Mức độ dễ dàng chuyển giao công nghệ
Tóm tắt
Trong bối cảnh thời kì công nghệ 4.0 ngày nay khi các nước đang đua nhau phát triển trên mọi
lĩnh vực đặc biệt là công nghệ, việc chuyển giao công nghệ thực sự khá dễ dàng khi mà cung cầu
về các mặt hàng khoa học công nghệ ngày càng tăng. Quan tâm đến việc khai thác có lợi nhuận
của một tài sản công nghệ thực sự rất cần thiết cho sự phát triển của một doanh nghiệp, một quốc
gia. Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam còn “hẹp”, chưa đa dạng, chuyển giao công nghệ nước
ngoài vào Việt Nam cũng ở mức “khiêm tốn”, chủ yếu là sự chuyển giao của công nghệ của công
ty mẹ ở nước ngoài. Trong xu thế hội nhập, vai trò và ảnh hưởng mạnh mẽ của khoa học công
nghệ tác động mạnh mẽ đến tập quán sản xuất của mỗi quốc gia và các doanh nghiệp buộc phải
cập nhật và thay đổi công nghệ cho phù hợp để tồn tại và phát triển. Việt Nam cũng không
“ngoại lệ” nhưng quá trình đổi mới và chuyển giao công nghệ tại nước ta đang diễn ra “chậm”,
mặc dù Luật Chuyển giao công nghệ Việt Nam được ban hành từ năm 2006. Bài viết nhằm đánh
giá mức độ dễ dàng khi chuyển giao công nghệ và các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển giao công
nghệ tại Việt Nam
1.Các khái niệm
1.1. Công nghệ
Thuật ngữ “công nghệ” xuất phát từ chữ hy lạp “techne” có nghĩa là một nghệ thuật hay một kỹ
năng, và “logia” có nghĩa là một khoa học hay một nghiên cứu.
Ở Việt Nam, trước đây thường có quan niệm cho rằng “công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa
học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lời”.
Tuy nhiên, cách phổ biến nhất hiện nay, phù hợp với các quan điểm, chính sách phát triển và
quản lý công nghệ, đó là khái niệm về công nghệ đã được quy định tại Luật Khoa học và Công
nghệ. Đó là:
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng
để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm..
1.2. Chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ: là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn
bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.
Trong đó:
- Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ: là việc chủ sở hữu công nghệ chuyển giao toàn bộ quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt công nghệ cho tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp
công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sở
hữu công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo
quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
- Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ: tổ chức, cá nhân cho phép tổ chức, cá nhân khác sử
dụng công nghệ của mình.
Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận bao gồm:
+ Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;
+ Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng công nghệ cho bên thứ
ba;
+ Lĩnh vực sử dụng công nghệ;
+ Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến công nghệ;
+ Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao
tạo ra;
+ Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra;
+ Các quyền khác liên quan đến công nghệ được chuyển giao.
Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao
quyền sử dụng công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
2. Các phương thức chuyển giao công nghệ
- Chuyển giao tài liệu về công nghệ.
- Đào tạo cho bên nhận công nghệ nắm vững và làm chủ công nghệ trong thời hạn thỏa thuận.
- Cử chuyên gia tư vấn kỹ thuật cho bên nhận công nghệ đưa công nghệ vào ứng dụng, vận hành
để đạt được các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, tiến độ theo thỏa thuận.
- Chuyển giao máy móc, thiết bị kèm theo một trong các công nghệ sau đây:
+ Bí quyết kỹ thuật, bí quyết công nghệ;
+ Phương án, quy trình công nghệ; giải pháp, thông số, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật; công thức, phần
mềm máy tính, thông tin dữ liệu;
+ Giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ;
3. Thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
Trong điều kiện Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế thế giới, ảnh hưởng của khoa học và
công nghệ trong phát triển có vai trò quan trọng.
Bên cạnh đó, toàn cầu hóa cũng đang tác động mạnh mẽ đến sản xuất, chất lượng sản phẩm của
mỗi quốc gia nên buộc các doanh nghiệp phải thay đổi, cải tiến, thúc đẩy chuyển giao công nghệ
để tồn tại và phát triển.
