Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số giải pháp tích cực giúp học sinh học tập tốt môn tiếng việt 1 công nghệ giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.15 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN
TIẾNG VIỆT 1 - CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC

Quảng Bình, tháng 4 năm 2020


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN
TIẾNG VIỆT 1 - CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC

Họ tên: Võ Thị Loan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học số 2 An Thủy

Quảng Bình, tháng 4 năm 2020

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước rất cần những
người công dân có kiến thức trong xã hội. Để đáp ứng được nhu cầu cần thiết của
xã hội, mỗi chúng ta những người làm công tác giáo dục đều phải suy nghĩ là làm


sao để nâng cao được chất lượng dạy học nhằm đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu
giáo dục của thời đại. Trong các môn học thì môn Tiếng việt lớp 1 chiếm một vị trí
vô cùng quan trọng trong bậc tiểu học. Tiếng Việt dạy cho các em những kiến thức
cơ bản về tự nhiên, xã hội…Tiếng Việt còn là phương tiện giao tiếp giúp cho học
sinh nắm vững tiếng mẹ đẻ và tiến đến để học tốt các môn học khác. Chúng ta đều
biết, lớp 1 là lớp đầu cấp nên việc dạy đọc cho HS vô cùng quan trọng trong việc
tạo nền tảng, tiền đề để các em tìm tòi, phát hiện kiến thức trước mắt cũng như
trong tương lai. Đặc biệt khi chúng ta đang thực hiện dạy học Tiếng Việt theo
chương trình Tiếng Việt CNGD 1 là chương trình phù hợp với xu thế phát triển
giáo dục. Chương trình này góp phần nâng cao vai trò, vị trí của người dạy. Việc tổ
chức dạy học Tiếng Việt CNGD không mang tính áp đặt, phát huy được tính tích
cực, chủ động của các em, phát huy tối đa phương pháp dạy học lấy học sinh làm
trung tâm. Tiến trình giờ dạy nhẹ nhàng, tự nhiên. Học sinh nắm chắc được cấu tạo
ngữ âm, phân tích ngữ âm đúng, có kĩ năng ghi mô hình nhanh, chính xác. Chiếm
lĩnh được ngôn ngữ, các em mới có thể hoàn thiện chương trình học ở các lớp trên.
Giáo viên ít nói, việc dạy chủ yếu dùng kí hiệu, sách thiết kế rõ ràng cụ thể. Nó
như một cẩm nang dành cho đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lí dùng
chỉ đạo trong công tác chuyên môn.
Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Tiếng Việt
CNGD1, giúp học sinh thực sự: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, tập cho
các em tính mạnh dạn trong học tập và khả năng sáng tạo và học tốt môn CNGD 1
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số giải pháp tích cực giúp học sinh học tập tốt
môn Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục ”.


1.2: Điểm mới của đề tài:
Ở trường tiểu học thì lớp 1 chiếm vai trò, vị trí rất quan trọng trong cả cấp
học. Ngoài việc làm quen với môi trường học tập, các em được học những bài học
đầu tiên trong hành trình chinh phục tiếng mẹ đẻ.
Đối tượng của Tiếng việt 1 - CNGD chính là cấu trúc ngữ âm, quy trình dạy,

phần vần, công đoạn dùng mẫu và lập mẫu. Học sinh nắm chắc ngữ âm, luật chính
tả, phân biệt rõ đâu là nguyên âm, phụ âm, âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối.
Người giáo viên cần nắm được kiến thức, các biện pháp dạy học tích cực, từ
đó đưa ra những biện pháp cụ thể để học tập, phát triển toàn điện. Trong quá trình
giảng dạy học sinh lớp 1, tôi đã dựa vào những biện pháp chủ yếu sau:
- Xây dựng chương trình dạy học cụ thể.
- Tích hợp các biện pháp dạy học tích cực trong giảng dạy.
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh.
- Xây dựng các biện pháp học tập, rèn luyện cho học sinh còn chậm.
- Phối kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để rèn luyện, giám sát kĩ việc học ở
trường cũng như ở nhà..
Đồng thời, so với những tài liệu có liên quan thì sáng kiến của bản thân lại
đưa ra những giải pháp sát thực, phù hợp với việc dạy học Tiếng Việt 1 - Công
nghệ giáo dục hiện nay. Đó cũng chính là điểm mới của đề tài.
1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài.
Học sinh khối 1 ở các trường Tiểu học.


