”. Bên cạnh đó, thông qua hành động (việc làm), chủ
thể tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên đánh giá, phân tích
những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có nhờ sự tác động của kiến thức tiếp thu được
qua hành động với đối tượng.
Theo tác giả Chickering: học tập trải nghiệm có nghĩa là học tập xảy ra khi
những thay đổi về phán đoán, cảm xúc hoặc kỹ năng của cá nhân trải qua một hoặc
một chuỗi các sự kiện.
Còn theo Hutton: học tập trải nghiệm là học hỏi bắt nguồn từ việc đã làm và từ
kinh nghiệm của cá nhân. Đó là học tập sử dụng kinh nghiệm để định hướng việc
lựa chọn và hành động.
Như vậy, học tập trải nghiệm là người học học tập bắt nguồn từ kinh nghiệm và
thông qua các HĐTN, các HĐTN của người học được thực hiện theo một chu kỳ
khép kín với các pha nối tiếp nhau nhằm chuyển đổi kinh nghiệm và nắm bắt kinh
nghiệm mới.Thông qua HĐTN, HS phát triển các kỹ năng thiết yếu như: lập kế
hoạch, kiểm soát (KN tự điều chỉnh hành động nhận thức của HS), đánh giá. Trong
quá trình dạy học, GV cần thiết kế một hệ thống các hoạt động để tăng cường việc
học cách học của HS, các hoạt động này sẽ được phát triển bởi HS để giúp họ học
tập một cách chủ động, phát triển khả năng tự học để có thể học tập suốt đời.
Thông qua hoạt động trải nghiệm phát triển đuợc các chiến lược học tập có
hiệu quả để thu thập và ghi nhớ thông tin khác nhau trong quá trình học như: thăm
quan mô hình thực tế (trực quan), thực hành thao tác thí nghiệm, trao đổi thảo luận
trên các diễn đàn, thảo luận nhóm…
Hoạt động trải nghiệm giúp phát triển năng lực người học: Theo các tác giả
Gordon (2004); Crino (1979); Hawtrey (2007); Cooper, Bottomley, Gordon; Linn,

Howard, Miler (2004) thì năng lực của HS được hình thành và phát triển khi mà HS
được huy động kiến thức, kỹ năng của mình vào giải quyết một tình huống/vấn đề
trong bối cảnh thực. Trong học tập trải nghiệm, HS phải huy động kiến thức,
Trang 8


kinh nghiệm đã có nhằm tìm tòi, khám phá để chiếm lĩnh tri thức, từ đó phát triển
năng lực nhận thức kiến thức, năng lực nghiên cứu khoa học. Quá trình chia sẻ, thảo
luận, phản ánh giúp HS phát triển được năng lực hợp tác và năng lực giao tiếp. Quá
trình hệ thống hóa khái niệm giúp HS phát triển năng lực hệ thống hóa, khái hóa
kiến thức. Thử nghiệm tích cực giúp HS phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Thông qua trải nghiệm, HS phát triển
năng lực sáng tạo từ việc đề xuất các ý tưởng, thực hiện nhiệm vụ.
Học tập trải nghiệm hình thành cho HS xúc cảm với đối tượng học tập. Trong
quá trình học tập trải nghiệm, người học được tiếp xúc, tương tác trực tiếp với đối
tượng học tập. Quá trình đó sẽ giúp người học hình thành và phát triển cảm xúc của
mình, từ đó phát triển nhân cách, phẩm chất.
1.1.3. Vai trò của giáo viên trong học tập trải nghiệm
Học tập trải nghiệm chính là người học tự vận động, tự học nhưng không có
nghĩa là hạn chế vai trò của người GV vì sự trải nghiệm ở đây là sự trải nghiệm có
định hướng, có dẫn dắt chứ không phải sự trải nghiệm tự do, tự phát, thiếu định
hướng. GV và HS làm việc cùng nhau trong một ngữ cảnh thân thiện và chia sẻ; GV
không chỉ đạo việc học tập ở HS thông qua các kĩ thuật đã định sẵn. GV có vai trò
là người hỗ trợ, là chuyên gia bộ môn, thiết lập và đánh giá tiêu chuẩn, huấn luyện
viên. Trong quá trình dạy học, GV cần tạo cơ hội cho HS trải nghiệm, vận dụng
những kinh nghiệm đã có vào giải quyết nhiệm vụ học tập mà thông qua trải nghiệm
HS có thể học hỏi từ sai lầm của bản thân. GV tạo môi trƣờng học tập sao cho HS
có thể chia sẻ, phản ánh kinh nghiệm để HS học hỏi từ chính bạn bè. GV hỗ trợ HS
trong quá trình khái quát hóa khái niệm và phát huy vai trò huấn luyện viên trong
quá trình thiết kế nhiệm vụ cho HS vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề thực

tiễn.
Điều kiện thiết yếu để tổ chức cho HS học tập trải nghiệm là GV cần phải biết
cách thiết kế các HĐTN dựa vào nội dung kiến thức và các điều kiện cơ sở vật chất
của nhà trường.
Trang 9


