Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN một số phương pháp giúp học sinh yêu thích học môn lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.31 KB, 25 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Dạy học lịch sử là quá trình giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản về lịch sử nhằm phục vụ cho việc giáo dục và phát triển học sinh qua môn học.
Lịch sử vốn tồn tại khách quan, là những vấn đề đã xảy ra trong quá khứ nên trong
quá trình giảng dạy, ôn tập, để học sinh nắm bắt được những hình ảnh lịch sử cụ thể,
đòi hỏi bên cạnh những lời nói sinh động giáo viên phải lựa chọn các phương pháp
dạy dạy khác nhau để đạt được hiệu quả cao trong truyền thụ.
Căn cứ vào đặc trưng cơ bản của môn học lịch sử ở trường phổ thông: Học tập lịch
sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội, để hiểu về
hiện tại và chuẩn bị cho tương lai.
Hơn nữa khác với giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người không thể trực tiếp quan
sát và cũng không thể khôi phục lại diễn biến lịch sử trong phòng thí nghiệm. Lịch sử
là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, tồn tại một cách khách quan,
không thể thông qua “phán đoán”, “suy luận”…để biết lịch sử.
Trong những năm gần đây, thái độ học tập và kết quả bài làm môn lịch sử của học
sinh qua các kì thi tốt nghiệp và đại học đã như một hồi chuông báo động, cảnh tỉnh
đối với mỗi người về vấn đề dạy và học môn lịch sử ở trường phổ thông nói chung và
THCS nói riêng.
Có khá nhiều học sinh cho rằng lịch sử chỉ là một môn học phụ, không có ích gì
cho tương lai nên không cần phải đầu tư.
Bên cạnh đó, nhiều em cũng cho rằng lịch sử là môn học quá khô khan nên không
hấp dẫn được các em. Chính từ những suy nghĩ trên đã dẫn đến một hệ quả là, nhiều
bài thi lịch sử chỉ ở mức điểm kém, vô số bài trình bày sai quan điểm lịch sử hay có
những hiểu biết mơ hồ, lan man về lịch sử dân tộc.
Nếu đem so sánh thực tiễn ấy với ước nguyện sinh thời của Bác:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
1



Ta sẽ thấy một vấn đề cấp bách cần phải được giải quyết là làm sao khơi dậy và
duy trì được trong học sinh sự hứng thú, đam mê và một thái độ học tập đúng đắn,
nghiêm túc đối với bộ môn lịch sử.
Hơn nữa đặc thù học tập môn lịch sử của bậc THCS là các em phải tiếp cận với
nhiều sự kiện lịch sử, với những vị anh hùng, những danh nhân lịch sử vĩ đại không
chỉ của dân tộc mà cả thế giới từ cổ đến kim, từ cận đại đến hiện đại.
Theo tôi, để học sinh tiếp thu nhanh, nhớ lâu, trong giảng dạy bộ môn lịch sử ở
trường THCS, giáo viên phải phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Muốn vậy, giáo viên phải tạo cho các em sự yêu thích học tập môn lịch sử, để các em
dễ dàng tiếp thu kiến thức mà không bị gò ép.
Trong quá trình ĐMPPDH nói chung và ĐMPPDH môn Lịch sử nói riêng, trên cơ
sở áp dụng ĐMPPDH vào thực tiễn, mỗi giáo viên dạy phụ trách bộ môn có những
thế mạnh và đúc rút cho mình những kinh nghiệm riêng sẳn có.
Đối với bản thân là giáo viên dạy môn lịch sử từ năm học 2004 đến nay, tôi rất băn
khoăn về vấn đề học tập của các em. Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học
bộ môn lịch sử là cả một vấn đề đặt ra yêu cầu đối với cả người dạy và người học.
Trò phải hứng thú, say mê; thầy phải phát huy được tính tích cực, sáng tạo, phải khơi
dậy được niềm đam mê học tập ở trò.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử, tôi đã cố gắng học hỏi bạn bè, đồng
nghiệp, đồng thời nghiên cứu về một số phương pháp nhằm tạo được sự yêu thích
học tập cho học sinh như: Tổ chức trò chơi, vận dụng thơ ca, sử dụng CNTT trong
tiết dạy học lịch sử ... Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử ở
trường THCS giúp học sinh dễ hiểu, dễ khắc sâu kiến thức, nắm được một số kĩ năng
quan trọng của lịch sử, đồng thời làm cho tiết học sinh động, hấp dẫn hơn.
Từ những kết quả ban đầu, bản thân tôi đã nghiên cứu, chiêm nghiệm về một sổ
phương pháp giúp HS yêu thích học môn lich sử ở trường THCS. Trong quá trình
giảng dạy bộ môn, qua các lần ứng dụng một trong số các phương pháp trên tôi thấy
học sinh rất hứng khởi, tham gia nhiệt tình, giờ học trở nên nhẹ nhàng, sinh động, học
sinh được làm việc nhiều, chất lượng học tập bộ môn không ngừng được nâng lên.
Từ những lí do trên và kết quả bản thân đã đạt được trong các tiết dạy tôi đã chọn

đề tài “ Một số phương pháp giúp học sinh yêu thích học môn lịch sử ở trường
THCS”.
2. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết: Công cuộc cải cách giáo dục đã và đang được triển khai ở
các trường phổ thông, đòi hỏi đồng thời tiến hành cải cách hệ thống giáo dục, về nội
dung phương pháp dạy… Các bộ môn về khoa học xã hội trong đó có bộ môn lịch sử
2


ngày càng được nhận thức đúng vai trò và ý nghĩa của nó trong việc đào tạo thế hệ
trẻ. Những biến chuyển to lớn sâu sắc trong thời đại chúng ta càng chứng tỏ sự đổi
mới phương pháp dạy học là yếu tố quyết định đến sự thành công của một giờ học,
tạo niềm hứng thú, say mê, tìm tòi cho học sinh. Trong đó vấn đề tạo cho học sinh có
sự yêu thích môn học là vấn đề cốt lõi, quyết định đến chất lượng của một giờ dạy
môn lịch sử ở trường THCS.
Điểm mới của đề tài “ Một số phương pháp giúp học sinh yêu thích học môn lịch
sử ở trường THCS” là ở chổ:
Với việc áp dung phương pháp mới này trong dạy học của bản thân và đồng nghiệp
đã có sự thay đổi nhiều và theo chiều hướng tích cực, trong giờ học lịch sử, tôi nhận
thấy học sinh có sự chuyển biến rõ nét, các em rất tích cực xây dựng bài, không còn e
dè, ngại ngùng như trước vì thế mà giờ học trở nên sôi nổi đặc biệt là đối với các tiết
làm bài tập lịch sử các em rất thích thú tham gia học nên giờ học không còn cứng
nhắc, đơn điệu mà trở nên sinh động, học sinh tích cực tham gia xây dựng bài, các
em rất thích phần củng cố bài của giáo viên.
Đây là cách tiếp cận nhanh nhất để hình thành kiến thức, kỷ năng cho học sinh và
khắc sâu vào tâm trí học sinh lâu nhất.
Hơn nữa góp phần quan trọng nhằm phát huy tích tích cực chủ động nắm bắt tri
thức lịch sử như: Địa danh, tinh thần ý thức độc lập dân tộc, tinh thần lao động, chiến
đấu bất khuất của cha ông, góp phần bồi dưỡng học sinh lòng tự hào về dân tộc, đây
là cơ sở để học sinh vận dụng vào thực tiễn.

