Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN một số biện pháp xác định đúng từ loại tiếng việt cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.5 KB, 26 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÁC ĐỊNH ĐÚNG TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 5

Lệ Thủy, tháng 2 năm 2019

1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÁC ĐỊNH ĐÚNG TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 5

Họ và tên: Nguyễn Thùy Nhung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mai Thủy

Lệ Thủy, tháng 2 năm 2019

2


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Thời đại CNH - HĐH đòi hỏi con người cần có tri thức và kĩ năng thực hành.


Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm
giúp cho học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học
trung học cơ sở. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh (HS) và cung cấp cho các em những tri thức cần thiết.
Nghị quyết số 29 - Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ghi rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội”.
Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2015 hợp nhất Luật giáo dục do
Văn phòng Quốc hội ban hành đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng với yêu cầu sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, giáo dục giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo và bồi
dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong
bốn dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Mỗi phân
môn đều có nhiệm vụ riêng song mục đích cuối cùng của chúng ta là cung cấp cho
học sinh những kiến thức phổ thông về ngôn ngữ, là cơ sở để hình thành vốn ngôn
ngữ chuẩn, làm nền tảng cho các bậc học về sau. Phân môn Luyện từ và câu rất
quan trọng đối với học sinh bậc tiểu học. Nếu học tốt phân môn này nó sẽ giúp các
em học tốt hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt bởi nó giúp học sinh phát
triển năng lực ngôn ngữ, dùng từ, đặt câu chính xác.
Trong phân môn Luyện từ và câu, học sinh được học những kiến thức cơ bản
về từ, từ loại, câu,… Qua đó giúp học sinh có những hiểu biết ban đầu của những
kiến thức mới. Trong đó, phần từ loại được trải đều trong nội dung bài học từ lớp 2

cho đến lớp 5.

3


Việc học từ loại là vấn đề quan trọng nhất bởi lẽ nó là từ loại cơ bản không
thể thiếu được trong quá trình giao tiếp. Ở tiểu học các em học các khái niệm danh
từ, động từ, tính từ… và kiến thức về các từ loại này cùng với kĩ năng xác định
chúng được kiểm tra dưới dạng cho sẵn các từ rồi yêu cầu học sinh xác định từ loại
cho những từ đó, hoặc yêu cầu các em tìm danh từ, động từ, tính từ trong đoạn thơ,
đoạn văn. Khi xác định các từ loại này, học sinh gặp khó khăn và hay nhầm lẫn
những từ mà nghĩa và hình thức không tiêu biểu cho một từ loại, nhầm danh từ với
tính từ, danh từ với động từ, nhất là hay nhầm tính từ với động từ. Từ việc nhầm
lẫn dẫn đến các em xác định loại câu sai và viết câu sai.
Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 5C, qua một
thời gian giảng dạy tôi thấy học sinh của mình rất cố gắng học tập tất cả các môn
học đặc biệt là môn Tiếng Việt. Nhưng trong thực tế khi học đến từ loại Tiếng Việt
thì nhiều em còn lúng túng. Với suy nghĩ: "Làm thế nào để học sinh nắm chắc kiến
thức này và tự tin hơn trong học tập ?" nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số
biện pháp xác định đúng từ loại Tiếng Việt cho học sinh lớp 5”.
* Điểm mới của đề tài:
Điểm mới của đề tài là tập trung mô tả, đánh giá, phân tích thực
trạng việc dạy từ loại cho học sinh lớp 5. Từ đó, đề xuất cách
hướng dẫn học sinh xác định tốt từ loại, giúp HS nắm vững ngữ
pháp Tiếng Việt.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài
Đề tài được nghiên cứu thực nghiệm tại lớp 5C năm học 2018 - 2019 áp
dụng theo mô hình dạy học VNEN ở Trường Tiểu học nơi tôi công tác.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của việc giảng dạy từ loại Tiếng Việt lớp 5 của nhà trường

Bắt đầu từ năm học 2015 - 2016 trường chúng tôi mở rộng mô hình VNEN
toàn phần. Cùng với đó là sự đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong
đó chú trọng nhất là việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Chính vì vậy đây là cơ hội giúp các em tự tin, mạnh dạn, năng động hơn trong giao
tiếp, học tập đồng thời đây cũng chính là cơ hội để các em tự rèn luyện và chứng tỏ
khả năng tự học, tư duy, sáng tạo của mình. Với phương pháp và hình thức dạy học
mới này thì người giáo viên (GV) giữ vai trò là người quan sát, hướng dẫn, hỗ trợ,
giúp đỡ học sinh khi các em vướng mắc.
Đầu năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 5C. Qua
quá trình giảng dạy và qua việc dự giờ, để học tập chuyên môn ở các đồng nghiệp,

4


tôi nhận thấy việc xác định các từ loại Tiếng Việt của khối 5 nói chung và lớp 5C
nói riêng còn gặp một số ưu điểm và khuyết điểm như sau:
a) Ưu điểm:
- Nhà trường chú trọng công tác bồi dưỡng năng lực, kiến thức chuyên môn cho đội
ngũ. Giáo viên được học bồi dưỡng thường xuyên về phân môn Luyện từ và câu
qua các đợt học chuyên môn, được dự giờ thăm lớp để học hỏi qua đồng nghiệp,
được Ban giám hiệu nhà trường tổ chức thao giảng, chuyên đề để rút ra kinh
nghiệm cho bản thân.
- Theo đặc điểm tâm sinh lí cũng như kinh nghiệm qua các năm giảng dạy, tôi nhận
thấy học sinh lớp 5 cũng đã lớn nên nhận thức tốt hơn, có khả năng tự học tốt hơn.
Các em đã biết xác định từ loại trong những trường hợp đơn giản.
b) Nhược điểm:
* Về phía giáo viên:
- Để HS nắm vững kiến thức về từ, tạo nền tảng cho việc phát triển và sử dụng
ngôn ngữ ngày một phong phú, thì việc giảng dạy nội dung từ loại là một vấn đề
không thể xem nhẹ. Nhưng trên thực tế, nhiều GV cứ theo hướng dẫn hoàn thành

đầy đủ các bài tập và coi như thế là xong, mà không quan tâm xem, sau bài học, cái
gì còn đọng lại trong HS và các em đã vận dụng bài học ấy như thế nào. Đó là lí do
khiến nhiều HS khi học lên đến lớp 5 mà kiến thức về từ loại vẫn còn rất mới mẻ.
- Thực tế cũng cho thấy, GV cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng và đã có những
nhầm lẫn khi giảng dạy nội dung này. Sở dĩ như vậy là do khi xét từ loại cho những
từ cụ thể, GV thường dựa vào nghĩa chứ không nắm được hết các dấu hiệu hình
thức từ loại. Mà nghĩa của từ loại không phải lúc nào cũng dễ xác định. Một từ cụ
thể chỉ sự vật hay hoạt động, trạng thái hay đặc điểm, tính chất không phải lúc nào
cũng có thể tìm ra ngay được. Sự khác nhau về nghĩa hay có dấu hiệu hình thức đi
kèm như thế nào đôi khi GV cũng không nắm được.
- Do thiếu kinh nghiệm cũng như chưa biết đầu tư đúng mức cho tiết dạy nên GV
chưa tạo lập được cơ sở vững chắc cho thành công của tiết dạy: Chưa đầu tư thích
đáng cho việc thiết kế bài giảng, chưa có sự công phu rèn luyện của bản thân.
- Nhiều GV còn rụt rè, e ngại, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
* Về phía học sinh: Trong quá trình thực tế trực tiếp giảng dạy ở nhà trường tôi
thấy học sinh khối 5 nói chung, học sinh lớp 5C nói riêng, việc xác định từ loại
Tiếng Việt và vận dụng từ loại Tiếng Việt vào các kỹ năng nói, viết vẫn còn nhiều
hạn chế do một số nguyên nhân sau:

5


- HS chưa tập trung, đầu tư chú trọng cho học tập.
- Thiếu mạnh dạn, tư tin trước những vấn đề thắc mắc nên không nắm được kiến thức.
- Chất lượng học của học sinh chưa đồng đều.
- Do không phân định đúng ranh giới của từ mà học sinh xác định từ loại sai.
- Nhiều em không nắm được thuật ngữ "từ loại" nên không hiểu đúng yêu cầu của
bài tập.
- Khi xác định từ loại học sinh còn gặp khó khăn trong những trường hợp mà nghĩa

của từ hoặc dấu hiệu hình thức không rõ ràng.
- Thời gian luyện tập, số tiết luyện tập về từ loại Tiếng Việt ở chương trình lớp 5
còn chưa được nhiều.
* Về phía phụ huynh:
- Đa số gia đình của các em đều làm nông thuần túy nên kiến thức và sự hiểu biết
về các môn học của phụ huynh không nhiều, không sâu. Chính vì vậy, việc giúp đỡ
các em trong học tập còn gặp nhiều khó khăn.
- Nhiều em bố mẹ đi làm ăn xa, sống với ông bà nên một số bộ phận phụ huynh học
sinh còn mang nặng tư tưởng phó mặc con em mình cho giáo viên. Do đó họ ít
quan tâm và thậm chí không quan tâm đến việc học tập của con em mình, chính vì
vậy dẫn đến nhiều em không có ý thức tự học. Chính vì những khó khăn và hạn chế
nêu trên nên sự ham học của học sinh chưa cao.
Trước thực trạng trên, khi dạy các bài Luyện từ và câu liên quan đến từ loại
Tiếng Việt, đầu năm tôi đã khảo sát chất lượng học của học sinh lớp tôi chủ nhiệm.
Đề bài: Em hãy xác định danh từ, động từ, tính từ trong hai câu thơ sau:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”
Ở bài tập này, học sinh cần phải xác định ranh giới các từ rồi xét ý nghĩa và
các khả năng kết hợp của từ rồi xếp.
Danh từ: cảnh, rừng, Việt Bắc, vượn, chim, ngày.
Động từ: hót, kêu.
Tính từ: hay
Qua khảo sát chất lượng xác định các từ loại của học sinh lớp tôi đầu năm
học 2018- 2019 tôi đã thu được kết quả như sau:
HS xác định
HS chưa
Tổng số
HS xác định đúng
chưa chắc chắn
xác định được

HS
SL
%
SL
%
SL
%
25
4
16
15
60
6
24

6


Căn cứ vào khảo sát, theo dõi quá trình học trên lớp tôi tiến hành phân loại
học sinh theo các nhóm:
Nhóm 1: Học sinh xác định được các dạng từ loại.
Nhóm 2: Học sinh xác định được các dạng từ loại trong trường hợp đơn giản.
Nhóm 3: Học sinh xác định các dạng từ loại chưa chắc chắn.
Trước thực trạng xác định từ loại của học sinh, bản thân tôi không khỏi băn
khoăn, trăn trở. Dựa trên kinh nghiệm giảng dạy trong những năm qua, tôi mạnh
dạn đưa ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 xác định đúng từ loại tiếng Việt.
2.2. Các biện pháp
Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc lí thuyết về từ loại
Để giúp các em nắm chắc về từ loại, tôi đã củng cố cho các em hiểu “Từ loại
là các loại từ phân chia về mặt ngữ pháp. Nói cách khác, phân loại các từ về mặt

ngữ pháp, ta được các từ loại: Danh từ (DT), động từ (ĐT), tính từ (TT), quan hệ từ,
…”.
Để phân chia từ Tiếng Việt thành các từ loại, ta dựa vào những tiêu chuẩn sau:
- Ý nghĩa khái quát của từ.
- Khả năng kết hợp của từ với các từ khác.
- Khả năng đảm nhận các chức vụ ngữ pháp của từ trong câu.
Muốn xác định được chính xác các từ loại trong câu, ta tiến hành theo các
bước sau:
+ Bước 1: Vạch ranh giới giữa các từ để xác định được từng từ trong câu. Như
chúng ta đã biết, tiếng cấu tạo nên từ, từ dùng để tạo nên câu. Từ là đơn vị nhỏ nhất
có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được
vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu. Tiếng có thể có nghĩa
hoặc không có nghĩa, từ nào cũng có nghĩa. Từ chỉ gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ
gồm nhiều tiếng gọi là từ phức. Có hai cách chính để tạo từ phức là: Ghép những
tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là các từ ghép. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay
vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau. Đó là các từ láy. Nắm cấu tạo từ sẽ giúp
HS chia từ theo cấu tạo một cách chính xác.
Trong tiếng Việt, nhiều khi xác định một tổ hợp hai tiếng nào đó là một từ
hay hai từ là rất khó và đặc biệt là cũng không cần thiết.
Tuy nhiên, với học sinh, cần lưu ý việc các em tách câu thành từ nhưng để
tìm được các từ đơn, từ ghép, từ láy, để tìm được các danh từ, động từ, tính từ,... ở
trong câu, trước hết các em cần phải tách câu ra thành từ cho đúng. Ví dụ, do
nhầm xoài biếc, cam vàng, dừa nghiêng, cau thẳng là một từ nên nhiều em đã tìm

7


thiếu các tính từ biếc, vàng, nghiêng, thẳng khi giải bài tập tìm các tính từ trong hai
câu thơ Xum xuê xoài biếc, cam vàng / Dừa nghiêng, cau thẳng, hàng hàng nắng
soi (Việt Nam − Lê Anh Xuân).

Để xác định được hai tiếng nào đó là một từ hay hai từ, tôi hướng dẫn học sinh
thử hai mẹo sau:
- Thử thêm vào giữa hai tiếng đã cho một từ nào đó: Nếu giữa hai tiếng đã cho có
thể thêm một từ nào đó vào giữa mà nghĩa của chúng không thay đổi, tức là có thể
thêm được, thì ta kết luận hai tiếng đã cho là một từ. Ngược lại, nếu giữa hai tiếng
đã cho ta thêm một từ nào đó vào giữa sẽ làm cho nghĩa của chúng thay đổi hoặc
mất nghĩa, tức là không thể thêm được, thì ta kết luận hai tiếng đã cho là hai từ.
- Xét xem trong kết hợp có yếu tố nào đã chuyển nghĩa hay mờ nghĩa gốc hay không.
Ví dụ: HS sau khi vạch được ranh giới từ của các câu văn sau thì sẽ tìm được danh
từ, động từ, tính từ khá đơn giản.
Một/ dải mây/ mỏng/ mềm mại/ như/ một/ dải lụa/ trắng/ dài/ vô tận/ ôm ấp/,
quấn/ ngang/ các/ chỏm núi/ như/ quyến luyến/, bịn rịn./
Danh từ: dải mây, dải lụa, chỏm núi
Động từ: ôm ấp, quấn, quyến luyến, bịn rịn
Tính từ: mỏng, mềm mại, trắng, dài, vô tận, ngang
+ Bước 2: Đối chiếu từng từ với các tiêu chuẩn nêu trên để xác định giá trị từ loại
của từ ấy: Danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ.
Bởi vậy để giúp học sinh của mình nhận định và phân chia từ loại một
cách chính xác theo các nhóm từ loại (dựa vào khái niệm và dấu hiệu nhận biết),
tôi bắt đầu giúp cho các em nắm chắc, hiểu sâu, hiễu kĩ về từng từ loại thông qua
bài học lí thuyết và bài tập thực hành để từ đó các em có thể tự tin trong học tập và
làm bài một cách chính xác trong các kì thi. 
Việc phân chia từ loại thành các nhóm từ loại sao cho thật chính xác cần chú
ý xem xét:
- Ý nghĩa khái quát: ví dụ như ý nghĩa về sự vật, về hành động, về trạng thái, về
tính chất, về quan hệ,...
- Khả năng kết hợp của từ thường xác định được ba lớp từ chính trong tiếng Việt
là: lớp danh từ, lớp động từ và lớp tính từ. Ví dụ: những từ có thể đứng trước các
chỉ định từ này, nọ thì thuộc lớp danh từ; những từ có thể đứng sau đang, vẫn... thì
thuộc lớp động từ; những từ đứng sau rất thường thuộc lớp tính từ.