1.1.4 Đặc điểm của dạy học trải nghiệm
Từ những kết quả nghiên cứu các lí thuyết trên có thể thấy học tập trải nghiệm
sáng tạo là phương thức hoạt động chỉ sự tương tác, sự tác động của chủ thể với đối
tượng xung quanh và ngược lại. Đây là hoạt động của chính bản thân chủ thể.
Những hoạt động này vừa mang tính trải nghiệm, thử và sai, vừa là cách thức nhận
thức, tác động của riêng mỗi chủ thể. Qua hoạt động giải quyết vấn đề mà thu nhận
những giá trị cần thiết cho bản thân đó chính là quá trình mang tính trải
nghiệm.Mục đích của giáo dục hướng cho người học sống ở tương lai. Học tập trải
nghiệm sáng tạo nhấn mạnh đến sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của
người học. Học tập trải nghiệm khuyến khích học sinh hoạt động một cách tích cực
và chủ động. Hoạt động trải nghiệm chủ yếu tạo ra cho học sinh nhiều trải nghiệm
để các em khám phá từng bước khả năng sáng tạo của chính mình. Học sinh không
phải học thuộc lòng ý nghĩa hay giá trị của mỗi chủ đề bài học mà các em được rèn
luyện óc quan sát, cách miêu tả hay cách phỏng vấn đề. Học sinh được làm quen
với các phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu, thảo luận và xử lí thông tin, trình
bày bằng các hình thức đa dạng như triển lãm, thuyết trình, báo tường, kịch nói,…
các kết quả tìm hiểu của mình hay của nhóm. Sự đam mê, chủ động khám phá dẫn
các em đến sự sáng tạo trong học tập. Đây là một môi trường rèn luyện kĩ năng
sống một cách bổ ích, thiết thực, hấp dẫn và sinh động nhất. Học tập trải nghiệm có
một số đặc điểm sau:
- Học tập trải nghiệm mang tính xã hội, địa phương: Khi tham gia hoạt động,
học sinh được tiếp xúc và hợp tác với bạn bè, chuyên gia trong lĩnh vực tìm hiểu,
các nhân vật trong xã hội; tiếp cận các sự kiện, các nguồn lực khác nhau trong xã

hội thường có thể là địa phương hay một vùng miền nào đó trên đất nước ta. - Tính
linh hoạt về nội dung và hình thức: Với nội dung đa dạng thuộc nhiều lĩnh vực tự
nhiên - xã hội, nghệ thuật và thể thao, hướng nghiệp trên cơ sở sự lựa
chọn theo nhu cầu của học sinh, bối cảnh địa phương, giá trị chung của công dân
thế kỷ XXI. Có những hoạt động tổ chức tại trường, có những hoạt động bên ngoài
trường với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo.
Trang 10


- Học tập trải nghiệm hướng đến các giá trị nhân văn: Đặc điểm của học tập
trải nghiệm sáng tạo là luôn đề cao tính tự chủ, sáng tạo của người học; khẳng định
cái tôi, giá trị của bản thân; nêu cao tinh thần hợp tác, tương trợ và giúp đỡ nhau
trong công việc và trong cuộc sống.
- Học tập trải nghiệm sáng tạo khai thác tối đa các nguồn lực của xã hội cả
về con người và cơ sở vật chất. Đó có thể là sự đóng góp về trí tuệ của cộng đồng,
đó là cơ sở vật chất. Minh chứng là sự thành công của một cá nhân nào đó trong
nghề nghiệp, đó là cơ sở vật chất để học sinh trải nghiệm và sáng tạo…
- Cách dạy học trải nghiệm không nhằm truyền thụ kiến thức một chiều cho
học sinh những kiểu kiến thức hàn lâm, cũng không dừng lại ở việc giúp học sinh
nắm bắt được nội dung đề cập đến trong mỗi chủ đề, mà cung cấp cho học sinh
cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và ý nghĩa của bài học,
từ đó hình thành cho học sinh phương pháp đọc và quan sát một cách tích cực, chủ
động, có quan điểm và chính kiến cá nhân. Sự tương tác giữa học sinh với học sinh
và học sinh với giáo viên được đánh giá rất cao. Học sinh được kì vọng sẽ suy nghĩ
về kiến thức mà mình được dạy rồi liên hệ thực tế, phát triển, trình bày ý kiến của
riêng mình. Các em được tự do đặt câu hỏi và có thể phê bình về những gì mà giáo
viên và các bạn cùng lớp nói đồng thời sử dụng sự sáng tạo, trải nghiệm thực tế của
riêng mình để áp dụng các kiến thức vừa học được.
- Dạy học trải nghiệm sáng tạo thiên về phương pháp, kĩ năng giúp học sinh
phát triển được năng lực đọc hiểu vấn đề, có thái độ tích cực để tự mình tiếp cận và

xử lí những thông tin đã được học, trải qua, hay đang trực tiếp trải nghiệm được.
Với phương pháp học này giáo viên cần thường xuyên gắn các nội dung dạy học
với đời sống xã hội giúp các em học sinh có thể huy động được những trải nghiệm
cá nhân người học trong tiếp cận thông tin. Khi đã được trang bị cách học, phương
pháp học, phương pháp quan sát, học sinh có đủ năng lực huy động các kiến thức,
kĩ năng cần thiết để xử lí các tình huống, bài tập theo định hướng năng lực cụ thể
được đặt trong các đề kiểm tra. Do hiểu bản chất vấn đề nên học sinh có thể chủ
Trang 11