Giúp các em có hứng thú trong học tập môn Lịch sử và lĩnh hội kiến thức tốt hơn,
nhớ lâu hơn các sự kiện, một thời kì lịch sử của dân tộc ta.
Bên cạnh đó giáo viên có thể lôi cuốn học sinh, gây hứng thú cho học sinh trong
tiết học ứng dụng CNTT vào việc giảng dạy. Với giáo án điện tử giáo viên thể hiện
toàn bộ nội dung như những trận đánh sinh động hoặc nhân vật lịch sử, các khái niệm
lịch sử... Tạo nhiều hứng thú cho các em trong học tập.
Các em được tiếp cận, nhận thức các sự kiện lịch sử và bài học lịch sử sống động
hơn, gần với quá khứ hơn so với những bài giảng thông thường, học sinh phải cố
gắng hình dung, mường tượng trong đầu những sự kiện, nhân vật lịch sử mà thầy cô
thuyết giảng.
Với việc học trên bài giảng điện tử học sinh sẽ được trực quan sinh động với những
sự kiện, nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp kích thích quá trình tư duy của học
sinh, từ đó nội dung kiến thức lịch sử học sinh nắm được nhiều hơn, thu thập đủ hơn
và in sâu hơn vào trí nhớ của các em, các em sẽ không cảm thấy nhàm chán khi học
môn học này
3. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài này được áp dụng ở trường THCS nơi bản thân tôi đang giảng dạy trong năm
học 2016 - 2017.

3


II. PHẦN NỘI DUNG.
1.THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS NƠI TÔI
ĐANG GIẢNG DẠY.
Qua nắm bắt tình hình, trao đổi với đồng nghiệp trong huyện và trên địa bàn về việc
giảng dạy các tiết học lịch sử ở trường THCS nơi tôi đang công tác, bản thân tôi
nhận thấy:
1.1. Về phía Giáo viên:
Trong các tiết dạy giáo viên thường mắc phải những lỗi cơ bản: Giờ dạy trầm, giáo

viên nói nhiều, học sinh làm việc ít, giờ học không có sự sáng tạo, phân lượng thời
gian không hợp lí, phần củng cố bài thì qua loa, không hiệu quả, đặc biệt là các tiết
làm bài tập lịch sử thường là giáo viên cho 1 đến 2 bài tập cho học sinh làm hoặc giao
về nhà cho học sinh và hôm sau nộp lại cho giáo viên....Chính vì vậy mà giờ học lịch
sử hiệu quả không thực sự cao, không thu hút được sự hứng thú của các em.
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học
cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện
cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như : Sử dụng phương pháp
dạy học “thầy nói, trò nghe ”, “ thầy đọc, trò chép ”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm
vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào
sách giáo khoa hoàn toàn ...
Bên cạnh đó một số giáo viên soạn bài chưa chu đáo, có phần còn khiếm khuyết
khi xác định nhiệm vụ và vai trò bộ môn lịch sử trong nhà trường. Hoặc có thể khi
giảng dạy, người giáo viên chưa thực sự tâm huyết với bộ môn, giảng dạy còn nặng
một chiều truyền thụ kiến thức, tạo sự gò bó, nhàm chán trong lĩnh hội kiến thức của
học sinh.
Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một số học sinh khá,
giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối
tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này
làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn
học.Thực ra từ trước đến nay, đa số giáo viên ở trường do điều kiện dạy học, thiết bị
còn có phần hạn chế nên khi giảng dạy hầu như giờ học chưa sôi nổi, học sinh chưa
có hứng thú học tập, giờ học nhàm chán, nên hiệu quả giờ học đạt kết quả chưa cao.
1.2.Về phía học sinh :
Trước đây chúng ta quan niệm môn lịch sử chỉ là môn học thuộc lòng, không cần
phải tư duy, không có bài tập. Vì vậy học sinh chỉ học một cách hời hợt theo nội dung
vở ghi, ít khi sử dụng SGK. Kết quả là khi kiểm tra, học sinh rất thụ động không nắm
bắt được kiến thức và phải nhờ vào sự "hỗ trợ nguồn" từ bên ngoài. Một cách học, thi
cử như vậy kéo dài suốt hàng chục năm nay. Học sinh rất ít hứng thú học, khả năng
ghi nhớ sự kiện rất thấp, không liên hệ được với thực tế, không hiểu rõ về lịch sử

nước nhà. Nguy hại hơn là để lại cho học sinh những nhận thức lệch lạc về một bộ
môn khoa học chân chính, được xem là "khoa học của mọi khoa học".
4


Học sinh chưa yêu thích bộ môn lịch sử vì phần lớn các em đều cho rằng học lịch
sử rất khó, rất khô khan, rất trừu tượng, quá nhiều sự kiện cần ghi nhớ… Hơn nữa
chương trình lịch sử quá rộng, độ nhớ của các em không được lâu, Các em cho rằng
chỉ trả lời một số câu hỏi cuối sách hoặc vẽ một vài bản đồ khởi nghĩa là xong. Chính
vì vậy học sinh học rất nhàm chán, nhận biết sự kiện không sâu sắc.. Chất lượng học
tập bộ môn lịch sử còn thấp, tỉ lệ học sinh khá, giỏi chưa cao.
Học sinh trường THCS nơi bản thân tôi đang dạy nói riêng và các trường trên địa
bàn huyện nói chung đều có xuất phát điểm thấp, ý thức học tập chưa cao, đa phần
các em chưa xác định được rõ ràng mục tiêu học tập, chưa thực sự cố gắng trong các
tiết học, làm bài tập ở nhà còn khép kín, chưa dám mạnh dạn khi giáo viên yêu cầu
trả lời câu hỏi, chỉ bản đồ, lược đồ…
Cụ thể qua điều tra thực tế học sinh các lớp 7,8,9 các năm trước tôi thấy chât lượng
học tập bộ môn lịch sử chưa cao. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm như sau:
Kết quả.
Khối lớp.

Tổng số
học sinh

Khá-Giỏi

Trung bình

Dưới trung
bình


7

94

25 %

30 %

45 %

8

117

20 %

35 %

45 %

9

118

22 %

31 %

47 %


1.3: Nguyên nhân của thực trạng trên:
Qua tìm hiểu học sinh, cũng như các đồng nghiệp trên địa bàn huyện tôi nhận thấy
sở dĩ có thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau:
Một là, môn Sử có nhiều sự kiện, nên khó học, khó nhớ.
Hai là, học sinh thì luôn có tâm niệm đây là môn phụ không có sự hướng nghiệp rõ
ràng khi lựa chọn ôn thi, chọn trường, chọn nghề….
Ba là, Với địa bàn tương đối khó khăn, nhận thức của người dân còn thấp, hiểu biết
chưa cao, vì thế phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình,
thờ ơ với bộ môn Sử, thường hướng con em học vào các khối khoa học tự nhiên.
Bốn là, xuất phát từ giáo viên, chất lượng đội ngũ giáo viên chưa thực sự đồng bộ,
chưa có phương pháp giảng dạy một cách hiệu quả nhất, cho nên không thu hút được
các em trong giờ học. ,.... Giáo viên chưa thực sự đầu tư cho giờ dạy vì khi dạy, tâm
lý của học sinh thường xem lịch sử là môn phụ nên chất lượng bài soạn các tiết dạy
chưa cao, nếu có thì cũng hời hợt. Các giờ học lịch sử chưa gây được sự hứng thú cho
học sinh.
Mặt khác, giáo viên và học sinh chưa bắt kịp với sự đổi mới phương pháp dạy và
học. phương tiện dạy học còn thiếu: Thiếu các loại sa bàn, máy chiếu, băng hình...
Để khắc phục thực trạng đó tôi đã áp mạnh dạn áp dụng “Một số phương pháp giúp
học sinh yêu thích học môn lịch sử ở trường THCS ” trong giảng dạy các khối lớp 78 - 9 nhằm hình thành một số kĩ năng lịch sử cơ bản như:
5