Nhưng thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam đang “chậm” và “èo uột”
*Chuyển
biến
“chậm”
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2006-2016, kết quả điều tra thực trạng
chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đã diễn ra nhưng vẫn còn ở mức “chậm”, chưa được như kỳ
vọng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước.
Hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chưa đạt được kết quả như mong muốn, điều này
thể hiện ở tỉ lệ "hạn chế" các kết quả nghiên cứu đưa vào ứng dụng trong thực tiễn, số lượng và
giá trị các hợp đồng chuyển giao công nghệ còn ít, chưa có nhiều doanh nghiệp quan tâm, đầu tư
cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
Do vậy, hoạt động chuyển giao công nghệ chưa mang lại hiệu quả rõ nét trong việc nâng cao
năng
lực
công
nghệ
cho
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam.
Ông Michael Braun, Chuyên gia khoa học và đổi mới công nghệ Đức hiện công tác tại Việt Nam,
người từng có nhiều năm kinh nghiệm tư vấn chuyển giao công nghệ cho Đức và Châu Âu cho
rằng, các dòng chuyển giao công nghệ tại Việt Nam còn “hẹp”, chưa đa dạng, chuyển giao công
nghệ nước ngoài vào Việt Nam cũng ở mức “khiêm tốn”, chủ yếu là sự chuyển giao của công
nghệ giữa công ty mẹ ở nước ngoài và các chi nhánh tại Việt Nam thông qua các dự án FDI.
Các doanh nghiệp trong nước chưa chú trọng đến trình độ, nguồn công nghệ cũng như cơ hội
kinh doanh tại nước ngoài nên hoạt động chuyển giao công nghệ “èo uột”.
Bên cạnh đó, hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam về đổi mới, nghiên cứu và triển khai
(R&D) ở mức thấp, khi chỉ khoảng hơn 5% doanh nghiệp có cơ sở R&D riêng, gần 7% doanh
nghiệp đang triển khai các hoạt động nghiên cứu và tiếp nhận công nghệ, nhiều doanh nghiệp
tiếp nhận công nghệ nhưng không có cơ sở R&D.
Điều này cho thấy gần 80% các doanh nghiệp Việt Nam không có R&D hoặc không có các chiến
lược tiếp cận công nghệ nên hoạt động chuyển giao công nghệ của Việt Nam diễn ra “chậm”.
Theo số liệu thống kê của Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ năm 2016, các tổ chức dịch vụ
chuyển giao khoa học và công nghệ chủ yếu tập trung ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, còn
các khu vực miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có “rất ít” các tổ
chức
cung
cấp
dịch
vụ
chuyển
giao
công
nghệ.
Cũng theo ông Michael Braun, công nghệ là động lực phát triển, Việt Nam là nước đi sau nhiều
nước trong hoạt động chuyển giao công nghệ vì vậy cần có chiến lược để bắt nhịp với công nghệ
trên thế giới, tránh bị tụt hậu về công nghệ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Ông Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công
nghệ khẳng định: Những năm gần đây, hoạt động chuyển giao công nghệ đã có bước phát triển
mạnh mẽ hơn.
Theo kết quả điều tra thực tế, nhiều doanh nghiệp đã “ý thức” hoạt động chuyển giao công nghệ
và nhu cầu chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp đã tăng nhưng nguồn đầu tư tài chính cho
đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm còn “hạn
hẹp” nên khó khăn trong việc thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ.
Đáng chú ý, những năm gần đây, thông qua hội chợ công nghệ, kết nối cung – cầu, hoạt động
chuyển giao công nghệ có sự “khởi sắc”.
4. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ dễ dàng hơn ở Việt Nam
4.1. Hoạt động thúc đẩy dịch vụ chuyển giao công nghệ để hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay tại Việt
Nam
Ông Tạ Việt Dũng, Cục trưởng Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công
nghệ cho biết: Dịch vụ chuyển giao công nghệ nhằm hỗ trợ quá trình tìm kiếm, giao kết và thực
hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ với cách loại hình như: Môi giới chuyển giao công nghệ,
tư vấn chuyển giao công nghệ, đánh giá công nghệ, định giá công nghệ, giám định công nghệ,
xúc
tiến
chuyển
giao
công
nghệ.