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng dạy học môn Tiếng việt 1 - CNGD ở trường Tiểu học nơi công
tác.
Lần đầu tiên các em tiếp xúc với các môn học, đặc biệt là môn Tiếng việt 1 CNGD. Ngay đầu năm học yêu cầu học sinh phải nắm chắc phần âm, vần, vẽ mô
hình, phân tích tiếng, luật chính tả, nhận xét luồng hơi phát ra để phân biệt nguyên
âm, phụ âm...Vì vậy, học sinh chỉ ghi nhớ một cách máy móc bước đầu học đọc,
học viết, học cách phân biệt nguyên âm, phụ âm, cách dùng mẫu, lập mẫu, luật
chính tả, các em còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, một số em
chỉ đọc vẹt chưa thuộc hết bảng chữ cái.
Chương trình CNGD đòi hỏi đội ngũ giáo viên lớp 1 phải linh hoạt, sáng tạo
trong tổ chức lớp học một cách cụ thể, buộc học sinh phải tham gia vào quá trình
học tập, qua đó bộc lộ và phát huy được tính tích cực, hình thành kĩ năng tự học

cho học sinh.
Khi dạy môn Tiếng Việt 1 - CNGD tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn
sau:
a. Thuận lợi
*Đối với giáo viên:
- Được sự quan tâm của chính quyền địa phương và các cấp Đảng uỷ đã tạo
điều kiện tốt cho công tác giáo dục của trường học. Chi bộ và BGH nhà trường
luôn chỉ đạo sát sao tới công tác dạy và học.
- Cơ sở vật chất nhà trường có đủ phòng học 2buổi/ ngày.
- Khối 1 có 3 giáo viên đều là những người nhiệt tình trong công việc, tham
gia đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn do phòng đề ra.
- Giáo viên có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề và luôn trăn trở về phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 CNGD.
- Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa
bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ.


- Giáo viên luôn có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học.
* Đối với học sinh
- Học sinh có cùng độ tuổi, tập trung ở gần trường thuận tiện cho việc đi
học
- Chương trình đã phát huy được khả năng tư duy của học sinh, giúp các
em nắm chắc được cấu tạo ngữ âm của tiếng nên đều đọc được và đọc tốt.
- Hình thức: Học mà chơi , chơi mà học từ đó các em cảm thấy tự tin, mạnh
dạn hơn khi tham gia học tập.
b. Khó khăn:
* Đối với Giáo viên
- Một số giáo viên còn lẫn chương trình cũ với chương trình Tiếng Việt 1 –
CNGD.
- Một số đồng chí giáo viên còn lúng túng chưa sáng tạo trong quá trình tổ

chức các hoạt động dạy học trong đó có dạy Tiếng Việt 1 - CNGD.
- Một số giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy.
* Đối với học sinh
- Các em từ trường mầm non lên chưa bắt kịp được môi trường học tập mới
còn rụt rè, chậm chạp. Trong quá trình học còn mải chơi chưa chú ý học bài, học
trước quên sau, nhanh chán.
- Khối 1 có số lượng học sinh khá đông 79 em, một số em chưa nói thông
thạo.
- Một số em do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn, gia đình chưa quan tâm đến
việc học của các em, còn khoán trắng cho giáo viên và nhà trường.
Qua quá trình theo dõi học tập của học sinh lớp tôi từ đầu năm học 2019 2020, kết quả đạt được như sau:
Bảng 1a:
TSHS
HS hoàn thành tốt
27

