Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Luận văn Thạc sĩ Hành vi rào đón trong truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
________________________________

NGUYỄN THỊ THUẬN

HÀNH VI RÀO ĐÓN TRONG TRUYỆN NGẮN
NAM CAO TRƢỚC CÁCH MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

HẢI PHÒNG - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

NGUYỄN THỊ THUẬN

HÀNH VI RÀO ĐÓN TRONG TRUYỆN NGẮN
NAM CAO TRƢỚC CÁCH MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM


MÃ SỐ: 8.22.01.02

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận

HẢI PHÒNG - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công
bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời
cam đoan này.
Hải Phòng, 5 tháng 8 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Thuận


ii

LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Thuận
ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trƣờng Đại học Hải Phòng, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Viện Ngôn ngữ học - Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam đã nhiệt tình giảng dạy, cung cấp cho tôi những vấn đề lý luận làm cơ sở
cho việc nghiên cứu đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Phòng Quản lí đào tạo sau đại học - Trƣờng Đại

học Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp và các bạn học viên lớp Cao học Ngôn ngữ K7, luôn động viên, chia
sẻ, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này.
Hải Phòng, tháng 8 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Thuận


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT................................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................... vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 8
1.1.Giao tiếp và các nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp ............................... 8
1.1.1. Ngữ cảnh ................................................................................................. 8
1.1.2. Ngôn ngữ ............................................................................................... 12
1.1.3. Diễn ngôn .............................................................................................. 12
1.2. Các quy tắc hội thoại ................................................................................ 13
1.2.1. Nguyên tắc cộng tác hội thoại ............................................................... 13
1.2.2. Phép lịch sự ........................................................................................... 15
1.3. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ ...................................................................... 23
1.3.1. Động từ nói năng và động từ ngữ vi ..................................................... 23
1.3.2. Hành vi ở lời.......................................................................................... 24

1.4. Hành vi rào đón ........................................................................................ 25
1.4.1. Khái niệm về hành vi rào đón ............................................................... 25
1.4.2. Phân loại hành vi rào đón ...................................................................... 25
1.4.3. Một số nhân tố tác động đến sự hình thành hành vi rào đón trong giao
tiếp tiếng Việt .................................................................................................. 26
1.5. Vài nét về Nam Cao và tác phẩm của Nam Cao trƣớc Cách mạng ......... 30
1.6. Tiểu kết chƣơng 1..................................................................................... 33
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA BIỂU THỨC RÀO ĐÓN VÀ HÀNH VI RÀO
ĐÓN VÌ PHÉP LỊCH SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƢỚC
CÁCH MẠNG.................................................................................................. 34
2.1. Đặc điểm của biểu thức rào đón trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách
mạng ................................................................................................................ 34


iv

2.1.1. Một số dạng của biểu thức ngữ vi rào đón trong truyện ngắn Nam Cao
trƣớc Cách mạng ............................................................................................. 34
2.1.2. Các thành phần của biểu thức rào đóntrong truyện ngắn Nam Cao trƣớc
Cách mạng ....................................................................................................... 40
2.1.3. Đặc điểm cấu tạo của biểu thức rào đóntrong truyện ngắn Nam Cao
trƣớc Cách mạng ............................................................................................. 45
2.2. Hành vi rào đón vì phép lịch sự trong truyện ngắn Nam Caotrƣớc Cách
mạng ................................................................................................................ 49
2.2.1. Hành vi rào đón vì phép lịch sự dƣơng tính trong truyện ngắn Nam
Cao trƣớc Cách mạng ...................................................................................... 51
2.2.2. Hành vi rào đón vì phép lịch sựâm tính trong truyện ngắn Nam Cao
trƣớc Cách mạng ............................................................................................. 53
2.3. Tiểu kết chƣơng 2..................................................................................... 58
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM HÀNH VI RÀO ĐÓN GẮN VỚI NGUYÊN TẮC

CỘNG TÁC HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮNNAM CAO TRƢỚC
CÁCH MẠNG................................................................................................. 60
3.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 60
3.2. Miêu tả hành vi rào đón gắn với từng phƣơng châm hội thoại trong truyện
ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng .................................................................... 62
3.2.1. Hành vi rào đón gắn với phƣơng châm về chất .................................... 62
3.2.2. Hành vi rào đón gắn với phƣơng châm quan hệ ................................... 69
3.2.3. Hành vi rào đón gắn với phƣơng châm về lƣợng.................................. 73
3.2.4. Hành vi rào đón gắn với phƣơng châm cách thức ................................ 78
3.2.5. Hành vi rào đón gắn với một số phƣơng châm hội thoại ...................... 83
3.3. Tiểu kết chƣơng 3..................................................................................... 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88
PHỤ LỤC


v

QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Chữ viết tắt
A

Nhân vật hội thoại (vai nói)

B

Nhân vật hội thoại (vai nghe)


BTNV

Biểu thức ngữ vi

BTRĐ

Biểu thức rào đón

TSXH

Tần suất xuất hiện

FFA

Hành vi tôn vinh thể diện (Face Flattering Acts)

FTA

Hành vi đe dọa thể diện (Face Threatening Acts)

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TLTK


Tài liệu tham khảo

Tr

Trang


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng tổng hợp về các dạng của biểu thức rào đón

34

bảng
2.1

trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
2.2

Bảng tổng hợp TSXH các thành phần của biểu thức

40


rào đón trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
2.3

Bảng tổng hợp về đặc điểm cấu tạo của biểu thức rào

45

đón trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
2.4

Bảng tổng hợp TSXH hành vi rào đón vì phép lịch sự

50

trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
3.1

Bảng tổng hợp hành vi rào đón gắn với từng phƣơng

60

châm hội thoại
3.2

Bảng tổng hợp về tần suất xuất hiện các dạng của biểu

65

thức rào đón gắn với phƣơng châm về chất trong

truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
3.3

Bảng tổng hợp về các dạng của biểu thức rào đón gắn

69

với phƣơng châm quan hệ trong truyện ngắn Nam Cao
trƣớc Cách mạng
3.4

Bảng tổng hợp về các dạng của biểu thức rào đón gắn

74

với phƣơng châm về lƣợng trong truyện ngắn Nam
Cao trƣớc Cách mạng
3.5

Bảng tổng hợp về các dạng của biểu thức rào đón gắn
với phƣơng châm cách thức trong truyện ngắn Nam
Cao trƣớc Cách mạng