Hiện nay, các tổ chức cung cấp dịch vụ chuyển giao công nghệ gồm các đơn vị sự nghiệp công
lập và các đơn vị ngoài nhà nước có chức năng chủ yếu là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho
hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Cùng với đó là hoạt động liên quan đến sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đánh giá, định giá, giám định
công nghệ; dịch vụ về thông tin, thống kê khoa học và công nghệ, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng,
phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Giai đoạn 2003-2016, các đơn vị trung gian chuyển giao công nghệ có thể cung ứng nhiều dịch
vụ cùng lúc cho khách hàng, doanh nghiệp như: Tư vấn, môi giới và xúc tiến chuyển giao công
nghệ, đánh giá và định giá công nghệ.
Trong đó, dịch vụ chuyển giao công nghệ do các đơn vị trung gian cung cấp thì môi giới chuyển
giao công nghệ chiếm tới gần 80%, dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ hơn 70%; dịch vụ xúc
tiến chuyển giao công nghệ hơn 60%, còn các dịch vụ giám định, định giá công nghệ ở mức
khiêm tốn chưa đến 30%.
Các tổ chức thực hiện dịch vụ chuyển giao công nghệ chính là cầu nối để đẩy nhanh quá trình
chuyển giao công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế.
4.2. Các kênh chuyển giao công nghệ thực tế tại doanh nghiệp
Đối với các nước đang phát triển, chuyển giao công nghệ được coi là một giải pháp quan trọng
để doanh nghiệp có thể cải tiến công nghệ và tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, nhờ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo đó, chuyển giao công nghệ có thể thu được dưới nhiều hình
thức: thông qua chuyển giao kiến thức về quy trình sản xuất tốt hơn hay thông qua mua sắm máy
móc, thiết bị tiên tiến hơn. Công nghệ có thể được chuyển giao qua nhiều kênh: trực tiếp qua
mua máy móc, thiết bị để được chuyển giao quy trình sản xuất hay gián tiếp qua liên kết ngang,
liên kết xuôi, liên kết ngược và qua lan tỏa kỹ năng nhờ di chuyển lao động giữa các doanh
nghiệp. chuyển giao công nghệ gián tiếp thường được kỳ vọng đến từ sự tương tác với các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài hay khách hàng quốc tế, qua đó khuyến khích chuyển giao công nghệ
tới các doanh nghiệp trong nước. chuyển giao công nghệ gián tiếp còn được gọi là lan tỏa công
nghệ.
Chuyển giao công nghệ thông qua liên kết xuôi thường đến từ sự tương tác giữa doanh nghiệp ở
trong nước với các nhà cung cấp đầu vào, hàng hóa trung gian nước ngoài. Bằng việc mua đầu
vào từ doanh nghiệp nước ngoài có trình độ công nghệ cao hơn và kèm theo dịch vụ hoặc các
hình thức hỗ trợ khác, các doanh nghiệp trong nước sẽ được chuyển giao kiến thức, quy trình và
công nghệ.
Chuyển giao công nghệ thông qua liên kết ngược luôn được các nước đang phát triển rất quan
tâm và là một mục tiêu quan trọng của chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà
Việt Nam không phải là ngoại lệ. Qua liên kết ngược, doanh nghiệp trong nước kỳ vọng sẽ được
chuyển giao kiến thức, quy trình và công nghệ mới để nâng cao tiêu chuẩn chất lượng đầu vào,
hàng hóa trung gian cung cấp cho khách hàng.