5

Đầu năm
HS hoàn thành

HS chưa hoàn thành

12

10


Bảng 1b:
Kĩ năng


Nghe

Nói

Đọc

Viết

SL

TL%

SL

%

SL

TL%

SL

TL%

HTT

7

25.9


12

44.4

5

18.6

7

25.9

HT

12

44,4

10

37

14

51.7

12

44.4


CHT

8

29.7

5

18.6

8

29.7

8

29.7

Mức

c. Nguyên nhân:
- Giáo viên chưa được tiếp cận chương trình Tiếng Việt 1 - CNGD, thiếu
kinh nghiệm trong giảng dạy.
- Do đổi mới chương trình mới nên giáo viên cũng gặp khó khăn trong việc
nghiên cứu nội dung bài dạy. Nhiều năm dạy theo chương trình hiện hành nên
quen với phương pháp đó nên khi dạy còn nhầm lẫn giữa chương trình hiện hành
với chương trình công nghệ giáo dục. Giáo viên mới còn nhiều lúng túng trong
cách phát âm giữa mới và cũ, đôi khi còn hay nhầm lẫn. Vẫn còn một số giáo viên
nhầm lẫn việc phân tích tiếng và đánh vần tiếng.

- Việc dạy học sinh đánh vần gặp nhiều khó khăn, bởi ở lớp cô dạy thế này
nhưng về nhà bố mẹ dạy thế khác.
- Thời lượng dạy học trên lớp không nhiều về nhà phụ huynh học sinh
không biết kèm thêm để học sinh học bài ở nhà, học sinh chỉ học được ở trên lớp là
chính.
- Kiến thức bài dài và khó nên chưa có nhiều thời gian cho học sinh rèn kỹ
năng luyện nói, luyện đọc.
- Quy trình của bài dạy dài, thay đổi thường xuyên nên đôi khi GV chưa
thuộc hết mà theo quy định phải dạy đúng theo sách thiết kế.
- Các em từ trường mầm non lên chưa bắt kịp được môi trường học tập mới
còn rụt rè, chậm chạp. Trong quá trình học còn mải chơi chưa chú ý học bài, học
trước quên sau, nhanh chán.
- Trong quá trình viết các em chưa tự viết được bài, độ cao con chữ chưa
chuẩn. Chưa tự nghe viết được, chủ yếu là tập chép.


- Có học sinh bố mẹ chưa quan tâm đến việc học của các em, còn khoán
trắng cho giáo viên và nhà trường.
2.2. Một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 1 - CNGD:
2.2.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh ngữ âm.
Để chiếm lĩnh được ngữ âm thì hướng dẫn cách phát âm là
phương pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải
có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi
hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản
để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với
những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh,
phân tích cụ thể cách phát âm (môi – răng – lưỡi, đường dẫn hơi,
điểm thoát hơi…)
VD: Khi học sinh sai lẫn âm l / n giáo viên cần hướng dẫn:
+ Âm l: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát.

+ Âm n: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi
thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. Với những học sinh vẫn chưa phát
âm được, giáo viên có thể yêu cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để đọc
âm l (đối với âm n, khi bóp mũi lại sẽ không thể đọc được).
VD: HS sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc thành “at”:, giáo
viên cần hướng dẫn:
+ ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi.
VD: HS sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ thống bộ máy phát
âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần hướng dẫn:
- Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ - đi ngụ, cử tạ - cự tạ, củ sả - cụ
sạ…)
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm, hơi
luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên
trên.


+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài).
Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu.
- Những tiếng có thanh sắc - thanh ngã (em bé ngã - em bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghế
gỗ - ghế gố…)
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao
giọng.
+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngăn, đọc
nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh
có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần
tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước,
hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường
“bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết… Học

sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo
viên cố gắng cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai
từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm
chuẩn xác.
Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến tình
trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và không phát huy được tính tích
cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi
thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn, không thể tự mình
phát âm đúng. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn
luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn( nghe tiếng phát âm và quan
sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn.
Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết
phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn.
Học sinh nếu chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt
hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1- CNGD việc quan sát môi cô khi phát âm
âm mới là rất quan trọng.