Rèn luyện tính tư duy độc lập, kĩ năng sử dụng lược đồ, bản đồ, sử dụng sơ đồ,
bảng thống kê, rèn kĩ năng diễn đạt, rèn luyện phương pháp khai thác nội dung tranh
ảnh, lược đồ, bản đồ, hợp tác theo nhóm và tạo sự hứng thú học tập lịch sử cho học
sinh trong các tiết học góp phần đổi mới PPDH nâng cao hiệu quả bài học.
2. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
2.1. NỘI DUNG:
Khác với các môn học khác, bộ môn Lịch sử trong trường phổ thông có nhiều nét

đặc trưng riêng mà ở các môn học khác không hề có. Đó là:
Học tập lịch sử là để hình dung rõ ràng, giải thích đúng, có cơ sở khoa học về lịch
sử. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử, biến cố lịch sử...không phải xuất hiện một cách
tùy ý, hoàn toàn ngẫu nhiên mà chính là sản phẩm của những điều kiện lịch sử nhất
định, có những mối quan hệ nhân quả, tuân theo những quy luật nhân quả nhất định.
Bộ môn lịch sử có nhiệm vụ giúp cho học sinh nắm được bản chất các sự kiện, hình
thành các khái niệm lịch sử, phát hiện các mối liên hệ trong quá trình lịch sử, rút ra
bài học.
Lịch sử đã qua đi nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại “dấu vết” qua kí
ức của nhân loại (văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội,...), qua những thành
tựu văn hoá vật chất (thành quách, nhà cửa, lâu đài, đình, chùa, nhà thờ, đền, miếu,
tượng đài,...), qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa, qua tên đất, tên
làng, tên đường phố, qua tranh ảnh, báo chí đương thời... Chỉ có các chứng cứ vật
chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày về lịch sử.
Xuất phát từ thực tế bộ môn và qúa trình giảng dạy của mình tôi thấy cần tạo ra
cho học sinh một không khí học tập sôi nổi, hứng thú, say mê hơn trong khi dạy học
lịch sử. Có như vậy học sinh mới yêu thích bộ môn và sẽ nâng cao được chất lượng
dạy học bộ môn. Thiết nghĩ rằng các hình thức như: Trò chơi, vận dụng thơ ca, sử
dụng CNTT trong tiết dạy học lịch sử .. Một trong những phương pháp đó có thể áp
dụng vào các tiết học nhằm kích thích sự hứng thú học tập của các em. Nhằm tạo cho
các em có một giờ học thoái mái, tiếp thu bài nhanh hơn.
Ví dụ như trong các tiết học : Ôn tập, làm bài tập, tổng kết, thực hành… không chỉ
nhằm mục đích giải trí cho học sinh mà còn tạo nên một không khí hăng say học tập.
Các em phải có thể độc lập suy nghĩ tìm tòi hoặc phối hợp với các bạn trong nhóm
để có đáp án nhanh, chính xác. Vì thế khi các em được học Lịch sử qua hình thức trò
chơi, khai thác kênh hình ở SGK sẽ thấy thoải mái hơn, hứng thú hơn, từ đó mà ghi
nhớ tốt những kiến thức cơ bản.
Có nhiều biện pháp để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong khuôn khổ của
một đề tài, tôi xin trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình soạn
giảng phù hợp với điều kiện dạy và học ở trường tôi, đối với 1 số tiết ở hầu hết các

khối lớp 7, 8, 9 có lượng kiến thức không quá dài, nội dung tổng hợp của cả bài học
và đã thu được kết quả khá tốt trong các hội thi ở trường, được bạn bè đồng nghiệp
đánh giá cao.

6


2.2. CÁC GIẢI PHÁP:
2.2. 1. Thay đổi cách nhận thức về môn học này:
Giáo viên và học sinh coi môn Lịch sử là một môn khoa học. Muốn vậy người
thầy phải luôn luôn nghiêm túc với tiết dạy lịch sử. Thường ở trường THCS giáo viên
dạy Văn thì đi đôi với dạy Sử, Địa…do đó giáo viên chỉ coi trọng môn Văn còn môn
Sử thì dạy cho hết giờ rồi thôi.
Qua thực tế nhiều năm, giảng dạy môn Lịch sử ( gần 10 năm), tôi thấy tiết học nào
mà chuẩn bị chu đáo về nội dung lẫn đồ dùng dạy học, sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau kết hợp với lời giảng đúng đặc trưng bộ môn thì học sinh rất hứng thú say
mê nghe giảng, kiến thức cũng được khắc sâu hơn.
Học sinh phải coi đây là một môn khoa học chính, có sự chuẩn bị bài, tìm hiểu
những sự kiện, nhân vật lịch sử liên quan đến bài học…Có như vậy sau khi nghe thầy
giảng thì mới hiểu thấu đáo được vấn đề.
2.2.2. Luôn cải tiến phương pháp dạy học:
Trước đây khi CNTT chưa phát triển thì người thầy tâm huyết với môn học này
thường kèm theo bản đồ tranh ảnh lịch sử (nếu có). Nay khi CNTT phát triển như vũ
bão thì rất thuận lợi cho việc giảng dạy nói chung và đặc biệt môn lịch sử nói riêng.
Vì thế người giáo viên luôn không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, cải
tiến phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin một cách thuần thục để
giờ Sử luôn sống động trong mỗi tiết học chứ không đơn thuần ở tiết thao giảng hay
thanh tra mà thôi…
Theo báo cáo của trung tâm nghiên cứu kĩ thuật của Mỹ vào năm 1993: “ Con
người lưu lại trong bộ nhớ được khoảng 20% những gì họ thấy và khoảng 30% những

gì họ nghe và con số này có thể lên đến 80% nếu họ thấy và nghe sự vật, hiện tượng
một cách đồng thời”.
Qua những số liệu này và quá trình giảng dạy thực tế ở trường phổ thông có thể
thấy việc dạy học Lịch sử chỉ với những phương tiện truyền thông như bảng đen, lời
nói của thầy cô giáo và một ít phương tiện dạy học mang tính tĩnh (Bản đồ, tranh ảnh,
sơ đồ…) chắc chắn mức độ ghi nhớ sẽ không cao và nhanh quên.
Trong khi đó nếu học sinh được xem phim tư liệu, bản đồ, sơ đồ động (được thực tế
theo logic sự kiện) tranh ảnh, màu sắc sinh động, kết hợp với lời nói của giáo viên thì
khả năng ghi nhớ của các em sẽ tăng lên. Không những thế nếu làm được điều này
chúng ta sẽ tạo lên được bầu không khí học tập sinh động, khơi gợi hứng thú học tập
cho các em, đồng thời khắc sâu những kiến thức mà các em tiếp thu được.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta gạt bỏ phương pháp dạy học truyền
thống mà là “ kê thừa” phát triển mặt tích cực của hệ thống phương pháp dạy học
đồng thời cần phải học hỏi, vận dụng những phương pháp dạy học mới theo hướng
tích cực khắc phục những vấn đề mà phương pháp dạy học cũ còn nhiều vấn đề chưa
phù hợp.
7