Chuyển giao công nghệ theo liên kết ngang về bản chất là sự học hỏi kiến thức, quy trình, công
nghệ từ đối thủ cạnh tranh đến từ trong và ngoài nước, phần lớn đối với doanh nghiệp trong nước
cùng ngành. Trước áp lực cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước phải cải tiến công nghệ qua
học hỏi từ đối thủ và đổi mới công nghệ.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển giao công nghệ
5.1. Nhu cầu của thị trường với dịch vụ chuyển giao công nghệ
Xuất phát từ nhu cầu chuyển giao công nghệ và nhận thức ngày càng cao của bên giao và bên
nhận công nghệ về vai trò của các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ, những năm gần đây,
nhu cầu của thị trường đối với các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ đã hình thành tương
đối rõ nét. Theo kết quả khảo sát, trong số 200 đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp có hoạt
động chuyển giao công nghệ, có 87,5% cho biết có nhu cầu đối với ít nhất một (hoặc nhiều) dịch
vụ chuyển giao công nghệ (tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao công nghệ; đánh giá, định giá,
giám định công nghệ). Kết quả khảo sát với các đối tượng là chủ sở hữu, tác giả công nghệ cũng
cho thấy, có đến 89,0% đối tượng được hỏi cần hỗ trợ của các đơn vị cung cấp dịch vụ chuyển
giao công nghệ. Như vậy, có thể thấy các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ có tiềm năng
phát triển rất lớn.
5.2. Chất lượng các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ
Nhìn chung, dịch vụ chuyển giao công nghệ ở nước ta cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn
trong quá trình hình thành và phát triển. Quy mô các đơn vị cung cấp dịch vụ chuyển giao công
nghệ còn nhỏ, thiếu các trung tâm dịch vụ chuyển giao công nghệ lớn và uy tín; điều kiện về cơ
sở vật chất, tài chính phục vụ các hoạt động nghiệp vụ chưa đảm bảo; hiệu quả sử dụng các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn
thấp... Đặc biệt, vẫn thiếu các hình thức liên kết thành những mạng lưới... Chính sự thiếu liên kết
này đã gây ra những lãng phí đáng tiếc, ví dụ như lãng phí cơ sở dữ liệu thông tin từ các kho
thông tin KH&CN trên toàn quốc. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn, môi giới,
đánh giá, định giá, giám định công nghệ, dặc biệt là các chuyên gia đầu ngành còn thiếu và yếu.
Việc nâng cao số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho dịch vụ chuyển giao công nghệ không
thể thực hiện trong thời gian ngắn mà đòi hỏi nhiều thời gian và tâm sức cũng là những thách
thức không nhỏ cho việc phát triển nền KH&CN nước nhà. Ngoài ra, cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế.
5.3. Cơ chế, pháp luật
Khảo sát đối tượng là cán bộ quản lý công nghệ tại các địa phương cũng cho thấy, khó khăn
trong phát triển dịch vụ chuyển giao công nghệ hiện nay chủ yếu xuất phát từ quy mô thị trường
công nghệ nước ta còn nhỏ; chi phí cho các dịch vụ chuyển giao công nghệ cao so với năng lực
tài chính của doanh nghiệp tiếp nhận; chưa có những hỗ trợ cần thiết cho đơn vị cung cấp dịch
vụ chuyển giao công nghệ; các đơn vị cung cấp dịch vụ chuyển giao công nghệ chưa chủ động
tiếp cận cơ quan quản lý trong quá trình hoạt động và tiếp cận thị trường; khung pháp lý về phát
triển dịch vụ chuyển giao công nghệ chưa đầy đủ, đồng bộ...
Trong công tác quản lý nhà nước về dịch vụ chuyển giao công nghệ hiện cũng gặp phải rất nhiều
khó khăn. Trong đó điển hình là những khó khăn trong việc quản lý kiểm định, giám định, định
giá công nghệ; thiếu các hoạt động hỗ trợ về đánh giá, cảnh báo công nghệ; tính liên kết giữa các
đơn vị cung cấp dịch vụ chuyển giao công nghệ với nhau và với cơ quan quản lý chưa cao; thiếu
nguồn nhân lực quản lý và phát triển dịch vụ chuyển giao công nghệ; chưa có chế tài phù hợp đối
với những vi phạm trong các dịch vụ chuyển giao công nghệ; chưa đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ
của chủ thể quyền. Bên cạnh đó, việc quản lý đối với các dịch vụ chuyển giao công nghệ còn
nhiều rào cản pháp lý như: Thiếu các văn bản dưới luật điều chỉnh về các dịch vụ chuyển giao
công nghệ; Luật chuyển giao công nghệ 2006 đã xuất hiện nhiều bất cập trong quá trình thực
hiện; chưa có các kênh giải quyết hiệu quả các tranh chấp liên quan đến dịch vụ chuyển giao
công nghệ; chưa có các bảo đảm pháp lý cho các chủ thể tham gia dịch vụ chuyển giao công
nghệ; Luật Sở hữu trí tuệ liên quan đến chuyển giao công nghệ chưa phù hợp, chưa đi vào cuộc
sống.
