Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khai thác các giá trị văn hóa truyền thống lễ hội đình làng An Biên vào giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 131 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

BÙI THỊ NAM

KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG AN BIÊN
VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN TỐ
QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HẢI PHÒNG – 2018


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

BÙI THỊ NAM


KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG AN BIÊN
VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN TỐ
QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC
MÃ SỐ: 8.140101

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Quốc Tuấn

HẢI PHÒNG – 2018


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn với đề tài “Khai thác các giá trị văn hóa
truyền thống Lễ hội đình làng An Biên vào giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh lớp 5 Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ
ai. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 19 tháng 8 năm 2018
Tác giả

Bùi Thị Nam



4
LỜI CÁM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, Luận văn với đề tài “Khai thác các giá
trị văn hóa truyền thống Lễ hội đình làng An Biên vào giáo dục đạo đức, lối
sống cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố, quận Lê Chân,
thành phố Hải Phòng” của tôi đã hoàn thành.
Tôi xin trân trọng gửi lời cám ơn đến các thầy, cô giáo Khoa Giáo dục
Tiểu học, Khoa Sau đại học trường Đại học Hải Phòng với tình cảm và lòng
biết ơn sâu sắc. Đặc biệt là TS. Trần Quốc Tuấn là người đã tận tình chỉ dẫn,
động viên, khuyến khích tôi hoàn thành đề tài.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban giám hiệu, các thầy, cô
giáo, các em học sinh, đặc biệt là các em học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Nguyễn Văn Tố, quận Lê Chân, Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình điều tra, khảo sát, thu thập các số liệu cần thiết phục vụ công tác
thực nghiệm sư phạm và hoàn thành Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban quản lý đình An Biên, Đền Nghè đã giúp
đỡ, cung cấp tài liệu để tôi hoàn thành Luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, người thân, đồng nghiệp đã
động viên, khuyến khích và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn.
Hải Phòng, ngày 19 tháng 8 năm 2018
Tác giả

Bùi Thị Nam


5
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………………......i
LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………...ii

MỤC LỤC…………………………………………………………………...iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT…………………………………………….…..iv
DANH MỤC BẢNG……….……………………………………………...….v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ...….………………………………………………...vi
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI…………………………………………..7
1.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………...7
1.1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa truyền thống………………………..7
1.1.2. Cơ sở lí thuyết của giáo dục học và giáo dục đạo đức cho học sinh
tiểu học…………………………………………………………………….13
1.1.3. Mối tương tác giữa văn hóa và giáo dục…………………………..23
1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………..27
1.2.1. Lễ hội và sự hình thành, ý nghĩa của lễ hội truyền thống……………..27
1.2.2. Văn hóa truyền thống địa phương thông qua hoạt động lễ hội làng
của người dân phường An Biên………………………………………….30
1.2.3. Nội dung giáo dục văn hóa truyền thống và giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh trong chương trình tiểu học …………………………………...32
1.3. Thực trạng khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong giáo dục đạo
đức, lối sống cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố….....33
1.3.1. Khái quát quá trình điều tra………………………………………..33
1.3.2. Kết quả điều tra…………………………………………………….34
Tiểu kết chương 1…………………………………………………………36


6
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN VĂN
TỐ THÔNG QUA VIỆC KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐÌNH LÀNG AN BIÊN…………...37

2.1. Vài nét về quận Lê Chân………………………………………………..37
2.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên……………………………………...37
2.1.2. Dân cư, kinh tế, xã hội………………………………………………...37
2.1.3. Không gian văn hóa, xã hội…………………………………………...38
2.2. Lễ hội và các giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống đình làng An Biên có
ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành đạo đức, lối sống học sinh trường tiểu
học trường tiểu học Nguyễn Văn Tố………………………………………...39
2.2.1. Lễ hội đình làng An Biên……………………………………………..39
2.2.2. Các giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội…………………………...49
2.3. Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh lớp 5
trường tiểu học Nguyễn Văn Tố thông qua khai thác các giá trị văn hóa truyền
thống trong Lễ hội đình làng An Biên……………………………………….53
2.3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp giáo dục……………………………..53
2.3.2. Một số biện pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh lớp 5 trường
tiểu học Nguyễn Văn Tố, quận Lê Chân……………………………………55
Tiểu kết chương 2……………………………………………………..…..61
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………………………62
3.1. Mục đích và yêu cầu của thực nghiệm………………………………….62
3.1.1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………..….62
3.1.1. Yêu cầu của thực nghiệm………………………….………………….62
3.2. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm………………………………………...62
3.3. Nội dung thực nghiệm…………………………………………………..62
3.4. Thời gian thực nghiệm………………………………………………….63
3.5. Phương pháp thực nghiệm………………………………………………63
3.6. Kết quả thực nghiệm……………………………………………………64