động ứng phó và làm bài không quá máy móc dập khuôn như cách học truyền
thống.
2. Cơ sở thực tiễn của dạy học trải nghiệm
2.1. Trải nghiệm trong dạy học Địa lí

Theo Từ điển Tiếng việt [1; tr 1020], “Trải có nghĩa là đã từng qua, từng biết,
từng chịu đựng; còn nghiệm có nghĩa là kinh qua thực tế nhận thấy điều nào đó là
đúng. Sáng tạo là tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần; tìm ra cái
mới,cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có.”
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam [2], “Trải nghiệm theo nghĩa chung nhất là
bất kì một trạng thái có màu sắc xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua,
đọng lại thành bộ phận (cùng với tri thức, ý thức…) trong đời sống tâm lí của từng
người. Theo nghĩa hẹp hơn, chuyên biệt hơn của tâm lí học, là những tín hiệu bên
trong, nhờ đó nghĩa của các sự kiện đang diễn ra đối với cá nhân được ý thức,
chuyển thành ý riêng của cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các động cơ cần
thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Sáng tạo là hoạt động tạo ra cái mới, có thể
sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học (phát minh), nghệ thuật, sản xuất - kĩ
thuật (sáng tác, sáng chế), kinh tế, chính trị,…”.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Trải nghiệm hay kinh nghiệm là tổng
quan khái niệm bao gồm tri thức, kĩ năng trong hoặc quan sát sự vật hoặc sự kiện

đạt được thông qua tham gia vào hoặc tiếp xúc đến sự vật hoặc sự kiện đó”. Lịch
sử của từ “trải nghiệm” gần nghĩa với từ “thử nghiệm”. Thực tiễn cho thấy trải
nghiệm đạt được thường thông qua thử nghiệm.
Từ những định nghĩa trên, gắn với chuyên môn Địa lí và các năng lực cần
đạt được chúng tôi xây dựng định nghĩa: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong
môn Địa lí là một nhiệm vụ học tập gắn với thực tiễn mà học sinh cần phải vận
dụng vốn kinh nghiệm về tự nhiên và kinh tế - xã hội, để trải nghiệm, phân tích,
khái quát hóa thành kiến thức của bản thân và vận dụng để giải quyết vấn đề
thực tiễn trên cơ sở sáng tạo và phối hơp nội dung môn học”.
Trang 12


Như vậy, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hình thức hoạt động được thực hiện
sáng tạo và hiệu quả, giúp HS phát hiện, hình thành kiến thức, vận dụng kiến thức
đã học và áp dụng trong thực tế đời sống. Các hoạt động được thực hiện trong lớp
học, trường, nhà hay tại bất kì địa điểm nào phù hợp.
2.1.2. Đặc điểm hoạt động trải nghiệm trong dạy học địa lí
HĐTNST là một loại hình hoạt động dạy học có mục đích, có tổ chức được
thực hiện trong hoặc ngoài nhà trường; HS được chủ động tham gia vào tất cả các
khâu của quá trình hoạt động, từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh
giá kết quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; HS
được trải nghiệm, bày tỏ quan điểm, ý tưởng, đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt
động, thể hiện tự khẳng định bản thân, tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động
của bản thân, của nhóm mình và bạn bè. Trải nghiệm sáng tạo trong môn Địa lí thể
hiện rất rõ đặc điểm này, các hoạt động được tổ chức với mục đích dạy học Địa lí,
mà nội dung Địa lí là các kiến thức gắn liền với tự nhiên hoặc kinh tế - xã hội vì
vậy dạy học gắn liền với thực tế, ngoài thực địa là một hoạt động đã được duy trì
thường xuyên, liên tục bên cạnh hình thức dạy học truyền thống là dạy học trên lớp.
HĐTN có nội dung rất đa dạng và mang tính tích hợp, ngoài kiến thức về Địa lí,
HĐTN còn tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập

và giáo dục như: vật lí, hóa học, sinh học, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục lao động,
giáo dục môi trường và biến đổi khí hậu, giáo dục phòng chống HIV/AIDS và tệ
nạn xã hội, giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm, giáo dục sử dụng năng lượng tiết
kiệm, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên,...
HĐTN có thể tổ chức tại nhiều địa điểm khác nhau ở trong hoặc ngoài nhà
trường như: lớp học, thư viện, phòng đa năng, phòng truyền thống, sân trường,
vườn trường, công viên, vườn hoa, viện bảo tàng, các di tích lịch sử và văn hóa,
các danh lam thắng cảnh, các công trình công cộng, nhà các nghệ nhân, các làng
Trang 13