5.4. Chính sách hỗ trợ của chính phủ
Theo Nghị định 76/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Chuyển giao công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp có dự án thuộc ngành, nghề ưu đãi
đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư nhận chuyển giao công nghệ từ tổ chức khoa học và công nghệ.
Cụ thể, để được hỗ trợ doanh nghiệp phải đáp ứng 3 điều kiện: 1- Có dự án thuộc ngành, nghề ưu
đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của luật đầu tư; 2- Có hợp đồng chuyển giao công
nghệ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ (nếu thuộc đối tượng phải đăng ký
chuyển giao công nghệ); 3- Công nghệ được chuyển giao thuộc dự án quy định tại (1) nêu trên.
Hình thức hỗ trợ là cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay để thực hiện chuyển giao
công nghệ; hỗ trợ kinh phí thông qua thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ hoặc hỗ trợ trực
tiếp.
Nội dung hỗ trợ đối với hỗ trợ kinh phí thông qua thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
hoặc hỗ trợ trực tiếp để phục vụ hoạt động cải tiến, đổi mới công nghệ, sử dụng tối đa hiệu suất;
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm trong quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ bao
gồm: Được ưu tiên đưa vào danh mục nhiệm vụ tuyển chọn, giao trực tiếp và được hỗ trợ theo
quy định của chương trình, quỹ thông qua nhiệm vụ khoa học và công nghệ; được hỗ trợ thuê
chuyên gia tư vấn phục vụ đánh giá hiệu chỉnh thiết bị, quy trình công nghệ, dây chuyền sản
xuất; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ cho doanh nghiệp đối
với hỗ trợ trực tiếp.
Về mức hỗ trợ, ngoài hưởng các ưu đãi đối với ngành, nghề ưu đãi đầu tư và địa bàn đầu tư theo
quy định của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp được hưởng mức hỗ trợ áp dụng theo quy định
hiện hành đối với nguồn kinh phí hỗ trợ được bố trí từ các chương trình khoa học và công nghệ
cấp quốc gia; quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nguồn ngân sách nhà nước dành
cho khoa học và công nghệ và kinh phí huy động từ các nguồn hợp pháp khác.
Được hỗ trợ tối đa 2%/năm lãi suất vay từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, quỹ phát triển khoa
học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương đối với khoản vay thực hiện chuyển giao công nghệ trong dự án.
Ngoài ra, được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo quy định của các quỹ, tổ chức tín dụng cho vay
ưu đãi đối với khoản vay thực hiện chuyển giao công nghệ trong dự án.
5.5. Một số hoạt động dịch vụ chuyển giao công nghệ ở Việt Nam hiện nay
Về các loại hình tổ chức hoạt động dịch vụ chuyển giao công nghệ, ở nước ta hiện nay, có các tổ
chức có chức năng và nhiệm vụ về đánh giá công nghệ, thẩm định giá định giá, giám định công
nghệ, tổ chức môi giới tư vấn chuyển giao công nghệ, các Trung tâm xúc tiến chuyển giao công
nghệ, các Sàn giao dịch công nghệ, 63 Trung tâm ứng dụng và phát triển công nghệ tại các địa
phương, các vườn ươm công nghệ và DN KH&CN. Bên cạnh đó, còn có các sự kiện hỗ trợ quá
trình chuyển giao công nghệ như: chợ công nghệ, thiết bị (Techmart), kết nối cung cầu công
nghệ (Techdemo), ngày hội khởi nghiệp công nghệ cũng đã tạo được hiệu ứng tích cực đối với
thị trường KH&CN trong nước...