7
3.7. Kết luận chung về thực nghiệm…………………………………………67
Tiểu kết chương 3………………………………………………………....69

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………….70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


8

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU

Từ viết tắt

Giải thích

CBQL

Cán bộ quản lý

CBGV

Cán bộ giáo viên

ĐC

Đối chứng

GD

Giáo dục

GD&ĐT


Giáo dục và Đào tạo

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

TCDG

Trò chơi dân gian

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TN
UBND

Thực nghiệm
Ủy ban nhân dân



9

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

Kết quả xếp loại học lực môn Đạo đức của lớp thực
3.1

nghiệm và lớp đối chứng năm học (2016 - 2017)

64

Kết quả xếp loại học lực môn Đạo đức của lớp thực
3.2

nghiệm và lớp đối chứng

65

Kết quả xếp loại học lực môn Đạo đức của lớp thực
3.3

nghiệm và lớp đối chứng sau thực nghiệm


66

So sánh kết quả kiểm tra trước thực nghiệm và sau
3.4

thực nghiệm của lớp đối chứng

66

So sánh kết quả kiểm tra trước thực nghiệm và sau
3.5

thực nghiệm của lớp thực nghiệm

67


10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hải Phòng là thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố duyên hải
nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình thuộc đồng bằng sông Hồng, phía
Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải
Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình và phía Đông là biển Đông với
đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa sông lớn là Bạch Đằng, Cửa Cấm,
Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình.
Hải Phòng nổi tiếng là một cảng biển lớn nhất ở miền Bắc, đầu mối
giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng
không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của thủ đô Hà Nội và các
tỉnh phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng của Vùng Kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ và cả nước.
Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, với vị trí địa lý và điều kiện
tự nhiên thuận lợi như vậy, Hải Phòng xưa và nay luôn là vùng đất đầu sóng,
ngọn gió, có vị trí chiến lược trong toàn bộ lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta. Chính những thăng trầm của lịch sử đã tạo nên con
người Hải Phòng có tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, kiên cường với tinh
thần kiên trung, khí phách hiên ngang của Nữ tướng Lê Chân, của các chiến
thắng trên sông Bạch Đằng Ngô Quyền năm 938, Lê Hoàn năm 981, Trần
Hưng Đạo năm 1288...
Các chiến tích đó gắn với rất nhiều di tích lịch sử, lưu truyền bao đời
nay, để lại cho hậu thế nhiều công trình văn hoá, nghệ thuật có giá trị. Đặt
chân đến bất cứ nơi đâu trên đất Hải Phòng, chúng ta cũng bắt gặp các di
tích, các lễ hội gắn với những truyền thuyết, huyền thoại về lịch sử oanh liệt
chống ngoại xâm của nhân dân ta. Các di tích lịch sử, kiến trúc đều có giá trị
về văn hóa, lịch sử được xếp hạng cấp Quốc gia: đình Hàng Kênh, đình
Đông An, đình Dư Hàng, đình Từ Vũ, chùa Phổ Minh, chùa Vẽ, chùa
Hàng,… Trong số đó không thể không kể đến đình An Biên, đền Nghè là