nghề, cơ sở sản xuất,... hoặc ở các địa điểm khác ngoài nhà trường có liên quan
đến chủ đề hoạt động.
HĐTN được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như: thí nghiệm, hoạt
động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu hóa, tham quan dã ngoại, các
hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, lao động
công ích, sân khấu hóa, tổ chức các ngày hội,...
Ví dụ: dạy bài 17 - Thổ những quyển, các nhân tố hình thành thổ những (Địa lí
lớp 10), HS được sưu tầm và mang các lại đất có tại địa phương vào lớp để học các
đặc điểm vật lý, hóa học của đất, thậm chí HS có thế cảm nhận độ tơi, xốp của đất
khi trực tiếp đưa tay để sờ và cảm nhận. Đây là trải nghiệm khá mới mẻ đặc biệt với
HS ở thành thị. Nội dung, giá trị của các loại đất, giáo viên có thể kết hợp các kinh
nghiệm đã có của HS (đặc biệt là HS nông thôn) để phát huy khả năng sáng tạo khi
dạy nội dung nay. HS có thể học trong lớp có thể ra một khu vườn hoặc đồng ruộng
nơi gần nhất để học tập và trải nghiệm sự sáng tạo của chính mình về nội dung thổ
nhưỡng và giá trị các loại đất. Phân biệt và nhận biết giá trị loại đất phù sa để trồng
cây gì (kiến thức sinh học), từ đó có thể giải thích tại sao hai vùng đồng bằng sông
Hông và sông Cửu Long lại là hai vựa lúa của cả nước. Tương tự với các loại đất
chua, phèn, đất cát ta thực hiện theo hình thức trên.
Các vấn đề về tự nhiên và hoạt động kinh tế - xã hội được giải quyết tương đối

đơn giản, phù hợp năng lực của HS mà vẫn mang lại nhiều hiệu quả trải nghiệm
sáng tạo.
2.1.3. Nguyên tắc tổ chức hoạt động trải nghiệm trong môn Địa lí
Nguyên tắc 1: đảm bảo mục tiêu dạy học
Hoạt động trải nghiệm phải giúp HS lĩnh hội tri thức (tri thức khoa học Địa lí và
tri thức phương pháp), phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn,
rèn kĩ năng sống. Mục tiêu này dùng để định hướng xuyên suốt trong quá trình tổ
chức hoạt động.
Trang 14


Nguyên tắc 2: đảm bảo tính khoa học
Hoạt động trải nghiệm phải giúp HS chiếm lĩnh hệ thống tri thức cơ bản, hiện
đại về các lĩnh vực khoa học thông qua trải nghiệm; phải được thiết kế theo định
hướng phát triển năng lực tư duy khoa học giúp HS tiếp xúc, hình thành và phát
triển một số các phương pháp nghiên cứu khoa học.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính sư phạm
Hoạt động trải nghiệm phải thể hiện tính vừa sức và phù hợp với tâm sinh lí của
HS; phải mang tính đặc trưng của môn học, gần gũi, phù hợp với cách suy nghĩ,
nhu cầu, sở thích của HS.
Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính thực tiễn
Hoạt động trải nghiệm phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống và có tính ứng
dụng cao. HS được học trong thực tiễn và bằng thực tiễn.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo tính đa dạng, phong phú
Cần tạo ra nhiều loại hoạt động phù hợp với từng môi trường tổ chức đảm bảo
cho HS được trải nghiệm, từ đó rút ra kiến thức và vận dụng sáng tạo vào các tình
huống mới. Tùy theo hoàn cảnh và đối tượng, tùy theo đặc trưng của nội dung mà
khuyến khích các hình thức giáo dục trải nghiệm khác nhau. Giáo viên tạo ra những
hoạt động trải nghiệm cho HS và là người chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn HS trong
quá trình tham gia hoạt động.

II - TÍNH TẤT YẾU CỦA MÔN ĐỊA LÍ 1O PHẢI SỬ DỤNG CÁC HÌNH
THỨC DẠY HỌC TRẢI NGHIỆM

1. Mục tiêu của chương trình SGK Địa lí lớp 10 – THPT
Môn Địa lí trong nhà trường phổ thông giúp HS có được những hiểu biết cơ
bản, hệ thống về Trái Đất - môi trường sống của con người, về thiên nhiên và
những hoạt động kinh tế của con người trên phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới
đồng thời luyện cho HS những kĩ năng hành động, ứng xử thích hợp với môi
Trang 15


trường – tự nhiên, xã hội. Đó là một phần học vấn phổ thông cần thiết cho mỗi
người lao động trong xã hội hiện đại, trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trên nền tảng kiến thức, kĩ năng mà môn Địa lí trang bị cho HS thì môn
học này cũng góp phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.
Với mỗi cấp lớp thì môn Địa lí lại có mục tiêu giáo dục ở một khía cạnh khác nhau.

Môn Địa lí lớp 10 mục tiêu định hướng mà HS cần có được:
Về kiến thức: Giúp HS hiểu và trình bày được những kiến thức phổ thông, cơ
bản về: Trái Đất với ý nghĩa: môi trường sống của con người bao gồm các thành
phần cấu tạo và tác động qua lại của chúng, một số quy luật chủ yếu của lớp vỏ địa
lí. Địa lí dân cư và một số khía cạnh văn hóa, xã hội của dân cư. Các hoạt động
kinh tế chủ yếu của con người trên Trái Đất. Mối quan hệ giữa dân cư, các hoạt
động sản xuất với môi trường và sự phát triển bền vững.
Về kĩ năng: Cũng cố và tiếp tục phát triển ở học sinh các kĩ năng: Quan sát,
nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh các sự vật, hiện tượng địa lí cũng như kĩ
năng đọc và sử dụng bản đồ, biểu đồ, số liệu thống kê. Kĩ năng thu thập, trình bày
thông tin địa lí. Vận dụng kiến thức trong chừng mực nhất định để giải thích các sự
vật, hiện tượng địa lí và bước đầu tham gia giải quyết các vấn đề của cuộc sống, sản
xuất gần gũi với học sinh trên cơ sở tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê

phán.
Về thái độ, hành vi: Góp phần bồi dưỡng cho HS có tình yêu thiên nhiên, con
người, ý thức và hành động thiết thực bảo vệ môi trường xung quanh. Có ý thức
quan tâm đến một số vấn đề liên quan đến Địa lí học ở trong và ngoài nước. Thấy
rõ trách nhiệm của bản thân trong công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội của địa
phương và đất nước. Đây là những nội dung kiến thức cơ bản về tự nhiên và kinh tế
xã hội có thể áp dụng phương pháp dạy học trải nghiệm. Những mục tiêu này góp
phần định hướng cho hoạt động học tập trải nghiệm dễ dàng đạt được hiệu quả. Các
mục trên giúp cho GV dễ dàng lựa chọn nội dung có thể trải nghiệm và việc soạn
Trang 16


thảo, tổ chức học tập trải nghiệm sáng tạo bám sát với nội dung chương trình. Việc
thiết kế và sử dụng hình thức tổ chức học tập trải nghiệm phụ thuộc vào mục tiêu
của bài học, chủ đề mà giáo viên xây dựng dựa trên chương trình chuẩn. Để hình
thành cho học sinh những kiến thức cơ bản cần thiết, rèn luyện kĩ năng Địa lí, thái
độ và hành vi đúng đắn. Đồng thời khơi dậy ở các em lòng say mê, hứng thú học
tập, bước đầu tập duyệt nghiên cứu khoa học. Học sinh sẽ luôn được tạo một không
gian học tập tích cực, cảm thấy có nhu cầu tự học, biến hóa quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục.
2. Nội dung chương trình Địa lí lớp 10 - THPT
Chương trình và SGK Địa lí 10 chuẩn đã được soạn thảo theo quan điểm đổi
mới. Chương trình của SGK Địa lí 10 đã thể hiện rõ tính khoa học, tính hiện đại và
tính thực tiễn trong một cấu trúc lôgic, hợp lí, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu đào
tạo của nhà trường phổ thông. Chương trình Địa lí lớp 10 – THPT gồm 2 phần: Địa
lí tự nhiên đại cương, Địa lí kinh tế - xã hội đại cương.
Phần Địa lí tự nhiên đại cương: Trong phần này, chương trình đề cập đến các
vấn đề tự nhiên gắn với cuộc sống của con người trên Trái Đất như sử dụng bản đồ
trong học tập và đời sống, những quy luật của tự nhiên cũng như cấu trúc của lớp
vỏ địa lí….và được cụ thể qua các bài sau:

- Về mặt lí thuyết, phần này có đề cập tới 4 nội dung cơ bản sau:
+ Chương 1: Bản đồ: Giới thiệu về phép chiếu hình bản đồ, một số phương
pháp thể hiện trên bản đồ, sử dụng bản đồ trong học tập và đời sống.
+ Chương 2: Vũ trụ. Hệ quả các chuyển động của Trái Đất: Cung cấp những
kiến thức về vũ trụ, hệ quả chuyển động của Trái Đất từ đó giúp HS hiểu được cấu
tạo về Trái Đất, hệ Mặt Trời và Vũ Trụ. Giúp HS hiểu và giải thích các hiện tượng
xảy ra xung quanh mình như hiện tượng mùa, ngày đêm luân phiên….
+ Chương 3: Cấu trúc của Trái Đất. Các quyển của lớp vỏ địa lí: Cung cấp
cho học sinh các kiến thức về Trái Đất, có những tác động nào lên bề mặt Trái Đất.
Trang 17


Cung cấp kiến thức về các mảng thạch quyển, khí quyển, thổ nhưỡng quyển, sinh
quyển,thủy quyển.
+ Chương 4: Một số quy luật của lớp vỏ Địa lí. Tìm hiểu một số quy luật của
lớp vỏ địa lí như quy luật thống nhất và hoàn chỉnh, quy luật địa đới và quy luật phi
địa đới.
- Về mặt thực hành: Chương trình Địa lí có đan xen bài thực hành và các bài
tập củng cố cuối bài và các dạng bài khác nhau nhằm phát triển ở HS các kĩ năng
như: Làm rõ lý thuyết và rèn luyện kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, các hiện tượng tự
nhiên, phân tích các biến đổi liên quan đến các hiện tượng tự nhiên.
Phần Địa lí kinh tế - xã hội đại cương: Phần này trình bày khái quát địa lí
kinh
tế - xã hội cụ thể:
- Về mặt lý thuyết gồm 6 nội dung:
+ Chương 5: “Địa lí dân cư” tìm hiểu về tình hình dân cư trên thế giới, sự gia
tăng dân số, cơ cấu dân số, đặc điểm phân bố dân cư, các loại hình quần cư và đô
thị. Học sinh làm quen, nhận biết, có thể vẽ được tháp tuổi. Thực hành phân tích
bản đồ thế giới.
+ Chương 6: “Cơ cấu kinh tế” nguồn lực phát triển kinh tế là gì? Cơ cấu như