Hoạt động dạy - học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác:
giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học
diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn
điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không
khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; người giáo viên cũng không thể hiện
rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức mà
trong môn Tiếng Việt 1 – CNGD thì phương châm là “ thầy thiết kế - trò thi công”.
Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm
đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng
việc rèn cho các em có kĩ năng nghe - nhận xét - sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho
mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành
một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp

bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho
các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần
hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí
học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực.
Đồng thời, rèn cho học sinh có tính kiên trì là nhiệm vụ quan trọng. Bản
thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh.
Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích
cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải
điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn
luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh
phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen
“Em đã đọc tốt hơn rồi, em cố gắng thêm tí nữa nhé”, “em đã đọc được rồi đấy, em
cố gắng lên nhé”… được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ
rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm được…
từ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một
phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một
cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không


chuẩn xác. Với những đối tượng này, giáo viên phải thật nghiêm khắc, khen - chê
đúng mực để các em thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt, mình cần phải thể
hiện hết khả năng của mình.
Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho
các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả
trong các tiết học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc
vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất. Người giáo viên cần
chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát âm của các em và kịp thời sửa chữa,
đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu.
Bên cạnh đó giáo viên có thể cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh nêu

ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ đó tạo điều kiện rèn
luyện phát âm cho các em khi ở nhà. Với một số em cá biệt về phát âm, giáo viên
có thể gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên họ nên chọn mua những
quyển truyện tranh trong đó có lời đối thoại nhiều phụ âm mà học sinh hay nhầm
lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe, dạy em kể lại chuyện. Ngoài ra cần
nhắc nhở phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người
trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia
đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. Như vậy việc phối hợp giữa gia
đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần
một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai
không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do
các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương
(rượu - riệu). Đối với những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc
chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho
các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em
tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Ngoài ra, người giáo viên hoàn
toàn có thể thông qua họp phụ huynh học sinh, qua phiếu phối hợp giáo dục giữa
giáo viên và gia đình để hướng cho phụ huynh học sinh có cách dùng từ đúng để
sửa đổi.
2.2.2 Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh viết âm, vần, tiếng, từ:


Giáo viên phải nắm chắc kiến thức, viết đúng, viết đẹp mẫu chữ quy định để
dạy học sinh, bởi học sinh Tiểu học rất hay bắt chước. Khi hướng dẫn phải cụ thể,
tỉ mỉ, ngôn ngữ phải rõ ràng, dễ hiểu. Mặt khác giáo viên phải tìm hiểu kỹ đặc
điểm của từng học sinh để nắm được trình độ chữ viết cũng như sở thích, tâm lí…
của các em để có biện pháp cụ thể, phù hợp.
Để thực hành viết âm, vần, tiếng, từ đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức
chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau:
* Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau.

Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn (thể
hiện được 4 dòng) tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có
chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Bút dạ viết trên bảng phoóc trắng có
dòng kẻ, cầm vừa tay, đầu viết nhỏ, ra mực đều mới viết được dễ dàng. Khăn lau
sạch sẽ, có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xoá bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa
không ảnh hưởng đến chữ viết.
Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên
nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp
thời xử lí, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra.
2.2.3 Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh đọc câu, bài ứng dụng ở tài liệu Tiếng
Việt 1 - CNGD:
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh nhất là đối tượng học sinh tiếp
thu chậm. Các học sinh tiếp thu nhanh đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần
chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả
năng nhận biết tốt. Còn các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên
ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó
khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần đọc câu, từ, bài ứng dụng, giáo
viên cần hết sức kiên nhẫn, dành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc
bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Vì vậy giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho
các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo
viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc
trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn


tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ, rồi đọc câu, đọc cả bài....
VD: Dạy bài đọc Nước Việt Nam ta (sách Tiếng Việt 1 - CNGD Tập 3)
Nếu tiếng nào HS chưa đọc được, GV ghi lên bảng rồi hướng dẫn HS đánh vần
theo cơ chế tách đôi và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa
đành vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
2.2.4 Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh viết chính tả đúng:

Các biện pháp rèn chữ viết cho học sinh không thể tiến hành riêng lẽ và cũng
không phải chỉ ở một số chi tiết, một số giai đoạn. Nó phải có tính hệ thống, kết
hợp và liên tục đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
trong mỗi giờ học. Giúp học sinh có được những hiểu biết khi viết chính tả như
đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái,
khoảng cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh,
thao tác đưa bút đúng quy trình.
Trong quá trình rèn luyện chữ viết, giáo viên phải sát sao và kịp thời sửa lỗi
cho học sinh. Lời nhận xét của giáo viên rất quan trọng. Nhận xét không đi sâu vào
chỉ trích, tìm kẻ hở mà nên động viên, gợi ý để học sinh biết sửa sai. Luôn khơi gợi
những tình cảm, những điểm mạnh của học sinh, nắm được sự tiến bộ của học sinh
để khuyến khích, động viên các em.
Để học sinh viết đúng viết đẹp, điều không thể thiếu được là phải đổi mới
phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh chủ
động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút
kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Giáo viên phải thường xuyên trao đổi, phối hợp với phụ huynh trong việc
rèn chữ viết cho học sinh. Vì thời gian học tập trên lớp có hạn, để giúp các em viết
đúng, viết đẹp cần rèn thêm chữ viết khi ở nhà.
2.2.5 Giải pháp 5: Vận dụng, phối hợp các hình thức, phương pháp, kĩ thuật
trong dạy học:
Chúng ta tiến hành phân loại HS, tìm hiểu tình hình từng nhóm. Nguyên
nhân nhóm HS cần hỗ trợ chủ yếu do không thuộc bảng chữ cái, thái độ học tập


không đúng còn mải chơi, sự phát triển trí tuệ chậm, phụ huynh HS chưa quan tâm,
gia đình còn khó khăn... Từ đó GV có biện pháp giáo dục phù hợp.
Dạy đâu chắc đó, học sinh phải nắm được bài, không để học sinh ngoài lề
lớp học. Cần nắm chắc trình độ nhận thức của từng HS nhất là HS cần hỗ trợ để
giúp đỡ HS kịp thời trong từng tiết học và phụ đạo vào buổi chiều. Vừa học bài

mới kết hợp ôn tập bài cũ. HS chưa đọc được tiếng GV cần cho HS phân tích lại
phần vần rồi mới kết hợp ghép tiếng.
Phân loại đối tượng HS theo nhóm và đặt tên nhóm khi tổ chức trò chơi( thi
đọc trong nhóm). Có những bài tập phù hợp với trình độ từng nhóm HS để nhóm
HS học tốt phát huy hết khả năng của mình (Đọc bài cả trang chẵn và trang lẻ),
nhóm HS khác chỉ yêu cầu đọc 1 số tiếng có vần mới.
Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh trong lớp để các em hỗ trợ nhau.
Quan tâm khích lệ học sinh, tạo cơ hội để học sinh được chủ động tích cực
thông qua giờ học và thực hành. Kiểm tra thường xuyên để uốn nắn cho học sinh:
Thường xuyên kiểm tra, gần gũi các em học sinh hay mắc lỗi để động viên,
khuyến khích các em, không để các em chán nản và phối hợp cùng với gia đình tìm
biện pháp rèn riêng cho từng em.
Rèn kĩ năng đọc đúng, đọc thật chuẩn và chính xác bài đọc. Cho cả lớp đọc,
đọc cá nhân để phát hiện lỗi sai chỉnh sửa kịp thời. Lồng ghép các trò chơi học tập
trong các tiết học. Tổ chức cho các em hoạt động chuyển tiết bằng nhiều hình thức
phong phú tránh mỏi mệt sau mỗi tiết học.
Làm tốt công tác duy trì sĩ số hàng ngày, nề nếp của HS.
Yêu cầu HS học thuộc bảng chữ cái, GV viết và in bảng chữ cái có phiên âm
cách đọc phát về cho phụ huynh HS dạy thêm cho con đọc và viết ở nhà: a, b (bờ),
c, k, q (cờ), d, gi, r (rờ)…
2.2.6 Giải pháp 6: Các giải pháp hỗ trợ:
* Biện pháp tác động giáo dục
Để đáp ứng mục tiêu và phù hợp với yêu cầu học Tiếng Việt 1 - CNGD, từ
đầu năm, trong cuộc họp phụ huynh học sinh, giáo viên cần đề nghị và yêu cầu


thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học. Quán
triệt với phụ huynh không được hướng dẫn cho con em đọc bài trước ở nhà vì cách
đánh vần mới khác hẳn cách đánh vần cũ.
Xây dựng đôi bạn cùng tiến kèm cặp nhau.

Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay sau mỗi
tuần học theo các mức hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành. Đối với các
học sinh chưa hoàn thành, các em nhận diện các chữ cái chậm, đọc yếu giáo viên
cần dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này kịp thời với quan điểm:
dạy đến đâu, chắc đến đó.
*Tuyên dương, khuyến khích học sinh
Giáo viên cũng cần phải thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện
pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo
được không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các
lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những
lời động viên để khuyến khích các em (VD: “em đã phát âm chuẩn hơn hôm qua
rồi, cố lên em nhé). Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả
những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn,
hứng thú với công việc đó hơn.
2.3 Kết quả đạt được:
Qua kết quả khảo sát cuối kì I năm học 2019-2020 chất lượng lớp tôi đã
nâng lên rõ rệt cụ thể như sau:
Bảng 2a.
TSHS
HS hoàn thành tốt
27

Cuối học kì I
HS hoàn thành

13

Hs chưa hoàn thành

12


2

Bảng 2b:
Kĩ năng
Mức

HTT

Nghe
SL
TL%

SL

%

17

15

55.6

63

Nói

Đọc
SL
TL%


Viết
SL
TL%

13

15

48.1

55.6


HT

10

37

10

37

12

44.5

10


37

CHT

0

0

2

7.4

2

7.4

2

7.4

So với kết quả khảo sát ban đầu, tôi thấy kết quả sau khi áp dụng đề tài của
lớp do t«i chñ nhiÖm cã những tiÕn bé khá râ rÖt. Tôi thấy học sinh lớp
tôi đã khắc phục được những hạn chế của mình như: Các em còn nhút nhát, chưa
tích cực học bài, còn lúng túng khi phân tích hoặc đánh giá, nhận xét bạn. Nhờ có
áp dụng sáng kiến trên mà số học sinh hoàn thành tốt và hoàn thành của lớp tôi
tăng, và tỷ lệ chưa hoàn thành đạt ở mức thấp. Tôi thấy học sinh lớp tôi tự tin, tích
cực chủ động học bài, tiếp thu bài hơn nhiều, đọc to, rõ ràng, nghe viết chính tả tốt,
nhớ quy tắc chính tả và mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Mặt khác, giờ học
cũng trở nên gần gũi, sinh động và hấp dẫn hơn với học sinh. Những giải pháp trên
đã đòi hỏi và giúp các em học sinh lớp tôi mỗi ngày nỗ lực học tập hết mình, tiến

lên không ngừng để làm nền tảng, học tiếp các lớp trên được tốt hơn.