79


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Hội thoại là hoạt động tƣơng tác liên nhân, trong đó các nhân vật
hộithoại ảnh hƣởng, tác động qua lại gây nên ở nhau những thay đổi về hành
động, trạng thái tâm lí, tình cảm... Bởi vậy khi tham gia hội thoại, ngoài việc
đƣa ra một nội dung thông tin nào đó, ngƣời tham gia hội thoại còn cân nhắc
nên lựa chọn các hành vi ngôn ngữ nào và thực hiện theo cách thức nào....
Trong nhiều trƣờng hợp, để đạt đƣợc hiệu quả giao tiếp, ngƣời ta còn cần đến
những yếu tố phụ trợ đi kèm với các hành vi ngôn ngữ để làm tăng hay giảm
hiệu lực ở lời của những phát ngôn ngữ vi do hành vi ngôn ngữ đó tạo ra. Một
trong những yếu tố này là lời rào đón. Trong giao tiếp của ngƣời Việt, lời rào
đón xuất hiện tƣơng đối cao và mỗi lần xuất hiện đều đem lại hiệu quả giao
tiếp không phủ nhận. Lời rào đón đƣợc sử dụng để ngăn ngừa sự hiểu lầm
hoặc những phản ứng không hay đối với lời nói của chủ ngôn. Bằng việc rào
đón nội dung thông tin và hiệu quả ngoài lời, lời rào đón góp phần làm giảm
nguy cơ đe dọa thể diện, làm tăng tính lịch sự trong giao tiếp. Lời rào đón
khiến cho cuộc thoại trở nên uyển chuyển hơn và giữ đƣợc mạch liên tục, góp
phần duy trì và nâng cao hiệu quả của quá trình giao tiếp. Rào đón là một hiện
tƣợng ngôn ngữ mang đậm dấu ấn tâm lí, bản sắc văn hóa dân tộc của ngƣời
Việt Mặc dù hành vi rào đón đã đƣợc nghiên cứu nhiều ở nƣớc ngoài, nhƣng
ở Việt Nam, hành vi ngôn ngữ này chủ yếu đƣợc đề cập đến một cách lẻ tẻ
trong một số ít bài viết hoặc công trình khảo cứu, rất ít công trình nghiên cứu
một cách hệ thống về hiện tƣợng ngôn ngữ này. Vì vậy, nghiên cứu hành vi
rào đón là việc làm cần thiết đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động
giao tiếp.
1.2.Trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, trào lƣu văn học
hiện thực phê phán 1930 - 1945 nói riêng, Nam Cao là một trong những nhà
văn xuất sắc. Ở nhà trƣờng THCS và THPT, Nam Cao có nhiều tác phẩm


2


đƣợc giảng dạy, vì thế nghiên cứu tác phẩm của ông sẽ hữu ích cho việc dạy
học Ngữ văn trong nhà trƣờng. Đây chính là cơ sở để chúng tôi đi vào nghiên
cứu, tìm hiểu đề tài “Hành vi rào đón trong truyện ngắn Nam Cao trước
Cách mạng”, hi vọng bằng những kết quả nghiên cứu cụ thể, luận văn sẽ góp
phần nhất định vào việc tìm hiểu một cách sâu sắc và hệ thống hơn về hành vi
ngôn ngữ rào đón. Từ đó sẽ góp phần nhất định vào việc nâng cao chất lƣợng
dạy học tác phẩm của Nam Cao nói riêng cũng nhƣ đáp ứng những yêu cầu
dạy học Ngữ văn nói chung đang đƣợc đặt ra hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Rào đón là một hiện tƣợng thƣờng gặp trong hoạt động giao tiếp.Việc
nghiên cứu các yếu tố ngôn ngữ có chức năng rào đón trong hoạt động giao
tiếp của ngƣời Việt còn chƣa đƣợc Việt ngữ học quan tâm. Trong ngữ pháp
học, các yếu tố ngôn ngữ có chức năng rào đón thƣờng đƣợc gộp chung vào
thành phần tình thái của phát ngôn - thành phần thể hiện thái độ, sự đánh giá
của ngƣời nói với nội dung thông báo của phát ngôn, hoặc đối với hoàn cảnh
phát ngôn hay với hiện thực. Trong Tạp chí Ngôn ngữ số 1/1988, giáo sƣ
Hoàng Tuệ nhận định: “Các từ thƣờng gọi là trạng từ hay phó từ và ngữ tƣơng
đƣơng với phó từ, trạng từ nhƣ có lẽ, hình như, chắc chắn, theo tôi, đƣợc xem
là phƣơng tiện từ vựng biểu thị thành phần tình thái nhƣng không gắn với vị
ngữ mà ở ngoài cấu trúc của vị ngữ”. [30, tr.1-5]
Tác giả Cao Xuân Hạo trong “Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức
năng” (1991) nhận định rằng: “Tình thái của câu có thể đƣợc biểu thị bằng
khởi ngữ (ngữ đoạn mở đầu câu ) nhƣ: có lẽ, tất nhiên…” [13, tr.51]
Về phƣơng diện này, giáo sƣ Đỗ Hữu Châu [ Dẫn theo 18, tr.13]nhận
xét: “Việc gộp các yếu tố rào đón vào phạm trù tình thái đã xóa mờ mất ranh
giới và những chức năng cực kì thú vị của chúng, những chức năng mang
đậm màu sắc văn hóa dân tộc riêng của từng ngôn ngữ”.
Tác giả Diệp Quang Ban (chủ biên) trong công trình“Ngữ pháp Tiếng
Việt” khi nói về tình thái của phát ngôn, đã chỉ ra rằng: “Trong phân tích mặt