thế nào? Có mấy loại cơ cấu?
+ Chương 7,8,9: “Địa lí nông nghiệp” , “Địa lí công nghiệp”, “Địa lí dịch
vụ” HS được tìm hiểu về Địa lí các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Ở
mỗi chương nói về một ngành kinh tế tuy nhiên đều cung cấp cho HS tìm hiểu về
vai trò, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển và phân bố của ngành.
+ Chương 10: “Môi trường và sự phát triển bền vững” HS sẽ đi tìm hiểu về
môi trường, chức năng, vai trò của môi trường đối với sự phát triển loài người. Tài
nguyên thiên nhiên- cách phân chia tài nguyên thiên nhiên. Môi trường và sự phát
Trang 18


triển bền vững, điều kiện để phát triển bền vững. Vấn đề môi trường và phát triển
bền vững ở các nước phát triển và đang phát triển
- Về mặt thực hành: Nội dung chương trình nhằm vào việc rèn luyện kĩ năng
phân tích số liệu thống kê, xây dựng biểu đồ trên cơ sở số liệu đã cho cũng như đọc
và phân tích bản đồ dân cư, kinh tế - xã hội…. Tuy nhiên chương trình giảm tải một
số bài sau: Bài 1; mục 1 phần 1 bài 11;Phần I bài 13; mục b phần 2 bài 14; Phần II
bài 24; câu hỏi 2 bài 25; mục 3 phần III bài 27; Phần II bài 29; Phần II câu 2 và
phần III, V bài 32; bài 39; phần IV bài 40.
Cấu trúc cũng như nội dung mang tính hệ thống và khái quát cao, phù hợp
với các yêu cầu học tập của HS. SGK mới có cấu trúc lôgic, rõ ràng, hệ thống kiến
thức chi tiết, có tính gợi mở cao, thuận lợi cho dạy và học. Nội dung SGK cũng
được lựa chọn những kiến thức có tính tiêu biểu, nổi bật nhất về địa lí tự nhiên cũng
như những nét khái quát về kinh tế xã hội. Nội dung này giúp HS có các hiểu biết
về các vấn đề địa lí tự nhiên, các quy luật địa lí tự nhiên, HS có khả năng giải thích,
vận dụng kiến thức địa lí tự nhiên để nghiên cứu, đánh giá các vấn đề của cuộc
sống. Các kiến thức trong sách được tỉnh giản và trình bày ngắn gọn nhằm mục
đích hình thành các kĩ năng cho HS chứ không chỉ dừng lại ở cung cấp những kiến
thức sẵn có. HS được tạo điều kiện làm việc với những lược đồ, biều đồ, số liệu
thống kê,… qua đó khả năng tư duy, sáng tạo tính tích cực cũng được phát triển.

Bên cạnh đó, do có nhiều nội dung mở tạo điều kiện cho việc áp dụng xây dựng các
nội dung để áp dụng phương pháp học tập từ trải nghiệm. Để HS hiểu được ý nghĩa
của các vấn đề của địa lí với thực tiễn cuộc sống, có khả năng vận dụng các kiến
thức đã được học để giải quyết vấn đề, và có hứng thú, say mê hơn với môn Địa lí,
GV cần phải xây dựng các bài học trải nghiệm có nội dung sao cho phù hợp với
mục đích, yêu cầu và đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng
và sử dụng phương pháp dạy học trải nghiệm sáng tạo nhằm phát triển năng lực của
người học, là công cụ học tập hiệu quả, phục vụ đắc lực cho việc học tập môn Địa lí
nói chung và là tiền đề để HS phát triển kiến thức từ khái quát đến cụ thể ở cấp lớp
tiếp theo
Trang 19


III - CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM THỰC
HIỆN TRONG MÔN ĐỊA LÍ LỚP 10

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông có hình thức tổ
chức rất đa dạng, phong phú. Cùng một chủ đề, một nội dung giáo dục nhưng hoạt
động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ chức theo nhiều hình thức hoạt động khác nhau,
tùy theo lứa tuổi và nhu cầu của học sinh, tùy theo điều kiện cụ thể của từng lớp,
từng trường, từng địa phương. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ chức dưới
nhiều hình thức hoạt động khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi,
diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, sinh hoạt tập thể…
Mỗi hình thức hoạt động trên đều tiềm tàng trong đó những khả năng giáo dục nhất
định. Nhờ các hình thức tổ chức đa dạng, phong phú mà việc giáo dục học sinh
được thực hiện một cách tự nhiên, sinh động, nhẹ nhàng, hấp dẫn, không gò bó và
khô cứng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí cũng như nhu cầu, nguyện vọng của
học sinh. Trong quá trình thiết kế, tổ chức thực hiện và đánh giá hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, cả giáo viên lẫn học sinh đều có cơ hội thể hiện sự sáng tạo, chủ
động, linh hoạt của mình, làm tăng thêm tính hấp dẫn, độc đáo của các hình thức tổ

chức hoạt động.
Trên cơ sở yếu tố nội dung môn Địa lí và các đặc điểm, nguyên tắc tổ chức
HĐTNST chúng tôi nhận thấy các hình thức tổ chức phù hợp HĐT qua môn Địa lí
gồm:
1. Tổ chức thảo luận
Đây có lẽ là cách thức tổ chức dạy học trải nghiệm đơn giản và dễ thực hiện
nhất với điều kiện nước ta cũng như mặt bằng chung của các trường phổ thông hiện
nay. Thảo luận có thể diễn ra trong phạm vi hẹp trong lớp học dưới sự hướng dẫn
điều khiển của giáo viên học sinh cùng nhau trao đổi tìm ra nguyên nhân và giải
pháp thực hiện chủ đề cùng trao đổi. Qua cách học này các em có thể trực tiếp trao
đổi ý kiến, bày tỏ ý kiến với những người xung quanh mà trực tiếp là thầy cô và
bạn bè trong lớp. Đây là hoạt động thiết thực để học sinh bày tỏ suy nghĩ, ý kiến
Trang 20