- Chức vụ ngữ pháp: Khả năng giữ chức vụ ngữ pháp trong một câu: Chủ ngữ, vị ngữ.

8


Bên cạnh việc giúp HS nắm vững kiến thức về từ (từ đơn, từ phức, từ ghép,
từ láy) đã được học trong lớp 4, GV cần cung cấp cho HS đầy đủ các kiến thức về
từ loại (phần danh từ, động từ, tính từ), yêu cầu HS nắm chắc khái niệm về danh từ,
động từ, tính từ. Để làm được vấn đề này, đòi hỏi GV phải nắm chắc các kiến thức
về từ loại. Cụ thể:
Trong chương trình tiếng Việt tiểu học, hệ thống từ loại bao gồm: danh từ,
động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ và một số từ loại khác.
Các từ loại cơ bản của Tiếng Việt

Danh từ
DT
chung

DT
riêng

Động từ
ĐT
chỉ
trạng
thái

Tính từ
ĐT
chỉ

hoạt
động

Chỉ t/c
chung
không
kèm mức
độ

Đại từ
Chỉ t/c
ở mức
độ cao
nhất

Quan hệ từ
Đại từ
chỉ
ngôi

Từ loại là sự phân loại vốn từ của một ngôn ngữ cụ thể thành những loại,
những lớp hạng dựa vào những đặc trưng ngữ pháp. Từ loại là một phổ niệm của
mọi ngôn ngữ, không phụ thuộc vào phương thức biểu hiện của nó.
Dựa vào sự giống nhau về đặc điểm ngữ pháp, các từ được phân ra thành
từng loại, gọi là từ loại.
Từ loại là các loại từ có chung đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa khái quát.
Các từ loại cơ bản của Tiếng Việt gồm: Danh từ, động từ, tính từ, đại từ,
quan hệ từ.
a. Danh từ:
* Danh từ là từ chỉ sự vật (người, vật, con vật, cây cối, hiện tượng,...).

Ví dụ:
- Chỉ người: Ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, thầy giáo, cô giáo, học sinh,...
- Chỉ vật: Bút, nhà, bàn, ghế, sách, vở,...
- Chỉ con vật: Chó, mèo, kiến, thỏ, gấu,...
- Chỉ cây cối: Cau, sấu, phượng, bàng, dừa,...
- Chỉ hiện tượng: Mưa, bão, gió, mây,...
* Danh từ có nhiều loại:
- Danh từ chung: là tên gọi một loại sự vật.

9


Ví dụ: Áo quần, bàn ghế, nhà cửa, cây cối,...
- Danh từ riêng: là tên riêng của một sự vật. Danh từ riêng luôn luôn được viết
hoa.
Ví dụ: Cửu Long, Trường Sơn, Thái Sơn, Ngô Quyền,...
* Trong câu, danh từ (đứng một mình hoặc kèm theo các từ phụ thuộc) có
thể làm nhiều chức vụ khác nhau: Làm chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ.
Ví dụ: Bài 15C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1): Hoạt động 2 yêu cầu: Điền vào chỗ
trống các từ ngữ thích hợp trong bảng nhóm:
a) Chỉ những người trong gia đình:
M: cha, mẹ,...
b) Chỉ những người làm việc trong trường học:
M: cô giáo,...
c) Chỉ các nghề nghiệp:
M: công nhân,...
d) Chỉ các dân tộc anh em:
M: Tày, Thái,...
Ở bài tập này, HS xác định được những từ cần tìm là những danh từ. Riêng
câu d bao gồm các danh từ riêng.

Ví dụ: Bài 14A (HDH Tiếng Việt 5, tập 1)
Hoạt động thực hành 4 yêu cầu: Tìm và ghi vào vở danh từ chung có trong
câu văn thứ nhất và danh từ riêng có trong đoạn văn sau:
Chiều hôm ấy có một em gái nhỏ đứng áp trán vào tủ kính cửa hàng của Pie, nhìn từng đồ vật như muốn kiếm thứ gì. Bỗng em ngửng đầu lên:
- Cháu có thể xem chuỗi ngọc lam này không ạ ?
Pi-e lấy chuỗi ngọc, đưa cho cô bé. Cô bé thốt lên:
- Đẹp quá ! Xin chú gói lại cho cháu !
Pi-e ngạc nhiên:
- Ai sai cháu đi mua ?
- Cháu mua tặng chị cháu nhân lễ Nô-en. Chị đã nuôi cháu từ khi mẹ cháu mất.
Đối với bài tập này, để xác định danh từ chung có trong câu văn thứ nhất,
trước hết HS cần xác định được ranh giới của từ:
Chiều/ hôm/ ấy/ có/ một/ em gái/ nhỏ/ đứng/ áp/ trán/ vào/ tủ kính/ cửa
hàng/ của/ Pi-e/, nhìn/ từng/ đồ vật/ như/ muốn/ kiếm/ thứ gì/.

10


Sau đó, các em dựa vào khái niệm để xác định danh từ chung. Đối với danh
từ riêng, HS chỉ cần dựa vào dấu hiệu nhận biết (Danh từ riêng luôn luôn được viết
hoa) để xác định.
b. Động từ:
* Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Ví dụ:
- Chỉ hoạt động của người: Ăn, uống, đi, đứng, chạy, nhảy, nói, cười,…
- Chỉ trạng thái của sự vật: Bay, phi, đổ,…
Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của động từ chỉ trạng thái là: nếu như động
từ chỉ hoạt động, hành động có thể kết hợp với từ xong ở phía sau (tắm xong, học
xong,...) thì động từ chỉ trạng thái không kết hợp với xong ở phía sau (không nói:
còn xong, hết xong, kính trọng xong,...).

* Trong tiếng Việt có một số loại động từ chỉ trạng thái sau:
- ĐT chỉ trạng thái tồn tại (hoặc trạng thái không tồn tại): còn, hết, có,...
- ĐT chỉ trạng thái biến hoá: thành, hoá,...
- ĐT chỉ trạng thái tiếp thụ: được, bị, phải, chịu,...
- ĐT chỉ trạng thái so sánh: bằng, thua, hơn, là,...
Ví dụ: Bài 15C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1), hoạt động 7 yêu cầu: Viết đoạn văn tả
hoạt động của bạn nhỏ hoặc em bé.
Để viết được đoạn văn, trước hết HS cần tìm những từ chỉ hoạt động của bạn
nhỏ hoặc em bé: ăn, uống, nói, cười, đi, đứng, nhảy, múa, hát,... Những từ này
chính là những động từ. Sau đó, HS sử dụng những động từ này vào viết đoạn văn
hoàn chỉnh theo yêu cầu.
c. Tính từ:
* Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt động,
trạng thái,...
Ví dụ:
Xanh, đỏ, xanh biếc, đỏ thắm (chỉ màu sắc)
Vuông, tròn, thon (chỉ hình thể)
To, nhỏ,dài, ngắn...(chỉ kích thước)
Nặng, nhẹ, nhiều, ít...(chỉ khối lượng, dung lượng)
Tốt, xấu, thông minh...(chỉ phẩm chất)
Ví dụ: Bài 15C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1), hoạt động 4 yêu cầu: Viết vào vở các từ
ngữ miêu tả hình dáng của một người.
a) Miêu tả mái tóc: (M: óng mượt...)
b) Miêu tả đôi mắt: (M: đen láy...)