3

dụng học của phát ngôn, các biểu thức tình thái chỉ độ tin cậy và tình thái ý
kiến đƣợc xếp vào các yếu tố rào đón. Tình thái chỉ độ tin cậy nêu lên mức độ
nào đó trong niềm tin của ngƣời nói vào cái đƣợc nói đến trong câu. (Ví dụ:
Chẳng lẽ, hình như, chắc là…). Tình thái chỉ ý kiến - diễn đạt ý kiến của
ngƣời nói đối với điều đƣợc nói đến trong câu (đối với nghĩa miêu tả của câu)
nhƣ: Nói trộm bóng, nói của đáng tội, theo chỗ tôi biết…” [1, tr. 204]
Yếu tố rào đón tiếp tục đƣợc Diệp Quang Ban bàn tới trong bài “Ứng
dụng cách nhìn dụng học vào việc giải thích một số yếu tố có mặt trong
câu - phát ngôn”. Theo tác giả “Trong tiếng Việt có những yếu tố “lang
thang” thƣờng có tính chất quán ngữ loại nhƣ anh còn lạ gì, nói khí vô
phép…Chúng không thuộc cấu trúc cú pháp của câu và cũng không dễ dàng
gia nhập thành phần biệt lập vì chúng có phần khác với các thành phần biệt
lập đó” [2, tr.17]… Từ khái niệm công cụ là các phƣơng châm hội thoại của
Grice, tác giả viết: “Trong dụng học, những yếu tố trong phát ngôn có quan
hệ đến việc ngƣời nói ghi nhận việc sử dụng các phƣơng châm nêu trên thì
đƣợc xếp vào số những lời rào đón”. [2, tr.17].Và ông đã xếp những yếu tố
ngôn ngữ “lang thang” trên vào số những lời rào đón. Để giải thích những yếu
tố này, tác giả gắn chúng với bốn phƣơng châm hội thoại của Grice: những
yếu tố ngôn ngữ gắn với phƣơng châm chỉ lƣợng, những yếu tố ngôn ngữ gắn
với phƣơng châm về chất, những yếu tố ngôn ngữ gắn với phƣơng châm quan
hệ, những yếu tố ngôn ngữ gắn với phƣơng châm các thức.
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong “Đại cƣơng ngôn ngữ” (Tập 2- phần
Dụng học) đã xếp rào đón vào “Chiến lƣợc lịch sự âm tính để né tránh những
hành vi đe dọa thể diện hoặc bù đắp, giảm nhẹ hiệu lực của cá nhân trong giao
tiếp”. [7, tr. 273]
Cũng xếp rào đón vào chiến lƣợc lịch sự âm tính, Nguyễn Quang đã
nghiên cứu rào đón theo lực ngôn trung (hay còn gọi là hiệu lực ở lời) và theo

nguyên tắc của Grice. “Xét theo lực ngôn trung, các dấu hiệu rào đón này sẽ
đƣợc phân loại thành: các dấu hiệu rào đón đƣợc mã hóa trong tiểu từ và các


4

dấu hiệu rào đón trạng ngữ - mệnh đề. Xét theo nguyên tắc hội thoại của
Grice, các dấu hiệu rào đón đƣợc phân chia làm bốn tiêu chí:
Chất: Các dấu hiệu rào đón nhƣ: hình như là, có vẻ là, tôi đoán là, người
ta đồn là…
Lƣợng: Các dấu hiệu rào đón là: khoảng, khoảng độ, áng chừng, ở một
chừng mực nào đó…
Hệ: Các dấu hiệu rào đón là: à, nhân đây, tiện dây, rủi quá, tôi rất tiếc
phải nói ra rằng…
Thức: Các dấu hiệu rào đón là: đơn giản là, nó là thế này, nói thực ra
thì, nói cách khác thì…”[24, tr.108]
Rào đón cũng đƣợcmột số tác giả khác đề cập tớinhƣ một yếu tố của
phép lịch sự. Chẳng hạn, Nguyễn Thị Hoàng Yến trong bài viết “Thành
phần mở rộng và các yếu tố lịch sự trong phát ngôn chê” [31, tr.14], Chử
Thị Bích trong bài “Một số biện pháp sử dụng ngôn ngữ biểu hiện phép
lịch sự trong hành vi cho, tặng” [4, tr.52].
Rào đón cũng đƣợc đề cập tới trong các nghiên cứu về chiến lƣợc thực
hiện những hành vi ngôn ngữ cụ thể nhƣ xin phép, nhờ, từ chối, phản bác…
nhƣ Đào Nguyên Phúc trong bài “Biểu thức rào đón trong hành vi ngôn
ngữ xin phép tiếng Việt trên cơ sở lí thuyết về phƣơng châm hội thoại của
Grice”. Tác giả cho rằng “đối với các hành vi ngôn ngữ xin phép, các biểu
thức rào đón có vai trò khá quan trọng. Vì hành vi xin phép có đặc trƣng là lợi
ích chủ yếu thuộc về chính bản thân ngƣời nói nên việc sử dụng các biểu
thức rào đón sẽ giúp cho hành vi xin phép đƣợc thực hiện dễ dàng hơn và đạt
hiệu quả cao hơn.” [22, tr.24]

Trần Chi Mai trong “Cách biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến
bằng các phát ngôn lảng tránh (trên các cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt)”
đã chỉ ra một cách lảng tránh bằng hình thức rào đón.Theo tác giả, “từ chối
bằng hình thức rào đón là một cách tự vệ nhằm đảm bảo cho ngƣời có phát
ngôn từ chối không phải chịu bất kì trách nhiệm gì trƣớc hậu quả có thể xảy