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Ở đề tài này tôi đã tìm hiểu các lỗi về phát âm, lỗi chính tả mà học sinh lớp 1
thường mắc phải để từ đó tìm hiểu nguyên nhân và tìm ra những biện pháp khắc
phục mang tính khả thi. Hơn nữa tôi cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để
hạn chế lỗi sai về phát âm, chính tả để rèn kĩ năng đọc đúng, viết đúng cho học
sinh lớp 1:
- Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh ngữ âm
- Hướng dẫn học sinh viết âm, vần, tiếng, từ
- Hướng dẫn học sinh đọc từ, câu, bài ứng dụng ở tài liệu Tiếng Việt 1CNGD
- Hướng dẫn học sinh viết chính tả
- Vận dụng, phối hợp các hình thức, phương pháp, kĩ thuật trong dạy học


- Các giải pháp hỗ trợ
Qua đó, tôi đã áp dụng thành công và nâng cao được chất lượng dạy và học
môn Tiếng Việt 1 - CNGD ở lớp cũng như ở trường. Học sinh tự bộc lộ được năng
lực nhận thức và thực hành luyện tập các kỹ năng một cách tích cực. Nhờ đó các
em học sinh học tốt hơn. Tôi tự nhận thấy học sinh lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong
phân môn Tiếng Việt 1 - CNGD. Tôi nhận thấy học sinh của chúng ta tiềm ẩn
những khả năng rất lớn. Nếu chúng ta biết cách khơi gợi, khuyến khích, động viên
thì giờ học sẽ thực sự do các em làm chủ, giáo viên chỉ đóng vai trò định hướng.
Qua thực tế giảng dạy, qua nghiên cứu chương trình Tiếng việt 1 - CNGD,
trao đổi với giáo viên giảng dạy cùng khối, dự giờ, dạy thử nghiệm, tiến hành tìm
hiểu nguyên nhân việc đọc sai, viết sai của học sinh và đề ra một số biện pháp sửa
chữa, xem xét kết quả thu được… Tôi đã tự rút ra bài học cho bản thân về phương
pháp, trình độ, năng lực truyền đạt kiến thức cho học sinh, nhất là việc sửa lỗi phát
âm, lỗi chính tả cho học sinh khi đọc, viết cụ thể là học sinh lớp 1 là vô cùng cần

thiết và cấp bách. Tuy các em học sinh có rất nhiều tiến bộ song tôi không phải đã
thật sự yên tâm, bởi vì liệu các em có sửa chữa khắc phục thường xuyên hay
không? Nhưng tôi tin rằng các em sẽ tiếp tục sửa chữa trong quá trình học tập
thường xuyên ở tất cả các môn học.
*Một số lưu ý khi áp dụng đề tài:
- Giáo viên phải miệt mài nghiên cứu tài liệu, đi sâu vào thâm nhập đối
tượng học sinh để có thể tìm ra phương pháp giảng dạy tốt nhất giúp cho học sinh
hiểu và nắm được nội dung của vấn đề.
- Giáo viên cần phải nghiên cứu rõ mục tiêu, nội dung từng bài.
- Quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, biết kết hợp chặt chẽ
giữa ba môi trường giáo dục
- Biết vận dụng hài hoà các điều kiện thực hiện thường xuyên, liên tục thì sẽ
đạt kết quả cao.


- Giáo viên phải tạo ra không khí thân mật cởi mở không chỉ ngoài giờ học
mà ngay cả trong giờ dạy của mình, tránh làm cho tiết học trở lên nặng nề.
3.2 Kiến nghị, đề xuất:
* Đối với ngành:
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn chỉ đạo, triển khai sâu rộng về đổi mới
phương pháp dạy và học để giáo viên nắm bắt và có phương pháp để giúp học sinh
học tập tốt môn Tiếng Việt 1 - CNGD.
- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề và bố trí giáo viên trực
tiếp dạy môn Tiếng Việt 1 - CNGD trong huyện tham gia giảng dạy luân phiên để
các trường về dự và cùng nhau thống nhất cách dạy sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
- Cần tạo mọi điều kiện có thể cho các giáo viên trực tiếp dạy Tiếng Việt 1CNGD có cơ hội nhiều nhất để học tập ở các trường ngoài huyện cũng đang thực
hiện chương trình Tiếng Việt 1- CNGD.
* Đối với trường:
- Để thực hiện có hiệu quả, trong khối cần có sự thống nhất ngay từ tuần đầu
của năm học để có sự chuẩn bị kịp thời. Chuyên môn trường, tổ cần có sự phân