5.6 Nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay
Tổng số nhân lực trong 1.513 tổ chức KH&CN của cả nước là 60.543 người, đạt 7 người/1vạn
dân. Trong đó, số người có trình độ tiến sĩ là 5.293 người (8,74%), trình độ thạc sĩ là 11.081
người (18,30%), trình độ đại học là 28.689 người (47,39%) và trình độ từ cao đẳng trở xuống là
15.480 người (25,57%). Số lượng này được phân bổ theo 5 lĩnh vực: khoa học xã hội và nhân
văn; khoa học tự nhiên; khoa học nông nghiệp; khoa học y, dược; khoa học kỹ thuật và công
nghệ. Trong tổng số 60.543 người, 6.420 người thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn,
chiếm 10,6%; 4.460 người thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, chiếm 7,4%; 15.302 người thuộc
lĩnh vực khoa học nông nghiệp, chiếm 25,3%; 6.548 người thuộc lĩnh vực khoa học y, dược,
chiếm 10,8%; và 27.813 người thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, chiếm 45,9%
Hiện nay, đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ ở các viện nghiên cứu còn nhiều bất cập do số cán
bộ có trình độ cao chuyển sang các công việc khác có thu nhập cao hơn, trong khi số cán bộ mới
tuyển vào chủ yếu là sinh viên mới ra trường, chưa có kinh nghiệm nghiên cứu]. Đồng thời, tuổi
đời của các cán bộ nghiên cứu khoa học hiện tại là khá cao. Theo điều tra của Bộ Khoa học và
Công nghệ, hầu hết đội ngũ cán bộ có học hàm giáo sư, phó giáo sư có độ tuổi trên và gần đủ 60
tuổi, số người có độ tuổi dưới 50 tuổi chỉ chiếm 12%. Hơn 10.000 người có học vị tiến sĩ, nhưng
trình độ so với chuẩn quốc tế còn rất thấp và chỉ có khoảng 25% cán bộ có thể sử dụng thành
thạo tiếng Anh, Việt Nam đặc biệt thiếu các chuyên gia và các tổng công trình sư . Trong thực tế,
nhiều địa phương còn thiếu cả về số lượng và chất lượng đội ngũ nhà khoa học (trên 90% số tổ
chức KH&CN có số nhân lực dưới 30 người, trong đó có nhiều tổ chức có số nhân lực dưới
10người). Các nhà khoa học tập trung nhiều ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, đội ngũ nhà khoa học và công nghệ của nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học, công
nghệ bước đầu hình thành gắn kết với nhà khoa học. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng
lên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đội ngũ nhà khoa học và công nghệ đã
bộc lộ một số yếu kém về năng lực nghiên cứu, chưa thực sự đóng vai trò là lực lượng then chốt
và nền tảng cho quá trình phát triển đất nước. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần
tiếp tục hoàn thiện pháp luật, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách về tổ chức và
hoạt động khoa học công nghệ theo tinh thần của Hiến pháp và các văn kiện của Đảng; đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; tích cực đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng
dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ; phát huy tự do tư tưởng trong hoạt
động nghiên cứu, sáng tạo của các nhà khoa học.
Tham khảo:
1. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam
2. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Tổng cục Thống kê và Đại học Copenhagen:
Báo cáo Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ DN tại Việt Nam: kết quả điều tra các năm
2011, 2012, 2013 và 2014. Nhà xuất bản Tài chính. Hà Nội.
3. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Tổng cục Thống kê và Đại học Copenhagen:
Công nghệ và năng lực cạnh tranh ở cấp độ DN tại Việt Nam: Bằng chứng từ các cuộc điều tra
DN từ năm 2010-2014. Nhà xuất bản Tài chính. Hà Nội.
4. Thu Hà/TTXVN (2017). Thực trạng chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
5. TS Nguyễn Thị Tuệ Anh (2015). Chuyển giao công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam.
Tạp chí khoa học và công nghệ Việt Nam, 9, 60-64
6. Tạp chí khoa học và công nghệ Việt Nam, số 6/2017, 10-12
7. Chí Kiên (2018). Hỗ trợ doanh nghiệp nhận chuyển giao công nghệ. Báo điện tử chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
8. Đỗ Tuấn Thành (2018). Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí
khoa học và xã hội, 1