5

ra. Lảng tránh bằng rào đón nhằm tránh sự hiểu lầm về lời từ chối sẽ đƣợc
ngƣời nói đƣa ra” [17, tr.41]
Trong “Một số chiến lƣợc phản bác thƣờng dùng trong tiếng Việt”,
Nguyễn Quang Ngoạn cho rằng: “Rào đón là chiến lƣợc đƣợc sử dụng để
giảm bớt mức độ đe dọa thể diện đối với ngƣời nghe khi phản bác họ bằng
cách tỏ ra lịch sự hơn qua việc sử dụng các tiểu từ tình thái: kiểu như, đại loại
là, nói chung thì, có lẽ, thật ra, thật sự, hoàn toàn, không nhất thiết, nên
chăng…; để ngụ ý rằng ý kiến của ngƣời nói không mang tính áp đặt, hoặc
chỉ có tính chất ƣớm thử hay giãi bày. Do đó mà có sự phản bác dễ đƣợc
chấp nhận hơn.” [20, tr.39]
Những công trình trên đều đã đề cập đến hành vi rào đón ở những khía
cạnh và mức độ khác nhau, mang tính “nhân tiện” khi nghiên cứu hành vi
ngôn ngữ cụ thể nào đó hay khi nghiên cứu về phép lịch sự…nhìn chung vẫn
còn ở dạng khái quát.
Theo những tài liệu mà chúng tôi đã có dịp tìm hiểu thì mới có một
công trình chuyên khảo chuyên sâu phát triển từ luận án tiến sĩ “Hành vi rào
đón trong giao tiếp của ngƣời Việt” của Vũ Thị Nga [18]. Chuyên khảo đó
có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển chuyên ngành Ngữ dụng học ở Việt
Nam nói chung và lí thuyết về lịch sự nói riêng, đồng thời làm sáng tỏ thêm
một số vấn đề về ngôn ngữ nhƣ biểu thức rào đón là một kiểu trạng ngữ ngữ
dụng, tác dụng của nó đối với hiệu lực ở lời của phát ngôn… Kế thừa thành

quả củacác công trình nghiên cứu đi trƣớc, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu những
hành vi rào đón ở một số phƣơng diện cụ thể. Đó là tìm hiểu hành vi rào đón
trong truyện ngắn của Nam Cao trƣớc Cách mạng để góp thêm một cái nhìn
toàn diện và hệ thống hơn về loại hành vi ngôn ngữ này; đồng thời giúp hiểu
thêm về một nét văn hóa truyền thống ứng xử của ngƣời Việt khi giao tiếp.
Từ đó phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy tiếng Việt trong nhà trƣờng các
cấp và góp phần nâng cao hiệu quả của giao tiếp trong đời sống cá nhân cũng
nhƣ trong các hoạt động xã hội khác.


6

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là Hành vi rào đón trong truyện
ngắn Nam Cao trước Cách mạng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát bốn mƣơi truyện ngắn của Nam Cao trƣớc
Cách mạng trong “Tuyển tập của Nam Cao”Nhàxuấtbản Văn học 2016.
4. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, ngƣời viết mong muốn củng cố, nâng cao những
kiến thức lí thuyết liên quan đến hành vi ngôn ngữ nói chung và hành vi ngôn
ngữ rào đón nói riêng. Trên cơ sở vận dụng những kiến thức lí luận vào
nghiên cứu “Hành vi rào đón trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách
mạng” để thấy đƣợc hiệu quả trong việc sử dụng hành vi ngôn ngữ rào đón
đối với việc xây dựng nhân vật trong giao tiếp nói chung và hội thoại nói
riêng của nhà văn. Từ đó, phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy tiếng Việt
trong nhà trƣờng phổ thông và góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp trong đời
sống cá nhân cũng nhƣ trong các hoạt động xã hội khác.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu đặc điểm của biểu thức rào đón và hành vi rào đón vì
phéplịch sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
- Tìm hiểu đặc điểm hành vi rào đón về nguyên tắc cộng tác hội thoại
trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp và thủ pháp sau:
- Thủ pháp thống kê phân loại dùng để thông kê phân loại tần suất xuất
hiện các hành virào đón trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
- Phƣơng pháp miêu tả đƣợc sử dụng xuyên suốt đề tài dùng để miêu tả


7

những biểu hiện của hành virào đón trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách
mạng.
- Phƣơng pháp phân tích, đánh giá để chỉ ra ý nghĩa của việc sử dụng
các hành vi rào đón trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng.
- Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn để phân tích, diễn giải các ví dụ tiêu
biểu.
7. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, TLTK, Phụ lục,
phần nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Đặc điểm của biểu thức rào đón và hành vi rào đón vì phép
lịch sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
Chƣơng 3: Đặc điểm hành vi rào đón gắn với nguyên tắc cộng tác hội
thoại trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng
8. Ý nghĩa lí luân và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Giải quyết tốt nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là một công việc có ý

nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
Về lí luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề vềlí thuyết
giao tiếp
Về thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài này giúp ngƣời đọc hiểu sâu sắc hơn
những vấn đề giao tiếp và phép lịch sự trong giao tiếp. Riêng đối với giáo
viên, nghiên cứu đề tài nàysẽ giúp cho giáo viên giảng dạy tốt giao tiếp cho
học sinh phổ thông; đồng thời, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành
tài liệu tham khảo hữu ích đối với những ai quan tâm tới lĩnh vực này.


8

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Giao tiếp và các nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp
Giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin (hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả
tri thức, miêu tả, thái độ, tình cảm, ƣớc muốn, hành động…) giữa hai chủ thể
giao tiếp (kể cả trƣờng hợp một ngƣời giao tiếp với chính mình) diễn ra trong
một ngữ cảnh và tình huống nhất định, bằng một hệ thống tín hiệu nhất định.
Nhân tố giao tiếp bao gồm những cái đã có và những cái đƣợc sản sinh
trong giao tiếp có ảnh hƣởng, chi phối hình thức, nội dung, diễn tiến và kết
quả của giao tiếp. Theo Đỗ Hữu Châu, nhân tố giao tiếp bao gồm: ngữ cảnh,
ngôn ngữ và diễn ngôn.
1.1.1. Ngữ cảnh
1.1.1.1. Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những ngƣời tham gia vào cuộc giao tiếp bằng
ngôn ngữ. Giữa các nhân vật có quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.
Nhân vật giao tiếp gồm ngƣời nói, ngƣời viết (ngƣời phát tín hiệu) và
ngƣời nghe, ngƣời đọc (ngƣời nhận tín hiệu). Một cuộc giao tiếp đƣợc diễn ra
ít nhất là giữa hai nhân vật giao tiếp. Tuy nhiên, nhân vật giao tiếp không nhất