11


c) Miêu tả khuôn mặt: (M: bầu bĩnh...)
d) Miêu tả làn da: (M: trắng hồng...)

e) Miêu tả dáng người: (M: dong dỏng...)
Đối với bài tập này, HS xác định được những từ cần tìm là những tính từ.
* Có hai loại tính từ:
- Tính từ chỉ tính chất chung, không có mức độ. Ví dụ: Xanh, đỏ, dài, tốt..
- Tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ hoặc có tác dụng gợi tả hình ảnh, cảm
xúc. Ví dụ: Xanh biếc, gầy nhom, chi chít...
* Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái:
- Từ chỉ đặc điểm:
Ví dụ: Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, rộng , hẹp, xanh, đỏ,...
Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ, bền bỉ,...
- Từ chỉ tính chất:
Ví dụ: Tốt, xấu, ngoan, hư, nặng, nhẹ, sâu sắc, nông cạn, suôn sẻ, hiệu quả, thiết
thực,...
Như vậy, đối với HS tiểu học, khi phân biệt (một cách tương đối) từ chỉ đặc
điểm và từ chỉ tính chất, GV có thể tạm thời cho rằng: Từ chỉ đặc điểm thiên về
nêu các đặc điểm bên ngoài, còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các đặc điểm bên
trong của sự vật, hiện tượng. Một quy ước mang tính sư phạm như vậy được coi là
hợp lí và giúp HS tránh được những thắc mắc không cần thiết trong quá trình học tập.
d. Đại từ:
* Đại từ dùng để thay thế cho danh từ, động từ hoặc tính từ trong câu.
Ví dụ: Đến sáng, chuột tìm đường trở về ổ, nhưng bụng to quá, nó không sao lách
qua khe hở được.
* Trong giao tiếp người ta có thể dùng đại từ để xưng hô. Đó là đại từ chỉ ngôi. Các
đại từ chỉ ngôi thường dùng là:
- Ngôi thứ nhất: tôi, chúng tôi, tao, chúng tao
- Ngôi thứ hai: mày , chúng mày…
- Ngôi thứ ba: nó, chúng nó…
* Danh từ chỉ người cùng thường được dùng trong xưng hô như đại từ chỉ ngôi.
Ví dụ: anh, chị, ông, bà,...
Ví dụ: Bài 14A (HDH Tiếng Việt 5, tập 1)

Hoạt động thực hành 6: Tìm và viết vào bảng nhóm các đại từ xưng hô có
trong đoạn văn sau:

12


- Chị ! - Nguyên quay sang nhìn tôi, giọng nghẹn ngào. - Chị ... Chị là chị
gái của em nhé !
Tôi nhìn em cười trong hai hàng nước mắt kéo vệt trên má:
- Chị sẽ là chị của em mãi mãi !
Nguyên cười rồi đưa tay lên quệt má. Tôi chẳng buồn lau mặt nữa. Chúng
tôi đứng như vậy nhìn ra phía xa sáng rực ánh đèn màu, xung quanh là tiếng đàn,
tiếng hát khi xa khi gần chào mừng mùa xuân. Một năm mới bắt đầu.
(Theo Thùy Linh)
Đối với bài tập này, HS dựa vào khái niệm đại từ và danh từ để xác định
đúng đại từ xưng hô (kết hợp văn cảnh), tránh sự nhầm lẫn.
Lưu ý: Các từ chị, chị gái in đậm sau đây là danh từ, còn các từ chị, em được
in nghiêng là đại từ xưng hô:
- Chị ! - Nguyên quay sang nhìn tôi, giọng nghẹn ngào. - Chị ... Chị là chị
gái của em nhé !
Tôi nhìn em cười trong hai hàng nước mắt kéo vệt trên má:
- Chị sẽ là chị của em mãi mãi !
e. Quan hệ từ
* Quan hệ từ là từ nối các từ ngữ hoặc các câu, nhằm thể hiện mối quan hệ
giữa những từ ngữ hoặc các câu ấy với nhau: và, với, hay, hoặc, nhưng, mà,
thì, của, ở, tại, bằng,...
Ví dụ: Bài 11C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1): HS xác định được các từ in đậm là quan
hệ từ vì chúng nối các từ ngữ và các câu với nhau.
a) Rừng say ngây và ấm nóng. (Ma Văn Kháng)
b) Tiếng hót dìu dặt của Hoạ Mi giục các loài chim dạo lên những khúc nhạc tưng

bừng ca ngợi núi sông đang đổi mới. (Võ Quảng)
c) Hoa mai trổ từng chùm thưa thớt, không đơm đặc như hoa đào. Nhưng cành mai
uyển chuyển hơn cành đào.
Biện pháp 2: Tập thói quen nhận biết ý nghĩa của từ loại
Mục đích của dạy từ loại là giúp học sinh phân loại, nhận diện được từ theo
từ loại và sử dụng từ đúng với từ loại của chúng. Vậy cần có thói quen nhận biết ý
nghĩa của từ loại, đó là luôn đặt ra trong tư duy của mình từ loại đó chỉ đối tượng,
chỉ hành động hay chỉ tính chất.
Trong quá trình tìm kiếm, các em cần tập đặt câu hỏi trong đầu, tự mình tìm
để khi đọc lên “nghe nó” chỉ về ai, cái gì ? hay nghe nó biểu thị “động đậy”
không ? hoặc cảm thấy nó chỉ đặc điểm gì ? Nếu nó chỉ về ai, cái gì tức là có đối

13


tượng vậy nó là danh từ, nếu nó biểu thị “động đậy” thì nó là động từ còn nó thể
hiện mà ta cảm được có cái gì đó “ở bên trong” toát ra thì nó là tính từ.
Ví dụ: thông minh, công sở, bảo vệ, tươi tốt, tấn công, tình cảm.
Lần lượt suy nghĩ về ý nghĩa của từng từ và phân ra như sau:
* Chỉ về ai, chỉ về cái gì cụ thể có: trường, tình cảm
danh từ
Ví dụ: Bài 15C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1): Hoạt động 2 yêu cầu: Điền vào chỗ
trống các từ ngữ thích hợp trong bảng nhóm:
a) Chỉ những người trong gia đình:
M: cha, mẹ,...
b) Chỉ những người làm việc trong trường học:
M: cô giáo,...
c) Chỉ các nghề nghiệp:
M: công nhân,...
d) Chỉ các dân tộc anh em:

M: Tày, Thái,...
HS xác định được các câu a,b, chỉ người; câu c: chỉ nghề nghiệp; câu d: chỉ
dân tộc. Các từ này đều là danh từ.
* Biểu thị sự “động đậy” có: đi, nhảy múa
động từ
* Cảm nhận được cái gì đó toát ra từ bên trong: đẹp, tươi tốt
tính từ
Ví dụ: Bài 15C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1), hoạt động 4 yêu cầu: Viết vào vở các từ
ngữ miêu tả hình dáng của một người.
a) Miêu tả mái tóc: (M: óng mượt...)
b) Miêu tả đôi mắt: (M: đen láy...)
c) Miêu tả khuôn mặt: (M: bầu bĩnh...)
d) Miêu tả làn da: (M: trắng hồng...)
e) Miêu tả dáng người: (M: dong dỏng...)
HS xác định được những từ tả hình dáng chính là những từ chỉ đặc điểm.
Vậy chúng là những tính từ.
Biện pháp 3: Luyện tập các dạng bài tập về từ loại
Để giúp các em nắm vững lí thuyết, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp dạy
học có hiệu quả (đặc biệt trong các tiết ôn tập, tôi đã lập bảng ôn tập từ loại để học
sinh có sự phân biệt rõ các từ loại đã học). Để học sinh được ôn luyện về từ loại
và củng cố kĩ năng xác định từ loại, cách sử dụng từ loại đúng, tôi đã đưa ra
một số dạng bài tập từ cơ bản đến nâng cao như sau:
Dạng 1: Dạng bài tập nhận diện từ loại

14


Đối với dạng bài tập này, HS cần nắm chắc kiến thức về cấu tạo từ kết hợp
các khái niệm: Danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ. Dựa vào đặc điểm và
dấu hiệu nhận biết của từng loại từ loại để nhận diện.