2.2.3. Thường xuyên tổ chức hoạt động ngoại khóa:
Tìm hiểu kiến thức lịch sử qua các tiết chào cờ, sinh hoạt, giáo dục ngoài giờ lên
lớp thực tế ở trường tôi đã từng làm bằng cách: Giáo viên môn Lịch sử ra hệ thống
câu hỏi đầu tháng in và phô tô dán ở mỗi lớp, yêu cầu học sinh về tìm hiểu và tìm đáp
án đúng sau đó giờ chào cờ cuối tháng sẽ có một phần thầy tổng phụ trách hỏi về nội
dung lịch sử đã tung ra của tháng đó (tất nhiên sẽ có một phần quà dành cho học sinh
có đáp án trả lời đúng- dù là phần quà đó không lớn lắm có khi chỉ là quyển vở, bút
chì hay thước kẻ mà thôi).
Câu hỏi tìm hiểu về Lịch sử dân tộc có thể được viết dưới dạng câu hỏi bình
thường, cũng có thể được viết dưới dạng thơ. Dưới đây là một vài vần thơ đố về Lịch
sử mà trường tôi đã áp dụng:

1. Đó ai Yên Thế hùm thiêng
Phất cờ khởi nghĩa ở miền Lạng Giang
Khi mai phục lúc trá hàng
Làm quân cướp nước hoang mang điên đầu
( là ai? - Đáp án: Hoàng Hoa Thám)
2. Vua nào trong thuở hàn vi ở chùa?
(là ai? - Đáp án: Lý Công Uẩn)
3. Đố ai qua Nhật sang Tàu
Soạn thành huyết lệ hơn cầu tàn thư
Hô hào vận động Đông Du
Kết đoàn cùng với sĩ phu khắp miền
( Đáp án: Phan Bội Châu)
Ngoài ra còn rất nhiều vần thơ khác đồng nghiệp có thể tìm hiểu ở cuốn Câu đố
Việt Nam (NXB Hồng Đức).
Qua áp dụng tôi thấy một không khí thi đua tìm hiểu Lịch sử diễn ra sôi nổi và các
em rất mong đến tiết chào cờ cuối tháng để trả lời câu hỏi đầu tháng thầy cô đưa ra.
Cứ như vậy nhà trường duy trì từ năm này qua năm khác xoay quanh nội dung kiến
thức cơ bản về lịch sử sẽ giúp các em khắc sâu hơn để rồi vào giờ học chính khóa
môn Lịch sử các em tiếp thu bài nhanh hơn, tự nhiên hơn.
2.2.4. Tổ chức các trò chơi ô chữ:
a. Một số nguyên tắc khi thiết kế và tổ chức trò chơi:
Một là: Chọn trò chơi phù hợp với điều kiện nhà trường;
Hai là: Xác định phạm vi, mục đích của trò chơi;
Ba là: Chọn trò chơi phù hợp với kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh;
Bốn là: Tổ chức, biên soạn câu hỏi cho trò chơi phải bám vào “Chuẩn kiến thức kĩ năng” của bộ môn;
8


Năm là: Tổ chức trò chơi phải xác định được thời gian: Trừ các trò chơi tổ chức ở
các tiết ngoại khoá (1 tiết hoặc nhiều hơn), các tiết làm bài tập lịch sử (1 tiết), thì các

trò chơi tổ chức trong tiết dạy chỉ dừng ở thời gian là 4 – 6 phút;
Sáu là: Trò chơi phải có sức hấp dẫn, thu hút được sự tham gia của học sinh, tạo
không khí thoải mái, hấp dẫn trong học tập;
Bảy là: Không quá lạm dụng trò chơi trong dạy học;
Tám là: Luôn thay đổi trò chơi để thu hút học sinh, tuy nhiên phải dựa vào dạng
bài, kiểu bài;
Chín là: Khi tổ chức trò chơi giáo viên luôn phải động viên học sinh là tham gia trò
chơi, cho điểm hoặc ngợi khen các em trước lớp.
b. Vai trò, ý nghĩa của trò chơi học tập khi dạy môn Lịch sử :
Trong giảng dạy bộ môn lịch sử 8 - 9 nói riêng và 6 - 7 cũng như các bộ môn xã
hội nói chung, tổ chức trò chơi trong dạy học có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Một là: Giúp các em thay đổi hình thức, phương pháp dạy và học truyền thống
trước đây, làm cho giờ học bớt căng thẳng, nặng nề, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu,
để học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng khởi.
Hai là: Rèn luyện thêm kĩ năng lịch sử cho học sinh. (chỉ bản đồ, vẽ sơ đồ, tường
thuật, hình thành kĩ năng làm việc theo nhóm của học sinh...)
Ba là: Tạo cho học sinh sự tìm tòi, sáng tạo, rèn luyện cho học sinh có cơ hội để
hoàn thiện bản thân.
Bốn là: Qua trò chơi đã kích thích học sinh vận dụng kiến thức năng động, rèn
luyện trí nhớ, phát triển khả năng phán đoán, suy luận . Từ đó phát triển tư duy mềm
dẻo, học tập cách xử lý thông minh các tình huống phức tạp, tăng cường khả năng
vận dụng trong cuộc sống để thích nghi với điều kiện mới của xã hội.
Năm là: Ngoài ra thông qua trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm
chất đạo đức như: tính nhanh nhẹn, tình đoàn kết thân ái, sự phối hợp nhịp nhàng,
lòng trung thực và tinh thần trách nhiệm lẫn nhau
c. Cách tạo ô chữ:
Khi soạn bài, tôi thiết kế một hệ thống ô chữ lịch sử với các ô chữ hàng ngang và
một ô chữ hàng dọc.
Mỗi ô chữ hàng ngang là một đơn vị kiến thức trong bài học và sẽ có một chữ cái
chìa khoá.

Mỗi ô hàng ngang có một câu hỏi để học sinh giải đáp. Sau khi giải hết các ô chữ
hàng ngang với các chữ cái xuất hiện, học sinh sẽ tìm được ô chữ hàng dọc.
Ô chữ hàng dọc sẽ là nội dung kiến thức cơ bản nhất của bài học. Để tạo ra được
một ô chữ có ý nghĩa về nội dung, phù hợp với đối tượng học sinh của các khối lớp
thì tôi thường gợi ý trước cho học sinh một số nội dung có liên quan đến ô chữ vào
cuối tiết học hôm trước để về nhà các em tìm hiểu và chuẩn bị cho tiết học mà tôi sẽ
sử dụng trò chơi ô chữ.
9


d. Sử dụng ô chữ:
Với ô chữ lịch sử, tôi thường sử dụng vào khâu củng cố bài học, hoặc có thể sử
dụng để kiểm tra kiến thức sau khi học một chương, một giai đoạn lịch sử. Để thực
hiện trò chơi giải ô chữ, tôi dành thời gian khoảng từ 7-10 phút, đây là một trong
những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở trên lớp, đồng thời kích
thích tính tích cực học tập của các em.
* Cách thứ nhất: Hoạt động nhóm.
B1: Chia lớp làm ba nhóm, tôi phát phiếu học tập cho các em thảo luận nhóm.
Thời gian thảo luận khoảng từ 3 - 4 phút.
B2: Tôi kẻ ô chữ vào ba bảng phụ và treo lên bảng (đã chuẩn bị trước ở nhà)
B3: Học sinh ba nhóm thi đua nhau lên bảng điền vào các ô chữ. Nhóm nào hoàn
thành ô chữ trước và đúng sẽ chiến thắng. Thời gian điền vào ô chữ khoảng từ 2 -3
phút
B4: Tôi yêu cầu học sinh tìm ô chữ hàng dọc và trình bày hiểu biết của em về ô
chữ hàng dọc đó.. Thời gian để thực hiện khoảng từ 1-2 phút
B5: Tôi treo ô chữ hoàn chỉnh lên bảng, nhận xét và tuyên dương nhóm làm tốt và
cho điểm để động viên các em.
Trong quá trình chơi, nếu nhóm nào điền không đúng ô chữ thì sẽ bị trừ điểm.
* Cách thứ hai: Hoạt động độc lập.
B1: Tôi đóng vai trò là một người dẫn chương trình.