thiết phải là giữa hai ngƣời khác nhau mà kể cả trƣờng hợp một ngƣời có thể
tự giao tiếp với chính bản thân mình, nhƣ khi suy nghĩ, băn khoăn, về một
việc gì và tự đƣa ra ý kiến của mình và tự biện luận với chính ý kiến của mình
để tìm giải pháp.
Nhân vật giao tiếp có vai trò nhất định trong cuộc giao tiếp. Cƣơng vị
của họ đối với nhau là cơ sở để xét đến các cách họ nói năng với nhau, có bắt
buộc phải theo quy thức hay không theo quy thức.
a. Vai xã hội và vai giao tiếp
Trong mỗi cuộc giao tiếp đều có sự phân vai. Có vai nói và vai nghe. Họ là
đối ngôn của nhau. Trong các cuộc giao tiếp mặt đối mặt thì liên tục có sự luân


9

chuyển vai: vai nói sau khi nói xong thì chuyển thành vai nghe và ngƣợc lại.
Bên cạnh đó, con ngƣời trong giao tiếp ngôn ngữ là các thành viên của
một hệ thống giao tiếp xã hội cụ thể. Tâm lí học xã hội gọi vị trí hay chức
trách và các quan hệ xã hội ấn định cho một cá nhân nào đó trong một hệ
thống xã hội là vai xã hội. Vai xã hội đƣợc quy định bởi địa vị của các cá
nhân trong mối quan hệ với các thành viên khác. Các địa vị ấy làm nên giá trị
xã hội của mỗi cá nhân trong nhóm. Trong quan hệ vai, mỗi thành viên của
nhóm đƣợc ấn định cho một bộ hành vi cá nhân thích hợp với vai của mình.
Bộ hành vi này nói chung là ổn định, lặp đi lặp lại và để lại dấu ấn đậm nét
trong ứng xử ngôn ngữ của mỗi ngƣời. Chẳng hạn chúng ta vẫn thƣờng hay
nhận xét : « Nói năng như ông cụ non », « Nói giọng bà chủ »…
Trên thực tế, con ngƣời luôn có các quan hệ giao tiếp đa dạng với rất
nhiều ngƣời trong xã hội, vì vậy mỗi ngƣời bao giờ cũng có một bộ vai phản
ánh quan hệ xã hội của cá nhân đó. Mỗi vai đƣợc xác lập từ một một cặp vai
(cha/mẹ - con, anh/chị - em, bác sĩ - bệnh nhân, giáo viên - học sinh, ngƣời
bán - ngƣời mua…). Mỗi cặp vai có một ngôn ngữ riêng trong ứng xử xã hội,

tƣơng ứng với một biến thể ngôn ngữ cá nhân của vai đó. Trong quan hệ vai,
mỗi ngƣời có một số ngôn ngữ cá nhân tƣơng ứng với từng quan hệ vai. Khi
cá nhân chuyển từ vai này sang vai khác thì cũng chuyển mã ngôn ngữ của
mình - chuyển sang một biến thể ngôn ngữ cá nhân khác thích hợp với quan
hệ vai mới.
Các vai xã hội thƣờng đƣợc phân thành hai nhóm: vai thƣờng xuyên và
vai lâm thời hay vai tình huống. Vai thƣờng xuyên đƣợc đặc trƣng bởi giới
tính, lứa tuổi, nghề nghiệp. Vai lâm thời có hai nhóm: lâm thời thể chế và lâm
thời tình huống.
Thuộc vai lâm thời thể chế có thể gặp trong các quan hệ xã hội nhƣ : thủ
trƣởng - nhân viên, cha mẹ - con cái, vợ - chồng… Còn vai giữa ngƣời mua
và ngƣời bán sẽ xác lập nên nhóm vai tình huống.
Căn cứ vào mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên trong


10

cặp vai, có thể chia quan hệ vai thành hai nhóm :
- Vai ngƣời nói ngang hàng với vai ngƣời nghe (A=B)
- Vai ngƣời nói không ngang hàng với ngƣời nghe. Trong đó :
+Vai ngƣời nói thấp hơn vai ngƣời nghe (A+ Vai ngƣời nói cao hơn vai ngƣời nghe (A>B)
Thực tế giao tiếp cho thấy, khi A=B, nếu A và B là hai ngƣời đã quen
thân, ngôn ngữ của họ thƣờng ít chuẩn mực nhƣng sinh động, tự nhiên. Nếu A
và B không quen nhau thì ngôn ngữ của họ mang tính chuẩn mực, lịch sự, cả
hai đều cố gắng thể hiện hành vi chuẩn của mình để tránh bị ngƣời đối thoại
đánh giá xấu.
Nếu Anhiều từ ở thức giả định: nếu, nếu đƣợc, có thể… Hành vi rào đón cũng
thƣờng đƣợc sử dụng ở những hoàn cảnh giao tiếp này.

Còn nếu A>B thì ngôn ngữ của A sẽ mang sắc thái mệnh lệnh nhiều hơn.
Trong trƣờng hợp này, hành vi rào đón xuất hiện ít hơn và thƣờng đi kèm với
các hành vi đe dọa thể diện (chê, khuyên, xác tín…)nhằm giảm thiểu mức độ
đe dọa thể diện ở hành vi đó.
b. Quan hệ liên cá nhân
- Theo Giáo trình Ngữ dụng học của GS Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt Hùng:
“Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tƣơng quan xã hội, hiểu
biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau” [ 6, tr.17].
Tác giả Nguyễn Văn Khang trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội - những
vấn đề cơ bản” đã viết: “Để có thể giao tiếp đƣợc với nhau, giữa những
ngƣời tham gia giao tiếp phải có một mối quan hệ qua lại nhất định, đó chính
là quan hệ giao tiếp.”[ 16, tr.198] Theo đó giữa Sp1 và Sp2 luôn luôn tồn tại
một mối quan hệ nhất định nào đó. Chính nó là cái nối kết cuộc thoại, nếu
không có nó cuộc thoại sẽ không thể diễn ra.
- Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật
giao tiếp có thể xét theo hai trục, trục tung là trục vị thế xã hội còn gọi là trục