- Kiểu 1: Nhận diện từ trong nhóm từ cho sẵn.
Ví dụ: Cho các từ sau: núi đồi, rực rỡ, chen chúc, vườn, dịu dàng, ngọt, thành phố,
ăn, đánh đập. Hãy xếp những từ trên thành các nhóm: danh từ, động từ, tính từ.
Nếu xếp theo từ loại, ta sẽ xếp như sau:
- Danh từ: núi đồi, thành phố, vườn
- Động từ: chen chúc, đánh đập, ăn
- Tính từ: rực rỡ, dịu dàng, ngọt.
- Kiểu 2: Nhận diện từ trong đoạn văn, đoạn thơ.
Ví dụ: Bài 14C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1)
Hoạt động 2: Xếp các từ in đậm trong đoạn văn sau vào ba nhóm: động từ,
tính từ, quan hệ từ. Ghi kết quả vào bảng nhóm theo mẫu:
Không thấy Nguyên trả lời, tôi nhìn sang. Hai tay Nguyên vịn vào song cửa
sổ, mắt nhìn xa vời vợi. Qua ánh đèn ngoài đường hắt vào, tôi thấy ở hai khóe mắt
nó hai giọt lệ lớn sắp sửa lăn xuống má. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Cũng giờ
này năm ngoái, tôi còn đón giao thừa với ba ở bệnh viện. Năm nay ba bỏ con một
mình ba ơi !
(Theo Thùy Linh)
Động từ
Tính từ
Quan hệ từ
trả lời, nhìn, vịn, hắt, xa, vời vợi, lớn
qua, ở, với
thấy, lăn, trào, đón, bỏ
Ví dụ: Tìm DT, ĐT, TT trong đoạn văn sau:
“Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe.
Những em bé H mông mắt một mí, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ,
quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước sân.”
Ở bài tập này học sinh xác định các tính từ: nhỏ, vàng một cách dễ dàng. Khi
xét đến: “sặc sỡ” các em lúng túng nên nhiều em xác định từ loại sai.
* Các danh từ, động từ, tính từ trong đoạn văn:

- Danh từ: buổi, chiều, xe, thị trấn, nắng, phố, huyện, em bé, mắt, mí, cổ, móng, hổ,
quần áo, sân, H mông, Tu Dí, Phù Lá.
- Động từ: dừng lại, chơi đùa, đeo.
- Tính từ: nhỏ, vàng hoe, sặc sỡ.

15


Dạng 2: Dạng bài tập vận dụng thực hành
- Kiểu 1: Xác định từ loại trong những trường hợp dấu hiệu hình thái từ loại không rõ.
Ví dụ: Xác định từ loại của các từ trong các thành ngữ sau:
- Bốn mùa một sắc trời riêng đất này.
- Non cao gió dựng sông đầy nắng chang.
- Họ đang ngược Thái Nguyên, còn tôi xuôi Thái Bình.
- Nước chảy đá mòn.
Các từ loại học sinh xác định nhanh và rõ ràng chính xác “bốn mùa, sắc trời,
đất, non, gió, sông, nắng, Thái Nguyên, Thái Bình, nước, đá” là danh từ; “cao” là
tính từ. Nhưng các em lúng túng và hay xếp các từ “ngược”, “xuôi”, “mòn” tính
từ. Vậy giáo viên phải phân tích ý nghĩa của từ và hướng dẫn học sinh xếp từ
“ngược” “xuôi”, “mòn” là động từ chứ không phải là tính từ.
Danh từ
Động từ
Tính từ
bốn mùa, sắc trời, đất, non, mòn, dựng, ngược, riêng, đầy, cao.
gió, sông, nắng, Thái Nguyên, xuôi.
Thái Bình, nước, đá.
Lưu ý: ở dạng này học sinh có thể cho thêm một số ví dụ để xác định từ loại.
- Kiểu 2: Xác định từ loại trong các trường hợp chuyển từ loại theo một kiểu cấu
tạo nào đó.
Ví dụ: Xác định từ loại của các từ sau:

- Vui, buồn, đau khổ, đẹp.
- Niềm vui, nỗi buồn, cái đẹp, sự đau khổ
Ở dạng bài tập này, học sinh thường xếp tất cả các từ trên là động từ. Bởi
vậy, để giúp các em hiểu sâu hơn và không bị mắc lỗi khi gặp dạng bài tập này, tôi
đã giảng để các em hiểu: vui, buồn, đau khổ là các từ chỉ trạng thái của người, bởi
vậy chúng là động từ. Còn “đẹp” là tính từ. Các từ còn lại: “ niềm vui, nỗi buồn,
cái đẹp, sự đau khổ” chính là các danh từ chỉ khái niệm. Đó là sự chuyển từ loại
của động từ, tính từ khi chúng kết hợp với các từ: sự, cuộc, cái, nỗi, niềm ở trước.
Ví dụ: Cho đoạn văn: “Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương
bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn”.
+ Hãy tìm các tính từ có trong đoạn văn.
+ Nhận xét về từ loại của các từ: cái béo, mùi thơm.

16


Ở dạng bài này, tôi chỉ cần nhấn mạnh về sự kết hợp, chuyển loại của động,
tính từ, các em sẽ dễ dàng nhận biết ra được cái béo, mùi thơm là danh từ. Nhờ có
sự kết hợp từ: cái béo, mùi thơm… là các danh từ.
Ví dụ: Bài 14A (HDH Tiếng Việt 5, tập 1)
Hoạt động thực hành 6: Tìm và viết vào bảng nhóm các đại từ xưng hô có
trong đoạn văn.
Đối với bài tập này, GV cần giúp HS xác định được các từ chị, chị gái in
đậm sau đây là danh từ, còn các từ chị, em được in nghiêng là đại từ xưng hô:
- Chị ! - Nguyên quay sang nhìn tôi, giọng nghẹn ngào. - Chị ... Chị là chị
gái của em nhé !
Tôi nhìn em cười trong hai hàng nước mắt kéo vệt trên má:
- Chị sẽ là chị của em mãi mãi !
- Kiểu 3: Xác định từ loại tuỳ trong văn cảnh mà từ loại cũng có thể thay đổi.
Ví dụ: Xác định từ loại của từ “danh dự” trong câu văn sau:

“Ngay thềm lăng, mười tám cây vạn tuế tượng trưng cho một đoàn quân
danh dự đứng trang nghiêm”
- Ở bài tập này học sinh phải dựa vào ý nghĩa của từ trong văn cảnh.
- Từ “danh dự” vốn là danh từ.
- Trong câu văn: Từ được sử dụng để chỉ đặc điểm nên ta xếp từ “danh dự” vào từ
loại là tính từ.
- Kiểu 4: Xác định từ loại khi thay thế danh từ bằng đại từ chỉ ngôi.
Ví dụ: Bài 26C (HDH Tiếng Việt 5, tập 2)
Hoạt động 2 yêu cầu: Thay thế những từ ngữ lặp lại (in đậm) trong hai đoạn
văn sau bằng đại từ hoặc từ ngữ đồng nghĩa:
Triệu Thị Trinh quê ở vùng núi Quan Yên (Thanh Hóa). Triệu Trị Trinh
xinh xắn, tính cách mạnh mẽ, thích võ nghệ. Triệu Thị Trinh bắn cung rất giỏi,
thường theo các phường săn đi săn thú. Có lần, Triệu Thị Trinh đã bắn hạ một
con báo gấm hung dữ trước sự thán phục của trai tráng trong vùng.
Hằng ngày, chứng kiến cảnh nhân dân bị giặc Ngô đánh đập, cướp bóc,
Triệu Thị Trinh vô cùng uất hận, nung nấu ý chí trả thù nhà, đền nợ nước, quét
sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Năm 248, Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược. Cuộc khởi nghĩa tuy không thành công
nhưng tấm gương anh dũng của Triệu Thị Trinh sáng mãi với non sông đất nước.
Học sinh nhận xét được danh từ lặp lại: Triệu Thị Trinh.