B2: Cho học sinh tự do lựa chọn ô chữ hàng ngang tuỳ thích, giáo viên đọc câu
hỏi, học sinh trả lời.
B3: Sau khi lần lượt học sinh giải các ô chữ hàng ngang, các chữ cái chìa khoá sẽ
xuất hiện; tôi cho học sinh tìm ô chữ hàng dọc và trình bày hiểu biết của em về ô chữ
hàng dọc.
B4: Tôi nhận xét và tuyên dương những học sinh làm tốt, và cho điểm để động
viên các em.
e. Thiết kế ô chữ.
Ví dụ: Thiết lập ô chữ trong bài 13- Tiết 15: “ Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ
sau năm 1945 đến nay.” (Lịch sử 9 trang 52)
Ô chữ gồm có 6 ô chữ hàng ngang và một ô chữ hàng dọc:

10


* Hệ thống câu hỏi cho ô chữ:
- Hàng ngang số 1: Có 10 chữ cái: Sự đối đầu Xô-Mĩ đưa thế giới đứng trước nguy
cơ này.
- Hàng ngang số 2: Có 4 chữ cái: Tên một khối quân sự do Mĩ thiết lập.
- Hàng ngang số 3: Có 7 chữ cái: Tên của nhà du hành vũ trụ đầu tiên bay vòng
quanh Trái đất.
- Hàng ngang số 4: Có 5 chữ cái: Mĩ và các nước Đế quốc tiến hành nhiều cuộc
chiến tranh để nhằm thực hiện điều này đối với các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của các nước thuộc địa và phụ thuộc.
- Hàng ngang số 5: Có 7 chữ cái: Chính sách đối ngoại của Liên Xô.
- Hàng ngang số 6: Có 7 chữ cái: Tên của vị Tổng thống Mĩ tham dự Hội nghị
I-an-ta.
Đáp án ô chữ:

G


R

C

H

I



N

A

T

Ô

N

A

G

A

R

I


Đ

À

N

Á

P

U

Z

Ơ

V

H

O

E

N

À

N


T

R

A

B

Ì

N

H

N

H

Ô chữ hàng dọc: Hai phe.
Với ô chữ này, học sinh sẽ dễ dàng nhận biết ngay từ hàng dọc bởi vì các từ chìa
khóa đều nằm trên một đường thẳng.
2.2.5. Sử dụng trò chơi : “Nhận diện nhân vật Lịch sử ”:
a. Mục đích áp dụng:
- Giúp học sinh khắc sâu được những nhât vật lịch sử tiểu biểu của Việt Nam ở thời
kì cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, từ đó tiếp tục bồi dưỡng thêm lòng biết ơn đối với
những người anh hùng đã có công với nước, với dân.
- Giúp các em vừa học vừa chơi, tạo không khí thoải mái, thân thiện trong giờ học
ngoại khoá.
b. Sự chuẩn bị:

- Giáo viên: Máy chiếu PowerPoint, Giáo án điện tử của trò chơi
- Học sinh: Ôn tập chương trình (giáo viên cho hệ thống đề cương ôn tập) Mỗi đội
chuẩn bị 1 chiếc bảng nhỏ dùng để ghi đáp án, bút lông và phấn.
- Giáo viên cử 1 thư kí ghi chép điểm và 1 trọng tài
- GV xếp 5 đội ngồi theo hình cánh gà, mỗi đội cử 1 đội trưởng.
11


c. Tiến hành trò chơi:
* Bước 1: GV giới thiệu trò chơi
* Bước 2: GV lựa chọn đội chơi.
Chia lớp thành 5 đội, mỗi đội khoảng 5 học sinh và đặt tên cho 5 đội
Đội thứ nhất - Lê Lợi; Đội thứ hai-Trần Quốc Tuấn; Đội thứ ba- Quang Trung;
Đội thứ tư – Nguyễn Tri Phương; Đội thứ năm – Hoàng Diệu.
* Bước 3: GV quy định và phổ biến luật chơi. gồm có 3 phần:
Thời gian: 1 tiết
Phần 1: Hình ảnh (Nhìn hình ảnh đoán tên nhân vật lịch sử - 100 điểm)
+ Bao gồm có 10 hình ảnh nhân vật lịch sử, trả lời đúng mỗi hình ảnh được 10
điểm, thời gian trả lời mỗi hình ảnh là 5 giây, mỗi đội trả lời 1 lần và cùng thời điểm
(trả lời bằng cách giơ bảng nhở lên)
Phần 2: Thân thế (Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp - 200 điểm).
+ GV chọn 5 nhân vật tiêu biểu ở trên để học sinh trả lời, mỗi câu hỏi trả lời đúng
được 10 điểm bằng hình thức câu hỏi trắc nghiệm, mỗi nhân vật sẽ có 4 câu hỏi, mỗi
câu hỏi sẽ có 5 giây trả lời, mỗi đội trả lời 1 lần và cùng thời điểm.
Phần 3: Công lao (Đánh giá về công lao nhân vật - 250 điểm).
+ GV cho 5 đội lên bắt thăm nhân vật mình sẽ trả lời.
+ HS sẽ thảo luận để đánh giá công lao của nhân vật đối với lịch sử dân tộc, thời
gian thảo luận là 3 phút, sau đó các đội sẽ lần lượt trả lời theo thứ tự, nếu trả lời đúng
được 50 điểm, các đội nhận xét lẫn nhau.
*Bước 4: GV tổ chức trò chơi.

* Phần 1: Hình ảnh
+ GV kích chuật trên màn hình, nhân vật lịch sử hiện lên, ở dưới hiện lên câu hỏi ?
Đây là nhân vật nào? cứ lần lượt hết 10 nhân vật ( Nguyễn Tri Phương; Hàm Nghi;
Tôn Thất Thuyết; Phạm Bành; Phan Đình Phùng; Hoàng Hoa Thám; Phan Bội Châu;
Lương Văn Can; Phan Châu Trinh; Nguyễn Ái Quốc)
+ Học sinh trả lời
* Phần 2: Thân thế
+ GV chọn 5 nhân vật để học sinh tìm hiểu: Tôn Thất Thuyết; Phan Đình Phùng;
Hoàng Hoa Thám; Phan Bội Châu; Phan Châu Trinh
+ Mỗi nhân vật sẽ có 4 câu hỏi trắc nghiệm, với khẩu lệnh: Hãy lựa chọn một
phương án trả lời đúng nhất.
+ Nhân vật thứ nhất: Tôn Thất Thuyết
Câu 1: Ông sinh và mất năm nào?
A. 1839 – 1913. C. 1841 – 1913.
B.1840 – 1913.

D. 1842 – 1913.
12


Câu 2: Quê của ông ở đâu.
A. Thanh Hoá. C. Thuận Hoá.
B.Nghệ An.