11

quyền uy và trục hoành là trục của quan hệ khoảng cách, còn gọi là trục thân
cận. Trong xã hội, con ngƣời khác nhau về địa vị xã hội. Cái gọi là địa vị xã
hội có thể do chức quyền, tuổi tác, nghề nghiệp... mà có.
Trên trục khoảng cách, các nhân vật giao tiếp có thể gần gũi và cũng có
thể xa cách nhau. Trục này có hai cực: thân tình và xa lạ với những mức độ
khác nhau. Giữa hai trục quyền uy và trục thân cận có sự tƣơng ứng. Khoảng
cách địa vị xã hội càng lớn thì ngƣời ta càng khó gần gũi nhau.
Trong giao tiếp, quan hệ quyền thế và quan hệ thân cận có sự hòa trộn
vào nhau một cách mật thiết chứ không hề tách rời nhau. Cùng một quan hệ
quyền thế (ngƣời nói ở vị thế cao, ngƣời nghe ở vị thế thấp) nhƣng nếu mức

độ thân - sơ giữa họ khác nhau thì cách sử dụng ngôn từ biểu thị quan hệ vai
giao tiếp cũng khác nhau.
- Quan hệ liên cá nhân chi phối cả tiến trình giao tiếp, cả nội dung và
hình thức của diễn ngôn. Trong các ngôn ngữ, đặc biệt trong tiếng Việt, xƣng
hô chịu áp lực rất mạnh của quan hệ liên cá nhân. Qua xƣng hô mà Sp2 nhận
biết Sp1 đã xác định quan hệ vị thế và quan hệ thân cận giữa anh ta với mình
nhƣ thế nào. Chính bởi quan hệ liên cá nhân chi phối mạnh cách xƣng hô cho
nên những ngƣời đối thoại cũng thƣờng thay đổi cách xƣng hô để thử nghiệm
hoặc bày tỏ ý muốn thay đổi quan hệ liên cá nhân. Trong ngôn ngữ nhƣ tiếng
Việt, sử dụng từ xƣng hô là một chiến lƣợc thiết lập quan hệ liên cá nhân
trong hội thoại.
Chúng tôi đã vận dụng lí thuyết trên vào xem xét các mối quan hệ liên cá
nhân giữa các nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng, từ đó
phát hiện phép lịch sự đƣợc thể hiện qua các hành vi rào đón trong giao tiếp
giữa các nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn trƣớc Cách mạng.
1.1.1.2. Hoàn cảnh giao tiếp
Bất cứ cuộc giao tiếp nào bằng lời cũng diễn ra trong một hoàn cảnh
nhất định.Tất cả những hiện thực nằm ngoài diễn ngôn, tạo nên môi trƣờng
cho cuộc giao tiếp đƣợc gọi là hoàn cảnh giao tiếp.


12

Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm cả những hiện thực có thể cảm nhận đƣợc
bằng các giác quan hƣớng ngoại của thoại nhân, cả những cái phi vật chất
hiện hành trong xã hội nhƣ tín ngƣỡng, lập trƣờng chính trị. Hoàn cảnh giao
tiếp là những hiểu biết về điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lí,
tôn giáo, khoa học…mà ngƣời giao tiếp nắm đƣợc, chúng hợp thành tiền giả
định bách khoa của các thoại nhân trong giao tiếp.
1.1.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp bằng lời. Ngôn ngữ bao gồm hai loại
là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ có các biến thế theo phƣơng ngữ địa lí hay phƣơng ngữ xã
hội, ngữ vực, các loại thể hoặcphong cách chức năng. Ngữ vực đối lập với
phƣơng ngữ.Phƣơng ngữ là biến thể quan hệ với ngƣời dùng, ngữ vực là biến
thể liên quan đến cách dùng.
Các biến thể ngôn ngữ ảnh hƣởng trực tiếp đến diễn ngôn của mỗi ngƣời.
Ngôn ngữ cá nhân trong một cuộc giao tiếp cụ thể ở một ngữ cảnh cụ thể là
hợp thể của các biến thể nói trên cộng với những sáng tạo riêng của từng
ngƣời. Biến thể mà ngƣời giao tiếp phải lựa chọn trƣớc hết là ngữ vực (căn cứ
vào thoại trƣờng và quan hệ liên cá nhân), sau đó mới lựa chọn các biến thể
khác cho thích hợp.
1.1.3. Diễn ngôn
Theo Đỗ Hữu Châu, có thể quan niệm về diễn ngôn nhƣ sau:
- Diễn ngôn là lời của từng ngƣời nói ra trong một cuộc giao tiếp. Cũng
có những diễn ngôn do hai hay hơn hai nhân vật giao tiếp xây dựng nên (nhƣ
trƣờng hợp hội thoại tay ba, hai ngƣời liên kết để chống lại ngƣời thứ ba).
- Tổng những lời nói của một ngƣời trong một cuộc hội thoại có thể là
một diễn ngôn liên tục hay ngắt quãng (cái răng lƣợc với diễn ngôn của nhân
vật kia).
- Diễn ngôn là thuật ngữ chung cho tất cả những đơn vị lời nói phù hợp
với những tiêu chuẩn trên. Tùy theo đƣờng kênh hay phƣơng tiện ngôn ngữ sử


13

dụng mà ta có diễn ngôn nói hay diễn ngôn viết. Diễn ngôn viết đƣợc gọi là
văn bản.
1.2. Các quy tắc hội thoại
1.2.1. Nguyên tắc cộng tác hội thoại