17


Việc lặp từ làm cho câu văn không hay vậy ta có thể thay các danh từ bị lặp
lại đó bằng các đại từ hoặc từ đồng nghĩa thích hợp.
Ví dụ: Bài 9A (HDH Tiếng Việt 5, tập 1) - Hoạt động thực hành 3:
A
B
Một con quạ khát nước. Quạ tìm thấy Một con quạ khát nước. Nó tìm thấy

một chiếc lọ có nước. Song nước trong một chiếc lọ có nước. Song nước
lọ có ít, cổ lọ lại cao, quạ không sao thò trong lọ có ít, cổ lọ lại cao, nó không
mỏ vào uống được. Quạ liền nghĩ ra một sao thò mỏ vào uống được. Quạ liền
kế. Quạ lấy mỏ gắp từng hòn sỏi bỏ vào nghĩ ra một kế. Nó lấy mỏ gắp từng
lọ. Nước dâng lên dần dần. Thế là quạ hòn sỏi bỏ vào lọ. Nước dâng lên dần
tha hồ uống.
dần. Thế là quạ tha hồ uống.
HS xác định được cách dùng từ ở hai đoạn văn A và B khác nhau. Để tránh
việc lặp từ, danh từ quạ trong các từ in đậm được thay bằng đại từ nó.
- Kiểu 5: Hướng dẫn học sinh biết vận dụng từ loại để đặt câu.
Ở bài tập này học sinh phải nắm vững kiến thức về từ loại và kiến thức đặt câu.
Ví dụ: Bài 22C (HDH Tiếng Việt 5, tập 2) - Hoạt động 1:
Thi đặt câu ghép: HS tiếp nối nhau thi đặt nhanh, nhiều câu ghép nói về hoạt
động hoặc đặc điểm của người, vật...
Đối với bài tập này, HS nắm kiến thức về câu ghép và từ loại: động từ (tìm
từ chỉ hoạt động), tính từ (tìm từ chỉ đặc điểm). HS sử dụng những từ tìm được vào
đặt câu.
Biện pháp 4: Tăng cường công tác tự học, nghiên cứu kĩ nội dung cần giảng
dạy
- GV cần nắm vững nội dung kiến thức của bài dạy và xác định đúng mục tiêu của
từng bài học.
- Phải nghiên cứu kĩ bài học khi soạn bài. Cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với
từng đối tượng học sinh.
- Cần nắm vững được phương pháp dạy học đặc trưng cho từng kiểu bài cụ thể.
- GV cần phải biết cách lựa chọn, phối hợp một cách linh hoạt và hợp lí nhiều
phương pháp trong giảng dạy để tiết học đạt hiệu quả cao nhất.
- GV phải vừa dạy kiến thức mới vừa kết hợp củng cố kiến thức kỹ năng đã học có
liên quan nhằm giúp HS nhớ lâu hơn.

18



- Trong chương trình SGK, mỗi nội dung về từ loại đều có loại bài cung cấp kiến
thức mới và thực hành luyện tập. Do đó, khi xử lí các loại bài này (kể cả trong các
nội dung tương tự khác), GV cần lưu ý một số điểm sau:
+ Khi hướng dẫn mục tìm hiểu của bài học trong SGK, GV cần chủ động dẫn dắt,
gợi ý cho HS trao đổi chung ở lớp để từ đó rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến
thứccách nhanh gọn (tránh phân tích ngữ liệu quá kĩ, mất nhiều thời gian).
+ Trong quá trình luyện tập, GV có thể nhắc lại một số kiến thức liên quan để HS
thực hiện bài tập; Tổ chức HS làm bài theo hình thức trao đổi nhóm (trên cơ sở vận
dụng kiến thức đã học, kết hợp tự học và giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ
được giao).
+ Đối với lớp có nhiều đối tượng HS tiếp thu còn hạn chế về TV, GV cũng cần chú
ý hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu của bài tập, làm thử trên lớp một phần hoặc một
bài cụ thể (trước khi yêu cầu HS làm vào bảng nhóm hoặc vở BT, vở nháp,... ).
Biện pháp 5: Đa dạng hóa hình thức dạy học để củng cố kiến thức từ loại
Dạy học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực người học (xin
viết tắt là DHTNL) không chỉ chú trọng phát triển các năng lực chung, cốt lõi mà
còn chú trọng phát triển cả năng lực chuyên biệt (môn học). Do đó, cần tăng cường
gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, ứng dụng trong thực tiễn. Tăng
cường việc học tập theo nhóm, cộng tác, chia sẻ nhằm phát triển nhóm năng lực xã
hội. Hay nói cách khác, cần đa dạng hóa các hình thức dạy học. Hình thức dạy học
đa dạng sẽ tạo được hứng thú học tập cho HS. Do đó, chất lượng và hiệu quả giáo
dục sẽ được nâng cao.
Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và
những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài học
mà xây dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Song, cho dù thế nào cũng cần có
đầy đủ các hoạt động lớp và tổ chức các hoạt động đó một cách phong phú, phối
hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của bài dạy
và chủ điểm của bài đó. Có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong

cùng một tiết dạy. Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm,
đàm thoại gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu.
Trong đó, phương pháp trò chơi là một trong những phương pháp gây được
hứng thú cho HS và luôn được HS mong đợi nhất. Sử dụng tốt phương pháp này sẽ
vừa tạo tinh thần thoải mái cho HS trong học tập, đồng thời khắc sâu được kiến
thức một cách nhanh chóng, dễ dàng.

19


Bản chất của phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua
việc tổ chức hoạt động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt
động bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu
của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt
là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố
kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV thường tổ chức trò chơi học
tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò
chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho
học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Với nội dung giúp HS xác định từ loại,
trò chơi có tác dụng giúp các em củng cố kiến thức về từ loại, cách dùng từ loại.
1. Trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”
* Chuẩn bị:
- Các băng giấy có ghi sẵn từ.
- Hai bảng phụ có kẻ sẵn các từ
* Luật chơi: Chọn hai đội chơi (đội nam, đội nữ), mỗi đội có 5 em, xếp hai
hàng. Mỗi em điền từ vào (...) để tạo thành từ loại mới. Đội nào nhanh chính xác sẽ
thắng. Các em khác cổ vũ cho hai đội chơi.
Ví dụ: (niềm, cuộc) vui; (sự, nỗi) khó khăn; (niềm, lòng, sự) kính yêu; (nỗi) buồn;
(tấm, nỗi) lòng; (sự, cuộc) đời; (sự) hi sinh; (cuộc) liên hoan; (trận) chiến đấu; (vẻ)