công thao giảng, lên chuyên đề rút kinh nghiệm trước khi tiến hành dạy đại trà.
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học: diện tích phòng học
đạt chuẩn, bàn ghế đúng quy cách.
- Tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo chuyên môn cấp trường, cấp cụm để
trao đổi kinh nghiệm về đổi mới phương pháp trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Khuyến khích giáo viên đầu tư trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất
cách dạy để thực hiện có hiệu quả môn học mới nhưng cũng không hẳn là mới này.
- Cho giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt 1 - CNGD đi tập huấn ở
các cấp để nâng cao trình độ chuyên môn phục vụ cho giảng dạy.
* Đối với giáo viên


- GV cần có sự nghiên cứu nội dung bài dạy, nắm vững mục tiêu từng tiết
dạy từ đó vận dụng cho phù hợp đối tượng học sinh lớp mình phụ trách;
- Tác phong, lời nói , cử chỉ, điệu bộ, thao tác của giáo viên cần phải chuẩn
mực, thân thiện.
- Phân loại đối tượng học sinh để có kể hoạch giảng dạy cho phù hợp với
trình độ các em.
- Linh hoạt trong việc vận dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao
cho trong mỗi bài dạy có sáng tạo riêng, xong phải lấy mục đích hiểu bài của học
sinh làm trọng tâm.
- Chú ý tổ chức trò chơi để tạo hứng thú học tập cũng như củng cố kiến thức
cho học sinh.
* Đối với học sinh.
- Cần chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập và đọc kỹ bài trước khi đến
lớp.
- Thực hện tốt việc học trên lớp cũng như ở nhà một cách tự giác.
- Theo dõi và nhận xét ý kiến của bạn.
- Giúp đỡ lẫn nhau trong học tập trên lớp cũng như ở nhà.
* Đối với phụ huynh học sinh.

- Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập để phục vụ việc học tập của con
em mình.
- Cần quan tâm nhiều hơn đến việc học tập của trẻ. Tạo điều kiện học tập tốt
nhất cho các em cả về vật chất lẫn thời gian.
- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt được tình hình
học tập của con em mình. Động viên kịp thời trước sự tiến bộ của con em mình.
Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp khắc phục những hạn chế của
con em mình.
- Xây dựng cho các em có thói quen tự giác học tập ở nhà.
- Tạo điều kiện cho con em mình được đọc thêm các loại sách tham khảo.


Sự nghiệp trồng người là một sự nghiệp cao cả mà không phải ai cũng làm
tốt được. Nó đòi hỏi người thực hiện phải có cái tâm yêu nghề, mến trẻ. Vì thế,
người giáo viên mang trên vai một trách nhiệm rất lớn.
Để thực hiện điều đó tuy có vất vả nhưng chúng ta đừng ngần ngại, đừng
nản lòng bởi bên cạnh chúng ta luôn có sự quan tâm giúp đỡ của bạn bè, đồng
nghiệp và của Ban giám hiệu nhà trường. Những thành tích học tập tốt, những
người tài của đất nước - kết quả của quá trình lao động vất vả mà chúng ta đã tốn
bao tâm huyết, tiền của để thực hiện sẽ là phần thưởng to lớn của mỗi giáo viên và
nó còn là nguồn động lực giúp chúng ta vượt qua khó khăn để hoàn thành sự
nghiệp trồng người. Là giáo viên, chúng ta đừng tiếc những gì mình đã bỏ ra mà
hãy nhìn vào thành quả của công việc để thấy điều mình làm là xứng đáng./.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà Tôi đã thử nghiệm thành công tại đơn
vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt - CNGD1. Rất mong
nhận được sự góp ý của thầy, cô và bạn bè đồng nghiệp.




×