D. Hà Tĩnh.

Câu 3: Tên tuổi của ông gắn liền với sự kiện lịch sử nào sau đây.
A. Chiến thắng Cầu Giấy lần 1.
B. Khởi nghĩa Hương Khê.


C.Tấn công kinh thành Huế.
D. Khởi nghĩa Ba Đình.

Câu 4: Vài trò tiêu biểu của ông đối với lịch sử dân tộc là gì?
A. Lãnh đạo cuộc tấn công kinh thành Huế.
B. Tham gia phong trào Đông Du.
+ 3 nhân vật còn lại tương tự các câu hỏi theo hình thức trên
* Phần 3: Công lao
+ GV cho học sinh bắt thăm nhân vật để trả lời
+ Câu hỏi: Nêu công lao to lớn của nhân vật đối với lịch sử dân tộc?
VD: Nêu công lao to lớn của Phân Bội Châu đối với lịch sử dân tộc?
2.2.6. Vận dụng tài liệu văn học để làm nổi bât, khắc sâu các sự kiện lịch sử::
* Vai trò, ý nghĩa của tài liệu văn học:
Tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông có vai trò to
lớn.
Trước hết, các tác phẩm văn học với những hình tượng cụ thể có tác động mạnh
mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc
sâu kiến thức 1 cách dễ dàng hơn.
* Văn học dân gian:
VHDG ra đời từ rất sớm và rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau như thần
thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, dân ca.... Đây là những tài liệu có giá trị,
nó phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Các loại hình văn học dân gian còn góp phần minh hoạ, làm rõ sự kiện, nhân vật
lịch sử. Do đó, giáo viên nên đưa vào để học sinh hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật
lịch sử đó Không những vậy, tài liệu văn học dân gian còn làm cho bài học sinh
động, tạo được không khí gần gũi với bối cảnh lịch sử đang học. Nó phản ánh những
hiểu biết về các sự kiện lịch sử, giúp học sinh hiểu vấn đề cụ thể rõ ràng hơn.
13



Các tác phẩm văn học có ý nghĩa rất lớn khi nhắc lại hình ảnh quá khứ. Nó làm
quá khứ của sự kiện lịch sử trở lên sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có
sức sống hơn và thu hút học sinh khi theo dõi bài giảng. Tuỳ vào diễn biến bài giảng
giáo viên có thể lồng ghép bài thơ sao cho phù hợp tiến trình bài học. Cụ thể là:
Ví dụ như: khi dạy bài 24 (lịch sử 8) cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873.
Tại mục II. Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến năm 1873.
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút ra tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”
(Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội- 1963)
Hoặc để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, 3 tỉnh miền
Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích 1 đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc
của Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ lính xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng
bộ....
.... Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen
xì, muốn ra cắn cỏ”.
.... Hoả mai đánh bằng rơm con cúc, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng
bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ....
Trong quá trình lịch sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt
Nam, cũng như thân phận của người nông dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có
thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước
đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao.... để khắc sâu hình

ảnh thân phận người nông dân trong lòng xã hội cũ.
Hoặc như trong khoá trình lịch sử 9, khi dạy bài 19: Phong trào cách mạng trong
những năm 1930 – 1935. Mục II: Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô
Viết Nghệ Tĩnh. Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo viên có thê đưa vào bài giảng
đoạn trích sau trong “Bài ca cách mạng” cụ thể là:
“.... Than ôi, nước mất nhà xiêu
Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau.
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
14


Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi....
..... Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Chiến trường một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng....”
(Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 NXB Văn học.H.1930)
Như vậy, có thể nói rằng, các tác phẩm văn học xuất hiện cùng thời kì diễn ra các
sự kiện lịch sử đã giúp học sinh thấy được “ bức tranh” sống động của lịch sử, làm
cho các em nhận thức được sự kiện đó một cách toàn diện hơn.
Nói tóm lại, việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử là một trong những
cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy sử. Thực hiện theo sơ
đồ dạy học của Đai ri, qua đó hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và nâng
cao chất lượng bộ môn trong trường phổ thông giúp học sinh cảm thấy hứng thú, yêu
thích hơn khi học tập môn lịch sử
2.2.7. Tăng cường ứng dụng CNTT trong dạy học Lịch Sử ở trường THCS.
Đặc trưng của bộ môn lịch sử là khôi phục lại cho học sinh những sự kiện lịch
sử,bức tranh lịch sử gần như nó đã tồn tại trong quá khứ. Trên cơ sở đó hình thành

các khái niệm lịch sử, từ đó giúp các em đi sâu vào bản chất của sự kiện lịch sử.
Như vậy, đối tượng học tập của bộ môn lịch sử thuộc về quá khứ, cho nên thời
gian càng lùi xa thì việc nhận thức bản chất sự kiện và hiểu sâu về sự kiện càng
khó.Thêm vào đó học sinh không thể quan sát "trực quan sinh động" đối tượng
nghiên cứu như các môn khoa học tự nhiên, giáo viên không thể làm thí nghiệm để
sống lại sự kiện,nhân vật lịch sử như đã từng tồn tại trong quá khứ.
Với đặc trưng đó của bộ môn thì việc vận dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy
thông qua các kênh hình lại là một phương pháp rất có hiệu quả, phát huy được tư
duy sáng tạo ,tích cực chủ động ở học sinh, gợi cho học sinh có sự yêu thích môn học
nay hơn.
a. Biện pháp thực hiện:
* Đối với giáo viên:
Tuy phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị một giáo án điện tử
nhưng việc dạy học bằng giáo án điện tử sẽ giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết
giảng, có thời gian thảo luận và tăng cường kiểm soát đối với học sinh. Giáo án điện
tử giúp đa dạng hoá việc cung cấp kiến thức cho học sinh, và thông qua công cụ trình
diễn giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một khối lượng hình ảnh, phim tài liệu
lịch sử liên quan đến nội dung bài học. Giờ học sẽ trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
* Đối với học sinh:
15


Môn lịch sử lại là môn học rất được chú trọng ở các nhà trường phổ thông nói
chung và trung học cơ sở nói riêng. Thông qua bài giảng, người thầy có thể giúp cho
học sinh nắm được sự phát triển của xã hội loài người, những quy luật của xã hội, sự
hưng thịnh, suy vong của một đất nước, những truyền thống lịch sử, những giá trị văn
hóa của một dân tộc hoặc là của cả thế giới. Để từ đó giáo dục cho học sinh lòng yêu
quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tiếp thu và phát huy di sản văn hóa của
nhân loại với những giá trị nhân văn truyền thống.
Để làm được điều đó, trong những năm qua chúng ta đã có nhiều chuyên đề về

thay sách giáo khoa, về phương pháp giảng dạy. Nhiều bài giảng đã kết hợp nhuần
nhuyễn các họat động của Thầy và trò, phát huy tính tích cực, sự làm việc của học
sinh, các em có hứng thú sôi nổi trong học tập. Giáo viên thì đã tái tạo lại không khí
lich sử, hướng dẫn và phân tích sâu sắc về bản chất của các sự kiện.
Tuy nhiên, chưa có một chuyên đề nào hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách
giáo khoa trong quá trình giảng dạy lịch sử, mà chủ yếu là giáo viên tự tìm tòi những
thông tin về kênh hình đó thông qua những tài liệu lịch sử hoặc từ những nguồn
thông tin khác. Điều này còn bất cập nhiều khi không thống nhất về cách hiểu.
Ngày nay, khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phải ứng dụng công
nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục
đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa
tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng
dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế.
Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp
vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại,
chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của
mình, mục đích của mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã
hội hóa học tập”.
Mặt khác, giaó dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo
cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học,
bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực
nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của Bộ giáo dục - Đào tạo và của Sở giáo dục đào tạo Quảng Bình, nhận thức được rằng, việc ứng dụng CNTT phục vụ cho việc đổi
mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất
trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chắc chắn sẽ được sử dụng rộng rãi trong
nhà trường phổ thông trong một vài năm tới, tôi đã mạnh dạn học tập và đưa CNTT
vào giảng dạy ba năm nay.