thnah bình; (cuộc) thảo luận; (lòng) yêu nước; (điều) mơ ước; (niềm) hối tiếc; (cơn)
buồn bực; (việc) học hành,...
* Mục đích của trò chơi: Củng cố kiến thức từ loại cho học sinh, rèn tư duy nhanh.
2. Trò chơi “Điền từ thích hợp vào chỗ chấm”
Ví dụ 1: “ Điền danh từ”
Bài 25A (HDH Tiếng Việt 5, tập 2) - Hoạt động thực hành 1: Chọn từ ngữ
thích hợp điền vào ô trống để các câu, các đoạn được liên kết với nhau.
* Chuẩn bị: hai bảng phụ có chép sẵn và các băng giấy có ghi các danh từ cần điền:
tôm, cá chim, chợ, cá song.
Các câu văn được chép sẵn trên bảng phụ:
................. Hòn Gai buổi sáng la liệt tôm cá. Những con ............... khỏe, vớt
lên hàng giờ vẫn giãy đành đạch, vảy xám hoa đen lốm đốm. Những con ............
mình dẹt như hình con chim lúc sải cánh bay, thịt ngon vào loại nhất nhì... Những
con ................ tròn, thịt căng lên từng ngấn như cổ tay trẻ lên ba,...

20


* Luật chơi: Chọn 4 em một đội và có 2 đội thi. Nếu đội nào gắn các danh từ đúng
và nhanh sẽ thắng. Sau đó mỗi đội cử một bạn đọc diễn cảm đoạn văn, biết nhấn
mạnh vào các danh từ và những từ ngữ chỉ đặc điểm nổi bật của từng danh từ đó.
Tính điểm mỗi đội có 2 phần:
- Điền nhanh, đúng.
- Đọc hay.
* Mục đích: Luyện điền nhanh danh từ dựa vào ý nghĩa, nội dung câu văn; cảm
nhận được nội dung đoạn văn.
Ví dụ 2: “ Điền tính từ”
* Chuẩn bị:
- Ghi các tính từ chỉ màu trắng ra các băng giấy:
- Viết các câu có chỗ trống trên bảng phụ.

Chọn từ thích hợp chỉ màu vàng trong các từ dưới đây để điền vào chỗ trống:
vàng ối, vàng tươi, vàng giòn, vàng mượt, vàng xuộm, vàng hoe, vàng lịm.
Màu lúa chín dưới đồng ………lại. Nắng nhạt ngả màu ………Trong vườn,
lắc lư những chùm quả xoan………….không trông thấy cuống, như những chuổi
tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Từng chiếc lá mít ……….Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo
lại mở năm cánh…....… . Dưới sân rơm và thóc…………..Quanh đó con gà, con
chó cũng ………. (Theo Tô Hoài)
* Luật chơi: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 6 em. Mỗi em lên điền một từ. ( HS suy
nghĩ và điền theo thứ tự đúng là: vàng xuộm, vàng hoe, vàng lịm, vàng ối, vàng
tươi, vàng giòn, vàng mượt,)
* Mục đích: Luyện cách dùng tính từ chỉ màu vàng với các sắc độ khác nhau có tác
dụng gợi tả. Làm giàu vốn từ chỉ màu vàng thường dùng trong các đoạn văn miêu tả.
Ví dụ 3: Tìm từ lạc
Gạch dưới từ lạc (không phải là tính từ) trong mỗi dãy từ dưới đây:
a. xanh lè, đỏ ối, vàng xuộm, đen kịt, ngủ khì, thấp tè, cao vút, nằm co, thơm phức,
mỏng dính.
b. thông minh, ngoan ngoãn, nghỉ ngơi, xấu xa, giỏi giang, nghĩ ngợi, đần độn, đẹp
đẽ.
c. cao, thấp, nông, sâu, dài, nhắn, thức, ngủ, nặng, nhẹ, yêu, ghét, to, nhỏ.
* Luật chơi: Chọn 2 đội chơi, mỗi đội có 3 em. Mỗi em lên gạch một từ lạc trong
một câu. (HS suy nghĩ và gạch đúng là: ngủ khì, nằm co, nghĩ ngợi, thức, ngủ..)
* Mục đích: Giúp học sinh phát hiện từ chỉ họa động, trạng thái.
Ví dụ 4: “ Điền quan hệ từ”

21


Bài 23C (HDH Tiếng Việt 5, tập 2) - Hoạt động 2: Điền cặp quan hệ từ thích
hợp vào mỗi chỗ trống.
* Chuẩn bị: hai bảng phụ có chép sẵn các câu văn và các băng giấy có ghi các cặp

quan hệ từ cần điền: không chỉ ... mà; không những ... mà; không chỉ ... mà.
Các câu văn được chép sẵn trên bảng phụ:
a) Tiếng cười .......... đem lại niềm vui cho mọi người ........... nó còn là liều
thuốc trường sinh.
b) ............ hoa sen đẹp ........... nó còn tượng trưng cho sự thanh khiết của
tâm hồn Việt Nam.
c) Ngày nay, trên đất nước ta, ............ công an làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự,
an ninh ............ mỗi một người dân đều có trách nhiệm bảo vệ công cuộc xây dựng
hòa bình.
* Luật chơi: Chọn 3 em một đội và có 2 đội thi. Nếu đội nào gắn các cặp quan hệ từ
đúng và nhanh sẽ thắng.
* Mục đích: Luyện điền nhanh cặp quan hệ từ dựa vào ý nghĩa, nội dung câu văn.
Biện pháp 6: Tổ chức giảng dạy theo trình độ học tập của HS
Việc tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các câu hỏi và bài tập nhìn chung khá
thuận lợi. Về cơ bản, GV có thể thực hiện tuần tự như gợi ý ở sách HDH. Tuy
nhiên, GV cũng cần lưu ý thực hiện theo đúng mục tiêu bài học, không nên áp dụng
một nội dung giảng dạy cũng như một chế độ thực hành cho toàn lớp, dẫn đến sự
quá tải đối với các đối tượng HS tiếp thu còn hạn chế.
- Đối với đối tượng HS tiếp thu nhanh: Nếu đối tượng HS của lớp chủ yếu là HS
tiếp thu nhanh, các em thực hiện các nhiệm vụ rất nhanh và khá chính xác. Đối với
đối tượng này, GV có thể bổ sung yêu cầu để các em được phát triển tư duy và vốn từ.
Ví dụ: Bài 11C (HDH Tiếng Việt 4, tập 1): Sau khi HS tìm được các từ miêu tả đặc
điểm của thị trấn, vườn nho, có thể yêu cầu HS tìm những từ ngữ đồng nghĩa với
các từ ngữ các em vừa tìm được trong bài, chẳng hạn:
+ Thị trấn: nhỏ (nhỏ bé,...)
+ Vườn nho: con con (be bé,...)
Sau khi HS tìm được các tính từ trong đoạn văn, để khắc sâu tác dụng của
các tính từ vừa tìm được, có thể yêu cầu HS trả lời câu hỏi: Những từ ngữ đó bổ
sung ý nghĩa cho từ ngữ nào ? Chúng có tác dụng gì ? Nếu không có những
tính từ đó, đoạn văn sẽ thế nào ?...