11
các di tích lịch sử, văn hóa có dấu ấn đậm nét nhất với những lễ hội truyền
thống với các hoạt động văn hoá đặc sắc được gìn giữ và lưu truyền đến
ngày nay. Đó là nơi nhân dân tôn thờ nữ tướng Lê Chân - một vị tướng tài,
sắc vẹn toàn, người khai sinh ra trấn Hải Tần phòng thủ, tiền thân của thành
phố Hải Phòng ngày nay.
Trong sự phát triển chung của giáo dục, đào tạo cả nước, thành phố
Hải Phòng luôn là địa phương dẫn đầu về chất lượng. Trong đó, giáo dục
đào tạo quận Lê Chân với bề dày gần 20 năm dẫn đầu công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi khối Trung học cơ sở và khối Tiểu học. Trường tiểu học
Nguyễn Văn Tố là một trong những trường có đóng góp không nhỏ vào bề

dày thành tích chung của giáo dục và đào tạo quận, thành phố. Trong những
năm qua, nhà trường luôn chú trọng phát triển giáo dục toàn diện, giữ vững
chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn. Bên cạnh việc thực hiện giảng
dạy các môn học, nhà trường chú trọng giáo dục cho học sinh đạo đức, lối
sống, kỹ năng sống, ý thức trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng
đồng. Một trong những nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường là việc khai thác
các giá trị văn hóa truyền thống địa phương vào giảng dạy giáo dục đạo đức,
lối sống cho học sinh. Việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hoá địa
phương cho học sinh trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố là rất cần thiết. Bởi
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp sẽ là những hạt giống tốt nảy nở
trong tâm hồn trẻ thơ, giúp học sinh có tình cảm tự hào, tôn trọng, gìn giữ
các công trình văn hoá cổ, các giá trị văn hoá phi vật thể và đồng thời có các
hành vi và việc làm nhằm gìn giữ các giá trị văn hóa tốt đẹp ấy. Đây chính là
lý do mà tác giả lựa chọn đề tài: “Khai thác các giá trị văn hóa truyền
thống Lễ hội đình làng An Biên vào giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh lớp 5 Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố, quận Lê Chân, thành phố
Hải Phòng.”
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Giáo dục đạo đức, lối sống cho HS là con đường để thực hiện mục tiêu giáo


12
dục. Trong quá trình giáo dục, HS đóng vai trò chủ thể, việc giáo dục không
chỉ diễn ra trong trường học, lớp học mà còn phải thực hiện ngoài trường,
ngoài lớp theo phương thức kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường, xã hội
thông qua các hình thức: vui chơi, dã ngoại, tham quan, du lịch, trải nghiệm,...
J. A Kômenki (1952-1670) đã quan tâm đặc biệt đến việc kết hợp học
tập trên lớp và hoạt động ngoài lớp nhằm giải phóng hình thức học “giam
hãm trong 4 bức tường” của hệ thống nhà trường thời trung cổ. Ông nói: “Học
tập không phải là lĩnh hội kiến thức trong sách vở mà lĩnh hội kiến thức từ

mặt trời, mặt đất, từ cây sồi, cây dẻ”.
C.Mác và F.Anghen xác định mục đích của nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa là phải tạo ra “Con người phát triển toàn diện”. Phương thức giáo dục
hiện đại là phải theo “Phương thức giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”.
Bài viết của tác giả Ngyễn Dục Quang đề cập đến đổi mới nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo
dục quốc tế cho HS qua ngoài giờ lên lớp.
Di tích lịch sử đình làng An Biên và đền Nghè và tọa lạc trên địa bàn
phường An Biên, quận Lê Chân là một di sản văn hoá của thành phố, của đất
nước, nơi bảo tồn nhiều nếp sinh hoạt cổ lành mạnh, góp phần làm phong phú
kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể của người Hải Phòng cần được gìn giữ
và bảo tồn.
Trong Một số di sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng đã nêu rõ những
nét đẹp kiến trúc và các giá trị văn hóa lịch sử của công trình kiến trúc này.
Trong cuốn Thành Hoàng làng Hải Phòng, Nxb. Từ điển Bách Khoa,
Hà Nội do Nguyễn Đức Giang, Trịnh Minh Hiên, Đồng Hồng Hoàn sưu tầm
và biên soạn cũng đã giới thiệu đây là công trình kiến trúc cổ mang ý nghĩa
lịch sử, có giá trị lớn cần được bảo tồn của thành phố, là điểm đến tham quan,
chiêm bái của nhiều thế hệ người dân Hải Phòng nói riêng và của nhân dân
khắp nơi trong cả nước nói chung.
Một số công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho HS như Đề tài