quan điểm hay đề ra những câu hỏi đề xuất về vấn đề. Chính không gian tạo nên sự
tôn trọng bình đẳng đã khuyến khích kích thích tính hứng thú, nguyện vọng học tập
của các em. Đồng thời đây cũng là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn
nhau. Thông qua việc thảo luận giúp các em khẳng định vai trò tiếng nói của mình,
đưa ra suy nghĩ và hành vi tích cực để khẳng định mình. Thảo luận góp phần giúp
các em tự tin và xây dựng kĩ năng cần thiết như: kĩ năng phát biểu ý kiến trước tập
thể, kĩ năng trình bày vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng phát
hiện vấn đề…Bên cạnh đó với hình thức thảo luận còn tăng cường tính độc lập tự
chủ ở người học. Giáo viên chỉ là người tổ chức còn học sinh là người chủ trì, dẫn
dắt, thực hiện. Tuy nhiên đây cũng chỉ là bước đầu của học tập trải nghiệm hình
thức tổ chức này sẽ khó phát huy hết năng lực người học và đặc biệt là những em
học sinh còn chưa chú ý tới học tập. Bởi vậy giáo viên cần có những hình thức tổ
chức hấp dẫn với tất cả đối tượng học sinh nhằm phát triển năng lực ở người học.
2. Hoạt động câu lạc bộ (CLB)
Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm HS cùng sở

thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm tạo
môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các HS với nhau và giữa HS với thầy
cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của CLB tạo cơ hội để HS được chia
sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà HS quan tâm, qua đó
phát triển các kĩ năng của HS như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt
ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ
năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… CLB là
nơi để HS được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập,
quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền
được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thông qua hoạt
động của các CLB, nhà giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng
mục đích chính đáng của HS. CLB hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống
nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ chức với nhiều nội dung khác nhau
như: CLB em yêu Địa lí ; CLB Địa lí thiên văn; CLB tìm hiểu kỳ quan thế giới;
Trang 21


CLB Việt Nam đất nước con người; CLB chủ quyền Việt Nam; CLB kinh tế thời
hội nhập…
3. Tổ chức các trò chơi
Trò chơi Địa lí còn có vai trò tạo hứng thú học tập, niềm tin và tình cảm của
học sinh được nâng cao. Đối với các em học sinh, môn Địa lí trở nên sinh động,
gần gũi, thiết thực hơn, giúp các em yêu thích môn Địa lí hơn.
Để có một trò chơi đúng nghĩa và bổ ích phải hội tụ 3 yếu tố sau: Xây dựng
bầu không khí vui tươi, sống động, thu hút tất cả mọi người cùng tham gia; Rèn
luyện kỹ năng phản ứng nhanh, tháo vát, quyết đoán..., Giáo dục chiều sâu: Thông
qua các trò chơi giúp các em học sinh nhận thức được tinh thần đoàn kết, tình đồng
đội và kỹ luật tập thể, tính trung thực.
Để thực hiện trò chơi Địa lí cần thực hiện những nguyên tắc sau: Tổ chức trò
chơi Địa lí phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức và hoàn cảnh học

tập của học sinh, phù hợp với điều kiện vật chất và không gian, thời gian thực
hiện; Nội dung trò chơi là nội dung địa lí hoặc có liên quan trực tiếp, giúp mở
rộng, nâng cao kiến thức, kỹ năng địa lí; Trò chơi địa lí tuy mang tính tự nguyện
tham gia nhưng phải đề cao tinh thần kỷ luật, ý thức tập thể của học sinh; đề cao
được vai trò, tính tích cực, sáng tạo của các cá nhân học sinh.
Một số yêu cầu để thực hiện tiết dạy có trò chơi Địa lí
Để trò chơi tiến hành có kết quả mong muốn thì cần có sự kết hợp đồng bộ
giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên là khách thể nhưng trực tiếp chỉ đạo điều
hành cuộc chơi, học sinh là chủ thể tham dự trực tiếp trò chơi. Vì vậy cần:
* Về phía giáo viên
Thứ nhất, chuẩn bị biên soạn: Nội dung trò chơi, hình thức chơi và cụ thể trò
chơi nào sao cho phù hợp với hàm lượng kiến thức cần chuyển tải trong bài dạy.
Đây là bước mở đầu hết sức quan trọng để đi đến thành công hay không.
Trang 22