22


Đối với nhóm đối tượng này, ở phần luyện tập, nên nêu yêu cầu và hướng
dẫn HS đặt câu hỏi gợi tả được đặc điểm của bạn (người thân) hoặc cây cối một
cách phong phú, sinh động.
- Đối với đối tượng HS tiếp thu còn hạn chế: Cần dựa vào đặc điểm của HS và đặc
điểm của từng bài tập, của cả bài dạy để có những điều chỉnh cho phù hợp.
Chẳng hạn, ở bài nêu trên, có thể giảm độ khó cho HS tiếp thu còn hạn chế
như sau: HS nhóm này thường có kĩ năng đọc chậm, như vậy sẽ ảnh hưởng đến
thời gian thực hiện nhiệm vụ của tiết học. Để khắc phục tình trạng này, GV nên gọi
một HS có khả năng đọc lưu loát đọc đoạn văn, những HS khác đọc thầm theo. Nếu
lớp không có HS đọc tốt, GV có thể đọc đoạn văn trước lớp.
Ví dụ: Bài 14C (HDH Tiếng Việt 5, tập 1) - Hoạt động 3: HS dựa vào nội dung khổ
thơ trong bài Hạt gạo làng ta, viết đoạn văn ngắn tả người mẹ cấy lúa giữa trưa hè
tháng sáu nóng bức.
Đối với HS tiếp thu còn hạn chế, GV hướng dẫn HS xác định yêu cầu (tả
người mẹ cấy lúa): HS phải tìm được những từ ngữ miêu tả đặc điểm, hình dáng
của mẹ (tính từ); từ miêu tả hoạt động cấy lúa (động từ). Sử dụng những từ này vào
viết đoạn văn. Chú ý liên kết giữa các câu, các đoạn bằng quan hệ từ. HS tiếp thu
còn hạn chế thì chỉ yêu cầu: sử dụng một động từ, một tính từ và một quan hệ từ
trong đoạn văn. Riêng đối với HS tiếp thu nhanh, GV điều chỉnh mục tiêu, khuyến khích
các em tìm và sử dụng nhiều từ hơn để đoạn văn hay và liên kết chặt chẽ với nhau.
- Đối với những lớp có nhiều đối tượng HS: Tuỳ theo từng đặc điểm, hoàn cảnh cụ
thể mà ta cũng linh động điều chỉnh nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành để
đưa ra những yêu cầu cụ thể tới từng đối tượng HS theo tinh thần trên. Phương
pháp hướng dẫn HS làm BT phù hợp với đặc điểm trình độ của các em (GV điều
chỉnh mục tiêu bài học cho từng đối tượng) sẽ tạo điều kiện cho tất cả HS tự làm
bài, tự đi đến với lời giải đúng. HS khá giỏi sẽ được quan tâm với những nhiệm vụ

mới sau khi đã hoàn thành bài tập. HS tiếp thu còn hạn chế được phát triển tư duy
và ngôn ngữ, nắm được kiến thức, kĩ năng qua việc thực hiện các thao tác, trả lời
các gợi ý. Các em sẽ không bị rơi vào tình trạng luôn phải thụ động chấp nhận đáp
án qua bài chữa của bạn và của GV.
Biện pháp 7: Cung cấp một số mẹo giúp HS phát hiện nhanh các danh từ,
động từ, tính từ dễ lẫn lộn
Khi giảng dạy nội dung từ loại (cũng như các nội dung khác), ngoài việc nắm
vững kiến thức, mỗi GV cũng cần nghiên cứu và tìm ra các mẹo giúp HS dễ dàng

23


phân biệt các kiến thức dễ lẫn, các mẹo này ta có thể đưa vào trực tiếp trong quá
trình hướng dẫn HS làm bài tập.
Để phân biệt các danh từ, động từ, tính từ dễ lẫn lộn, ta thường dùng các phép
liên kết (kết hợp) với các phụ từ.
* Danh từ:
- Có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng như: mọi, một, hai, ba, những, các,...
ở phía trước (những tình cảm, những khái niệm, những lúc, những nỗi đau,...)
- DT kết hợp được với các từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ, đó,... ở phía sau
(hôm ấy, trận đấu này, tư tưởng đó,... )
- DT có khả năng tạo câu hỏi với từ nghi vấn “nào” đi sau (lợi
ích nào? chỗ nào? khi nào?...)
- Các ĐT và TT đi kèm: sự, cuộc, nỗi, niềm, cái,... ở phía trước thì tạo thành một
DT mới (sự hi sinh, cuộc đấu tranh, nỗi nhớ, niềm vui,...)
- Chức năng ngữ pháp thay đổi cũng cũng dẫn đến sự thay đổi về thể loại:
Ví dụ: Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ. (sạch sẽ (TT) đã trở thành DT)
* Động từ:
- Có khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh: hãy, đừng, chớ,... ở phía trước
(hãy nhớ, đừng băn khoăn, chớ hồi hộp,...)

- Có thể tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ bao giờ hoặc bao lâu (TT không có
khả năng này) (đến bao giờ? chờ bao lâu?...)
* Tính từ:
- Có khả năng kết hợp được với các từ chỉ mức độ như: rất, hơi, lắm, quá, cực kì,
vô cùng,... (rất tốt, đẹp lắm,...)
* Lưu ý: Các ĐT chỉ cảm xúc (trạng thái) như: yêu, ghét, xúc động,... cũng kết hợp
được với các từ: rất, hơi, lắm,.... Vì vậy,khi còn băn khoăn một từ nào đó là ĐT hay
TT thì nên cho thử kết hợp với hãy, đừng, chớ,... Nếu kết hợp được thì đó là ĐT.
Biện pháp 8: Tổ chức đánh giá kết quả học tập
Sau mỗi tiết học, đặc biệt là sau mỗi một nội dung, GV cần tổ chức đánh giá
kết quả học tập của HS để củng cố, uốn nắn kịp thời.
Đánh giá kết quả học tập của HS một cách kịp thời cũng là cách để chúng ta tự
đánh giá chất lượng giờ dạy của bản thân, từ đó có thể kịp thời rút kinh nghiệm,
điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy cho hợp lí, giúp HS lĩnh hội kiến thức
đầy đủ và dễ dàng hơn.

24


Kết quả đạt được:
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp xác định từ loại cho học sinh, tôi
nhận thấy:
- Học sinh nắm chắc khái niệm từ loại.
- Dựa vào khái niệm, học sinh đã xác định đúng từ loại.
- Đối với những trường hợp phân vân hoặc còn lúng túng, các em đã biết dựa
vào các dấu hiệu để tránh sự nhầm lẫn.
- Học sinh hứng thú hơn với môn học.
- Kết quả học tập, kiểm tra kiến thức về từ loại đạt mức cao hơn.
Sau đây là bảng thống kê kết quả của học sinh lớp 5C làm một số bài tập về
thực hành từ loại Tiếng Việt có trong chương trình tiểu học hiện hành khi đã thực

hiện đề tài này.
Tổng số
HS
25

HS xác định đúng
SL
11

%
44

HS xác định
chưa chắc chắn
SL
%
13
52

HS chưa xác định
được
SL
%
1
4

Trên đây là những biện pháp mà tôi đúc rút từ giảng dạy thực tế. Bằng những
biện pháp mà tôi áp dụng từ đó đa số học sinh lớp tôi đã xác định đúng từ loại
Tiếng Việt và đã phát triển được năng lực sử dụng ngôn ngữ trong nói và viết.
3. PHẦN KẾT LUẬN

3.1. Ý nghĩa đề tài
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong
bốn dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra, tầm
quan trọng của Tiếng Việt ở bậc tiểu học còn hướng đến việc hình thành các kỹ
năng mềm, kỹ năng sống cần thiết cho trẻ. Nội dung kỹ năng sống được thể hiện ở
tất cả các nội dung của môn học. Những kỹ năng đó chủ yếu là: kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng suy nghĩ sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng
làm chủ bản thân,.. Thông qua các kỹ năng này sẽ giúp trẻ nhận biết được những
giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, biết tự nhìn nhận đánh giá đúng về bản thân để tự
tin, tự trọng và không ngừng vươn lên trong học tập cũng như cuộc sống. Tiếng
Việt sẽ dạy trẻ biết cách giao tiếp, ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người

25


×