Với một số phương pháp mà bản thân đưa ra nhằm giúp các em ngày yêu thích
môn học lich sử ở trường THCS nhiều hơn. Song tùy theo điều kiện và tình hình thực
tế của từng trường học cũng như ở từng địa phương để giáo viên có thể linh động áp
dụng một trong số các biện pháp, để phát huy tính tích cực, sáng tạo, của học sinh.
16


b. Vận dụng.
Trên cơ sở đó tôi đã áp dụng phương pháp ứng dụng CNTT trong một tiết dạy cụ
thể môn Lịch sử lớp 8 ở trương THCS nơi bản thân tôi đang giảng dạy.
TIẾT 36.
BÀI 24.

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TỪ
1858 ĐÊN 1873.
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM.

A. Mục tiêu bài học :
- Giúp HS nắm được nguyên nhân và tiến trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp (Chiến sự ở Đà nẵng và Gia Định).
- Giáo dục cho các em thấy rõ bản chất tham lam, tàn bạo, hiếu chiến của chủ nghĩa
thực dân.Tinh thần bất khuất kiên cường chống ngoại xâm của nhân dân ta trong
những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược.
- Đánh giá đúng mức nguyên nhân và trách nhiệm của triều đình phong kiến trong
việc tổ chức kháng chiến.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích,nhận xét…
B. Phương tiện dạy học:
- Giáo án điện tử.
- Máy vi tính, đèn chiếu, bảng trắng.
C. Hoạt động dạy và học.

* Giới thiệu bài mới: Như chúng ta đã biết, vào thế kỉ XIX các nước tư bản phương
Tây đang trên đà đẩy mạnh việc xâm lược thuộc địa, và khu vực Đông Nam Á đã trở
thành mục tiêu xâm lược của chúng…Vậy Việt nam có tránh khỏi cuộc xâm lược đó
hay không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài học hôm nay.
1. Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858 - 1859.
Hoạt động 1: Cá nhân, nhóm.
Bước1:
- GV khái quát tình hình Việt nam vào nửa đầu thế kỉ XIX.
- Trình chiếu lược đồ Đông Nam á cuối thế kỉ XIX - Yêu cầu các em quan sát lược
đồ và kết hợp với các kiến thức đã học, thảo luận: Nguyên nhân nào dẫn đến thực dân
Pháp xâm lược Việt nam? Đâu là nguyên cớ trực tiếp?

17


Lược đồ khu vực Đông Nam Á cuối thế kỉ XX
- Sau khi HS trình bày, GV bổ sung, chốt kiến thức:
* Nguyên nhân:
- Từ giữa thế kỉ XIX,các nước tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm lược thuộc địa…
- Việt nam có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên, chế độ phong kiến suy
yếu.
* Nguyên cớ: Lấy cớ bảo vệ đạo Gia tô…
Bước 2: GV dùng kí hiệu nhấp nháy giới thiệu vị trí Đà nẵng và trên bản đồ Việt
nam và sự kiện 1/9/1858.

1/9/1958 thực dân Pháp tấn
công Đà Nẳng

18



- Yêu cầu HS thảo luận: Vì sao Thực dân Pháp lại chọn Đà Nẵng làm nơi tấn công
đầu tiên?
( T1: Đà Nẵng gần Huế -> Chiếm Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công Kinh thành Huế
-> buộc vua quan nhà Nguyễn đầu hàng.
T2: Đà Nẵng là vùng đất trù phú,dân đông -> cấp thêm lực cho Pháp tấn công Huế
và nước ta.
T3: Đà Nẵng có cửa biển sâu -> Tàu chiến Pháp dễ hoạt động.).
- Qua tìm hiểu, yêu cầu HS rút ra: Kế hoạch của thực dân Pháp khi đánh nước ta là
gì? Dựa vào đâu chúng đề ra kế hoạch như vậy?
( Dựa vào lực lượng mạnh,vũ khí hiện đại,chế độ phong kiến Việt nam đang suy
yếu…-> Pháp đề ra kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh)
* Bước 3: - GV sử dụng các hiệu ứng chuyển động tường thuật chiến sự Đà Nẵng
trên lược đồ.

- Sau khi GV tường thuật,yêu cầu HS rút ra nhận xét về chiến sự Đà Nẵng?
( Có sự phối hợp chiến đấu giữa quân và dân, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn
Tri Phương…-> Sau 5 tháng địch chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà
=> 2/1959 Pháp phải kéo quân vào Gia định).
2. Chiến sự Gia Định năm 1859.
Hoạt động 2: Cá nhân, nhóm.
19


- GV sử dụng hiệu ứng chuyển động, kết hợp với 1 đoạn fim để tường thuật
sự kiện 17/2/1859 - Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định.
- Cho HS thảo luận:
? Tại sao Thực dân Pháp lại đánh Gia Định,chứ không đánh ra Bắc kì?
( T1: Xa Trung Quốc, xa kinh đô Huế).
T2: Chiếm vựa lúa Nam Bộ, cắt nguồn lương thực của triều đình Huế.

T3: Ngược sông Cửu Long,chiếm Cao miên).
? Sau khi chiếm thành Gia Định,thực dân Pháp gặp phải khó khăn gì?
? Trước tình hình đó,thực dân Pháp đã đối phó như thế nào?
? Em hãy đánh giá về sự đối phó của nhà Nguyễn? Hậu quả?
- GV bổ sung và sử dụng lược đồ,
tranh ảnh để tường thuật tiếp
diễn biến chiến sự ở Gia Định
(1959 - 1961).

Chiến sự ở Gia Định

20


Hoạt động3:
- Yêu cầu HS nêu nội dung Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862)? Phân tích tai hại của
Hiệp ước này?
- GV sử dụng hiệu ứng trình diễn trên lược đồ, cùng với HS phân tích, giảng
giải nội dung và tai hại của Hiệp ước.

21


Hoạt động 4.
D. Củng cố .
GV sử dụng 1số bài tập trắc nghiệm, ô chữ để cho HS củng cố bài học.
2.3.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯƠC
Sau khi áp dụng đề tài, các lớp khối Sử tôi dạy đạt kết quả như sau:
Kết quả
Khối lớp