Nguyên tắc cộng tác trong giao tiếp bằng hội thoại là những nguyên tắc
cần đƣợc tuân thủ để tiến hành cuộc thoại có kết quả mong muốn. Trƣớc khi
tiếp cận Nguyên tắc cộng tác, cần tìm hiểu ý nghĩa và vai trò của nguyên tác đó
trong cuộc thoại.
Xét qua nhiều cuộc giao tiếp trong các cảnh huống giao tiếp khác nhau,
các nhà chuyên môn nhận ra rằng cái tin ngƣời ta mong muốn nhận đƣợc qua
sự hợp tác trong giao tiếp không phải là ngẫu nhiên, tuỳ ý, mà chúng đƣợc tổ
chức theo những đòi hỏi chặt chẽ. Các yêu cầu này đã đƣợc nâng lên thành
một nguyên tắc chung: nguyên tắc cộng tác trong hội thoại. Nguyên tắc cộng
tác do Paul Grice (1975) đề xƣớng và chi tiết hoá trong bốn nguyên tắc bậc
dƣới, gọi là phƣơng châm, đó là các phƣơng châm về chất, về lƣợng, về quan
hệ, về cách thức, nhƣ trong
Bảng 1.1. Nguyên tắc cộng tác [3, tr.126 - 127]
BẢNG 1.1. Nguyên tắc cộng tác: Hãy làm cho phần đóng góp của bạn
đúng nhƣ nó đƣợc đòi hỏi, đúng vào giai đoạn nó xuất hiện, bởi cái mục đích
hoặc cái phƣơng hƣớng đã đƣợc chấp nhận của lần trao đổi bằng lời mà bạn
đƣợc tham dự.
Các phƣơng châm:
Lượng
1. Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có chứa tin nhƣ nó đƣợc đòi hỏi
(đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó).
2. Không làm cho phần đóng góp của bạn chứa nhiều tin hơn đang đƣợc
đòi hỏi.
Chất: Cố gắng làm cho phần đóng góp của bạn luôn là chân thực.


14

1. Không nói điều mà bạn tin là không chân thực.
2. Không nói điều mà bạn không chứng minh thoả đáng đƣợc.

Quan hệ: Phải là trọng yếu
Cách thức: Phải rõ ràng.
1. Tránh diễn đạt tối nghĩa.
2. Tránh mơ hồ.
3. Phải ngắn gọn (tránh dài dòng không cần thiết).
4. Phải có thứ tự.
Các điều trình bày trong bảng trên có một số từ ngữ sau đây có thể gây
khó hiểu:
- Trong Nguyên tắc chung (đƣợc nêu trong ba dòng đầu) các tiếng phần
đóng góp chỉ nội dung mang nghĩa “sự việc” trong lời ngƣời dự thoại (không
tính nghĩa liên nhân và nghĩa tình thái). Điều này đƣợc giải thích bằng từ tin
dùng hai lần trong hai phƣơng châm chi tiết 1 và 2 về Lượng nêu trực tiếp bên
dƣới. Tin là phần nghĩa chỉ các nội dung sự việc mới mẻ.
- Trong phƣơng châm Lượng, lời dặn ở điểm 1 “có chứa tin nhƣ nó đƣợc
đòi hỏi” có nghĩa là „vừa đủ‟, về mặt logic „vừa đủ‟ đã bao hàm ý „không còn
thiếu‟. Do đó, trong điểm 2 chỉ yêu cầu “không làm cho… chứa nhiều tin hơn
đang đƣợc đòi hỏi”. Trên cơ sở hai ý đó, không đƣợc phép thêm “không đƣợc
thiếu”, bởi phần này đã có trong “đủ” (đã “đủ” tức là “không thiếu”).
- Trong phƣơng châm Cách thức có sự phân biệt “tối nghĩa” với “mơ hồ”:
“Tối nghĩa” là không hiểu đƣợc nói về cái gì.
“Mơ hồ” là có thể hiểu hơn một cách.
Nhƣ vậy hai thuật ngữ này cần phân biệt với nhau.
Các nhà nghiên cứu lƣu ý chúng ta rằng các phƣơng châm hội thoại là
những điều thông thƣờng và những ngƣời nói năng tốt đều mặc nhiên nắm
đƣợc, không mấy khi phải kể chúng ra. Chẳng hạn, khi một ngƣời nào đó bắt
đầu lời nói của mình bằng “tôi xin nói thực với bác…” hay “chẳng giấu gì


15


bác…” thì đó là những phần liên quan đến phƣơng châm chất, điểm 1 trong
BẢNG 1.1. Hoặc khi ngƣời ta mở đầu bằng “Tôi xin nói vài lời” tức là liên
quan đến phƣơng châm cách thức, chi tiết số 3.Phải ngắn gọn. Tuy nhiên
giữa lời nói và việc làm có khi không khớp nhau, tuyên bố nhƣ vậy nhƣng khi
nói thì tự mình vi phạm điều mình nêu ra; đây cũng là điểm cần chú ý.
Thế nhƣng trong khi thực hiện hội thoại, dù mặc nhiên có nắm đƣợc các
phƣơng châm hội thoại đó, trên thực tế cũng gặp hai trƣờng hợp sau đây:
- Có khi ngƣời nói cố ý không tuân theo một phƣơng châm nào đó.
- Có khi ngƣời nói buộc lòng phải không gắn với một phƣơng châm nào
đó do tình thế bắt buộc.
Trƣờng hợp ngƣời ta cố ý không tuân theo một phƣơng châm nào đó là
trƣờng hợp ngƣời ta muốn để lại một phần ý nghĩa cho ngƣời nghe đoán định,
trƣờng hợp này đƣợc gọi là dùng hàm ý hội thoại (phần gọi là hàm ý là phần
cái muốn nói ra nhiều hơn cái đƣợc nói ra).
Trong trƣờng hợp buộc phải (không thể tránh đƣợc) không gắn với một
phƣơng châm nào đó thì ngƣời nói thƣờng có những cách diễn đạt ghi nhận về
sự không gắn bó đó, những cách diễn đạt nhƣ vậy đƣợc gọi là Lời rào đón.
Do cái thực tế là ngƣời giao tiếp mặc nhiên nắm đƣợc Nguyên tắc cộng
tác, ngƣời nói không ý thức đƣợc về chúng một cách rõ ràng. Chính việc tìm
hiểu hai trƣờng hợp cố tình vi phạm buộc lòng phải không gắn với phƣơng
châm nào đó của Nguyên tắc cộng tác vừa nêu sẽ giúp hiểu đƣợc sâu sắc hơn
thực chất của Nguyên tắc cộng tác.
1.2.2. Phép lịch sự
1.2.2.1. Định nghĩa về phép lịch sự
Nhƣ phần trên đã đề cập trong hội thoại, ngoài quan hệ trao đổi thông tin
(miêu tả, trần thuật những thông tin đƣợc đánh giá theo tiêu chí đúng sai
logic) còn có quan hệ liên cá nhân (quan hệ giữa các vai trong giao tiếp ).
Liên quan trực tiếp đến quan hệ liên cá nhân là vấn đề lịch sự trong giao tiếp.
Sau đây là một số cách hiểu về lịch sự:



16

- Theo Thomas thì: "Trong các công trình này, phép lịch sự đƣợc xem là
một (hay một loạt chiến lƣợc) đƣợc ngƣời nói dùng đề hoàn thành một số mục
đích nhƣ thiết lập hoặc duy trì những quan hệ hài hòa." [dẫn theo 7, tr.256]
- Theo Lakoff thì: "Có thể định nghĩa lịch sự nhƣ là một phƣơng thức để
giảm thiểu sự xung đột trong diễn ngôn (...); Những chiến lƣợc lịch sự có
nhiệm vụ đặc biệt là làm cho cuộc tƣơng tác đƣợc thuận lợi”[dẫn theo 7, tr.256]
Theo Leech, “phép lịch sự liên quan tới quan hệ giữa hai ngƣời tham gia
mà chúng ta có thể gọi là ta và người” [dẫn theo 7, tr.256]
Cụ thể hơn nó có chức năng:
- Gìn giữ sự cân bằng xã hội và quan hệ bạn bè, những quan hệ này
khiến chúng ta có thể tin rằng ngƣời đối thoại với chúng ta tỏ ra trƣớc hết là
cộng tác với chúng ta”. [dẫn theo 7, tr.256]
“Phép lịch sự là hệ thống những phƣơng thức mà ngƣời nói đƣa vào hoạt
động nhằm điều hòa và gia tăng giá trị của đối tác của mình”. [dẫn theo 7, tr. 280]
Tóm lại, lịch sự trong giao tiếp là vấn đề ứng xử giữa ngƣời nói và ngƣời
nghe, nhờ đó mà quan hệ liên cá nhân đƣợc tạo lập và duy trì, qua cách sử
dụng ngôn ngữ khôn khéo nhằm bảo toàn đƣợc thể diện của cả hai phía.
Lịch sự là một vấn đề đƣợc nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm và
tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Sau đây là một số lí thuyết lịch sự tiêu biểu:
1.2.2.2. Các lí thuyết lịch sự
a. Lý thuyết của Lakoff và G.N.Leech
R.Lakoff và G.N.Leech là hai tác giả xem lịch sự là những quy tắc đối
với quan hệ liên cá nhân nhƣ nguyên tắc cộng tác và các phƣơng châm hội
thoại của Grice là quy tắc đối với sự trao đổi thông tin.
R.Lakoff nêu lên ba loại quy tắc lịch sự
- Quy tắc lịch sự quy thức, đó là quy tắc không được áp đặt
+ Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Quy tắc này thích hợp với những ngữ

cảnh trong đó giữa ngƣời tham gia tƣơng tác có những khác biệt đƣợc nhận
biết về quyền lực và cƣơng vị nhƣ giữa sinh viên và chủ nhiệm khoa, giữa


17

công nhân và ông phó giám đốc nhà máy phụ trách tổ chức” [dẫn theo 7,
tr.258]. Áp đặt đối với B (ngƣời nghe) có nghĩa là làm cho B không thể hành
động nhƣ ý B muốn. Không áp đặt có nghĩa là không ngăn cản B làm việc
theo ý muốn của mình, không đƣa ra và không dò tìm quan điểm riêng tƣ,
tránh đả động đến cái riêng của ai, tránh đề cập đến gia đình, đến những vấn
đề thầm kín, thói quen.
+ Quy tắc này buộc chúng ta tránh những lời nói tục tằn, những tiếng
lóng, thổ ngữ, tránh ngôn ngữ cảm xúc, tránh đề tài có tính chất kiêng kỵ nhƣ
tình dục, chính trị, tôn giáo, thân thể...
- Quy tắc lịch sự phi quy thức, đó là quy tắcdành cho người đối thoại sự
lựa chọn
+ Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Đó là quy tắc thích hợp với ngữ cảnh
trong đó ngƣời tham gia có quyền lực và cƣơng vị gần tƣơng đƣơng với nhau
nhƣng không gần gũi về quan hệ xã hội” [dẫn theo 7, tr.259]. Ví dụ: quan hệ
giữa thƣơng nhân và khách hàng mới, quan hệ giữa hai ngƣời không quen biết
trong một phòng thay đồ... Dành cho sự lựa chọn có nghĩa là bày tỏ ý kiến sao
cho ý kiến hay lời thỉnh cầu của mình có thể không đƣợc biết đến mà không
bị phản bác hay từ chối.
+ Ngƣời nói muốn thuyết phục ngƣời nghe theo một quan điểm hay một
công việc nào đó thì A (ngƣời nói) nói sao để B (ngƣời nghe) không nhận ra ý
định của A. Những điều A khẳng định hay thỉnh cầu đều đƣợc rào đón hoặc
chọn cách nói hàm ẩn...
- Quy tắc về phép lịch sự bạn bè hay thân tình:
Đó là quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu

“Quy tắc này thích hợp với những bạn bè gần gũi hoặc thực sự thân mật với
nhau. Trong phép lịch sự thân tình, hầu nhƣ tất cả các đề tài đều có thể đƣợc
đem ra mà trò chuyện”[ dẫn theo 7, tr.260]. Nguyên tắc chi phối của nguyên
tắc lịch sự này không chỉ dừng ở chỗ tỏ ra quan tâm thực sự đến nhau mà còn
phải tỏ ra săn sóc nhau, tin cậy nhau, có thể bộc lộ mọi vấn đề với nhau trong