Như vậy ngoài việc giảng dạy truyền đạt kiến thức, giáo viên còn là chủ biên
tập tốt, gồm: Chuẩn bị một số phương tiện đồ dùng cần thiết thích hợp cho trò chơi
như:
Các mảnh bản đồ cắt rời (bản đồ trống, tự nhiên kinh tế, tổng hợp hoặc từng
yếu tố) và ghi sẵn các câu hỏi nêu dưới hoặc bên trên để học sinh trả lời đã đề ra
nhằm củng cố các khái niệm địa lí.
Các phiếu có ghi sẵn các câu hỏi và hình vẽ mang nội dung kiến thức bản đồ,
biểu đồ v.v...; Các phiếu có ghi sẵn nội dung mô tả các sự vật hiện tượng địa lí
nhưng không định rõ câu trả lời về đối tượng đó (mô tả đủ điều kiện tự nhiên, dân
cư hoặc kinh tế v.v...) của một quốc gia nhưng không biết tên và địa điểm; Các lược
đồ và đồ thị vẽ sẵn; Bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, đồ thị; Bảng phụ
Thứ hai, chuẩn bị các hình thức trò chơi: Hình thức trò chơi rất đa dạng,
phong phú. Tùy vào quy mô, đối tượng học sinh, chương trình địa lý ở các khối lớp
khác nhau, điều kiện cơ sở vật chất chúng ta có thể tổ chức được những trò chơi

phù hợp với học sinh. Các hình thức có thể là là hình thức giải đố, đặt câu đố, bài
đố, cả lớp, cá nhân.
* Về phía học sinh
Thứ nhất, chuẩn bị ở nhà: Đây chính là các thành viên tham gia trực tiếp
cuộc chơi. Nếu các em chuẩn bị ở nhà chu đáo thì cuộc chơi diễn ra thuận lợi có
hiệu quả.
Một khi đã trở thành thói quen, thì việc chuẩn bị ở nhà giáo viên không cần
nhắc nhở vì bản thân các em đã ham thích, vì mình cần chiến thắng, gồm các việc
sau: Nắm bắt nội dung kiến thức một cách kỹ càng. Nắm bắt kiến thức sắp và sẽ
học đến (hoặc rộng hơn nữa). Sưu tầm sách báo, tranh ảnh, tài liệu v.v... có liên
quan đến kiến thức mình học.
Trang 23


Thứ hai, trong giờ học các học sinh cần: Mạnh dạn và ham thích chơi trò
chơi;Nhanh nhẹn chớp lấy cơ hội; Trả lời nhanh gọn, súc tích.
Dưới đây là trò chơi đuổi hình bắt chữ có thể áp dụng vào quá trình dạy - học
môn Địa lí:
- Luật chơi: Giáo viên đưa ra một hình ảnh hoặc nhiều hình ảnh trong đó có
ẩn chứa một từ, một cụm từ nào đó yêu cầu học sinh cả lớp độc lập suy nghĩ và trả
lời thật nhanh.
- Áp dụng: Giáo viên nên tổ chức trò chơi đuổi hình bắt chữ ở đầu tiết để dẫn
dắt vào bài mới với những hình ảnh đẹp, phù hợp sẽ gây hứng thú, kích thích trí tò
mò của học sinh ngay đầu tiết học.
Những ưu điểm khi tổ chức trò chơi trong dạy học Địa lí
Trong quá trình nhận thức của con người sự hứng thú giữ vai trò hết sức
quan trọng. Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông,
luật giáo dục có đề cập đến vấn đề là: “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh.
Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Cốt

lõi của việc đổi mới phương pháp dạy và học là hướng tới học tập chủ động, chống
lại thói quen học tập thụ động”.Một khi các em đã có hứng thú, có niềm vui sẽ tạo
cho các em tâm thế mỗi ngày đến trường là một ngày vui
Do đó việc tổ chức trò chơi địa lí cho học sinh ở lớp là những hình thức
phong phú hổ trợ tích cực cho học tập của học sinh. Nó gợi cho các em “óc tò mò”
ham khám phá, ham hiểu biết, kích thích sự chủ động sáng tạo và giúp các em học
tập tốt hơn.

Trang 24


4. Sân khấu hóa
Sân khấu hóa (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật dựa trên hoạt
động diễn kịch, thi thời trang, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra tình
huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính
là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề
cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của hoạt động này là
nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để HS đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử
lí tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội dung nào của cuộc sống. Thông qua
sân khấu hóa, sự tham gia của HS được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho HS
rèn luyện những kĩ năng như: kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, kĩ
năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống
và khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống,…Môn Địa lí có rất nhiều
cơ hội với hình thức tổ chức này, đặc biệt nội dung kinh tế - xã hội với đặc trưng
văn hóa các vùng miền khác nhau, nhờ sự tái hiện và trải nghiệm thực sự để phát
huy sức sáng tạo trong trình diễn, trong nội dung nhằm đạt được mục tiêu môn học.

5. Thực địa (tham quan, dã ngoại)
Đây là hình thức tổ chức học tập trải nghiệm hiệu quả nhất bởi tính hấp dẫn đối
với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để học sinh được đi thăm, tìm

hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các danh thắng, các di tích lịch sử, văn hóa,
công trình, nhà máy hoặc một địa danh nổi tiếng của đất nước ở xa nơi các em đang
sống, học tập…giúp các em có được những kinh nghiệm thực tế, từ mô hình, cách
làm hay và hiệu quả trong một lĩnh vực nào đó từ đó có thể áp dụng vào chính cuộc
sống các em. Nội dung tham quan dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học
sinh như: giáo dục lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, giáo dục truyền thống cách
mạng,…
Tham quan dã ngoại giúp tăng cường cơ hội cho học sinh được giao lưu, chia sẻ
và thể hiện những khả năng vốn có của mình. Đồng thời giúp các em cảm nhận
Trang 25


×