Tổng số
học sinh

Khá - Giỏi

Trung bình

Dưới trung
bình

7

94

35 %

47 %

18 %

8

117

26 %

54 %

20 %


9

118

31%

53 %

16 %

* Có được kết quả như trên, bản tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Đối với phương pháp tổ chức trò chơi: Khi tổ chức trò chơi giáo viên phải phổ
biến rõ luật chơi cho học sinh: Thành phần tham gia, thời gian, số lượng câu hỏi,
phần thưởng… Trò chơi có thể chơi vào cuối giờ học để củng cố bài học, hoặc có thể
dùng trò chơi để kiểm tra kiến thức của học sinh sau khi học xong một thời kỳ, một
giai đoạn lịch sử…
Tuy nhiên trò chơi chỉ là một phần trong tiết học để góp phần tạo hứng thú học
tập cho các em. Tránh tình trạng lạm dụng quá mức, biến giờ học thành trò chơi sẽ
làm mất thời gian và gây nên phản tác dụng. Để trò chơi thành công, đòi hỏi giáo
viên luôn phải tìm tòi, sáng tạo, chuẩn bị công phu trước khi đến lớp
Bên cạnh đó việc ứng dung CNTT vào dạy học là phương pháp dạy học mới, và
chưa được ứng dụng nhiều trong trường học nên một số học sinh chưa biết kết hợp
ghi bài, quan sát hình ảnh, và nghe giảng, bởi vậy chưa ghi chép được nhiều nội dung
kiến thức trong từng tiết học.
Nhưng tôi tin rằng, khi các trường học được đầu tư cơ sở vật chất nhiều hơn, giáo
viên và học sinh dạy- học bằng bài giảng điện tử nhiền hơn thì hiệu quả giờ học sẽ
không ngừng đựoc nâng cao.
III. PHẦN KẾT LUẬN.
22



1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và đổi mới của ngành giáo dục
nói riêng, cơ hội cho giáo viên tự rèn luyện, trau dồi chuyên môn - nghiệp vụ ngày
càng nhiều, cơ hội cho học sinh học tập cũng ngày càng được mở rộng. Điều đó đặt
ra cho mỗi thầy giáo, cô giáo phải thật sự yêu nghề, trăn trở, tìm tòi sáng tạo, phải
nắm vững kiến thức, tri thức khoa học để vận dụng linh hoạt nhuần nhuyễn trong
từng tiết học, từng lớp học, từng đối tượng học sinh.
Học sinh càng được làm nhiều bài tập với sự hướng dẫn của thầy, cô giáo, các em
càng có kỹ năng hiểu và nhớ lâu kiến thức bộ môn. Từ đó chất lượng học tập và kiểm
tra cao hơn, tránh những tiêu cực trong thi cử. Đó cũng là mục tiêu của cuộc vận
động "2 không" của Bộ giáo dục đang phát động hiện nay.
Với một số phương pháp mà bản thân đã đưa ra trong đề tài của mình, tôi đã áp
dụng trong quá trình giảng dạy, nó đã thực sự đem lại hứng thú học tập, các em học
tập sôi nổi, hiệu quả hơn. Bởi ngoài việc chơi, hơn hết là các em được ghi nhớ các
đơn vị kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gượng ép, nặng nề. “Học mà chơi, chơi
mà học”, và dần dần các em yêu thích hơn bộ môn lịch sử. Tôi hy vọng rằng với một
số giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập ở bộ môn lịch sử nói
riêng và các bộ môn khác nói chung.
Bên cạnh đó cùng với sự bùng nổ công nghệ thông tin đang tác động mạnh mẽ
vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội.Trong bối cảnh ấy, muốn
nền giáo dục phổ thông đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp
hoá đất nước, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận
dụng công nghệ thông tin và thiết bị dạy học hiện đại để phát huy mạnh mẽ tư duy,
sáng tạo; kĩ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng
đào tạo.
Đối với bộ môn lịch sử, giảng dạy bằng bài giảng điện tử với những hình ảnh fim
tư liệu sinh động sẽ làm cho bài học lịch sử sống động, gần với quá khứ hơn, học sinh
học tập say mê hơn, kiến thức lịch sử lưu giữ trong tâm trí các em lâu hơn, khó phai

mờ. Để có được những bài giảng như thế, chỉ cần người giáo viên bỏ chút thời gian
đầu tư, tìm tòi, thiết kế bài giảng thì tôi thiết nghĩ chắc người thầy giáo nào cũng sẵn
lòng.
Hơn nữa để thực hiện tốt các cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” và cuộc vận động “ Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức,
tự học sáng tạo” cùng với phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực.”. Bản thân tôi với tư cách là một giáo viên bộ môn, tôi luôn suy nghĩ tìm tòi các
phương pháp dạy học sao cho học sinh của mình có thể nắm bắt kiến thức một cách
dễ hiểu nhất, giúp các em có hứng thú với bộ môn, tránh được áp lực khi học bộ môn
này.Tôi hi vong rằng với một số phương pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất
lượng học tập ở môn lịch sử nói riêng và và các môn khác nói chung.

2. KIẾN NGHỊ.
23


Trong thực tế các trường trung học cơ sở hiện nay, việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học nói chung và môn lịch sử nói riêng còn rất chậm. Có rất nhiều
nguyên nhân: cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ tin học của giáo viên còn nhiều hạn
chế…Vì vậy tôi xin có một vài đề xuất nhỏ như sau:
1.Đối với giáo viên: Cần thực sự tâm huyết với bộ môn, đầu tư chú trọng đến chất
lượng từng tiết dạy, hệ thống kiến thức một cách khoa học, sắp xếp thời gian hợp lý
để tổ chức thực hiện một trong số các phương pháp trên trong các tiết học một cách
có hiệu quả nhất.
2. Đối với nhà trường: trong các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt chủ đề nhân kỷ
niệm các ngày lễ lớn: 22/12, 3/2, 8/3, 30/4, 19/5… nên lồng ghép một số trò chơi
như trên nhằm kiểm tra kiến thức, kích thích sự tìm tòi học hỏi, tạo ra sân chơi bổ ích
đối với mọi lứa tuổi học sinh.
3. Các trường học cần tổ chức các buổi tập huấn về tin học, cách sử dụng các
phương tiện kĩ thuật hiện đại cho giáo viên để họ thành thạo trong thiết kế, giảng dạy

giáo án điện tử.
4. Cần trang bị các phương tiện kĩ thuật hiện đại, nối mạng Internet ở các trường
học để giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy.
5. Nên thường xuyên có các buổi tập huấn chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, tổ
chức thi thiết kế giáo án điện tử để khuyến khích và đẩy mạnh phong trào ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy.
6. Đối với ngành giáo dục: Cần chú trọng phát huy các mô hình câu lạc bộ lịch
sử, ngược dòng lịch sử…trong các nhà trường để nhằm thúc đẩy quá trình dạy, học có
hiệu quả.
Bản thân với trăn trở của một người giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch Sử, tôi
xin mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình, mong góp một phần nhỏ vào thực hiện phương
pháp giúp học sinh yêu thích học môn Lịch Sử ở trường THCS hiện nay.
Trong quá trình tích lũy kinh nghiệm và viết đề tài không tránh khỏi những khiếm
khuyết, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè,
đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá, bổ sung để đề tài của tôi thêm hoàn
thiện, khả thi và có giá trị hơn nữa trong thực tiễn.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên, giáo khoa lịch sử 7 - NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên, giáo khoa lịch sử 8 - NXB Giáo dục.
3. Sách giáo viên, giáo khoa lịch sử 9 - NXB Giáo dục.
4. Tuyển tập Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 (NXB Văn học -1980).
5. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị. Phương pháp dạy học lịch sử ( NXB GD1999)
6. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng. Các triều đại Việt Nam ( NXB Thanh Niên -1995)
7. Quốc Chấn – Thần đồng xưa của nước ta ( NXB Giáo Dục - 1998)
8. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn lịch sử.

( Bộ giáo dục đào tạo - NXB Giáo dục)
9. Giáo trình tin học. ( NXB Đại học sư phạm Hà nội)
10. Công nghệ thông tin với việc đổi mới phương pháp dạy học. ( Tiến sĩ Nguyễn
Sĩ Đức - Phó vụ trưởng Vụ giáo dục TH)

25


×