13
Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh tiểu học của TS. Đặng Thị Phương
Phi về chủ đề này đưa ra nhiều biện pháp giáo dục hiệu quả, thiết thực.
Trong Báo cáo tổng kết nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ, Viện
Khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội (2014) Giáo dục giá trị văn hóa truyền
thống trong nhà trường phổ thông Việt Nam do GS.TS. Nguyễn Thị Hoàng Yến
là chủ nhiệm đề tài đã có các nghiên cứu, tổ chức rà soát, khảo sát về tình hình

thực hiện giáo dục văn hóa truyền thống cho học sinh trong một số nhà trường
hiện nay và đưa ra quan điểm về tích hợp giáo dục văn hóa truyền thống trong
một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp đối với các bậc học tiểu học,
THCS và THPT ở một số tỉnh có nhiều đặc trưng văn hóa truyền thống dân tộc.
Các tác giả đều bày tỏ quan điểm giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh là vấn đề được chú trọng và quan tâm. Các tác giả đã nghiên cứu sâu về
các nội dung giáo dục cho học sinh, tập trung nhiều vào các phương pháp
thực hiện, trao đổi một số kinh nghiệm giáo dục đạo đức, lối sống và kể tên
một số công trình kiến trúc nghệ thuật, lễ hội văn hóa. Tuy nhiên các tài liệu
chưa đi sâu vào việc khai thác các các giá trị văn hoá truyền thống vào giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh tiểu học. Cụ thể chưa có ai nghiên cứu về
vấn đề khai thác các giá trị văn hoá truyền thống lễ hội đình làng An Biên vào
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố
cũng như các trường tiểu học trong địa bàn thành phố Hải Phòng. Luận văn
của tác giả sẽ đề cập đến mối liên hệ giữa các giá trị văn hóa truyền thống của
lễ hội đình làng An Biên với giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp 5. Nghiên
cứu này có tính thiết thực, cấp thiết nhằm phát huy, bảo tồn giá trị văn hóa
của các công trình kiến trúc cổ và các giá trị tốt đẹp của lễ hội truyền thống
thông qua giáo dục đạo đức, lối sống. Tác giả sẽ khai thác các giá trị văn hóa
truyền thống của lễ hội đình làng An Biên vào giáo dục đạo đức, lối sống cho
HS Trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố để các thế hệ HS hiểu, yêu quý, tôn
trọng, tự hào về các giá trị văn hóa truyền thống đó và sẽ tác động trở lại bằng
các hành động cụ thể, ý thức tôn trọng gìn giữ, bảo vệ các giá trị văn hóa ấy.


14
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh tiểu học thông qua

các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương, từ đó đề xuất biện pháp, cách
thức, chương trình dạy học cụ thể ở trường tiểu học nhằm đạt được hiệu quả
giáo dục, tình cảm đúng đắn, lối sống thiết thực hơn cho học sinh tiểu học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc khai thác các giá trị văn hóa và giáo dục.
- Tìm hiểu cơ sở thực tiễn của đề tài. Nghiên cứu khai thác một số giá
trị văn hóa lễ hội truyền thống đình làng An Biên có ảnh hưởng tích cực đến
việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh tiểu học.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp 5
trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố thông qua việc tích hợp kiến thức trong một
số môn học của chương trình chính khóa và chương trình ngoại khóa.
- Tổ chức thực nghiệm thông qua một số biện pháp đã nêu trên để kiểm
tra tính khả thi của đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Biện pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh lớp 5 trường Tiểu
học Nguyễn Văn Tố, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng thông qua các giá
trị văn hóa truyền thống địa phương và cụ thể là thông qua hoạt động lễ hội
đình làng An Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu bao gồm:
- Các giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội đình làng An Biên có ảnh
hưởng, tác dụng trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trường
Tiểu học Nguyễn Văn Tố.
- Chương trình và thực trạng việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học


15
sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Nguyễn Văn Tố, Hải Phòng.
5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn nhóm GV, HS về các đề xuất đưa
nội dung, phương thức giáo dục giá trị văn hóa truyền thống lễ hội đình làng
An Biên cho học sinh.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ, quan sát, tìm hiểu hoạt động dạy, học
của GV, HS về văn hóa truyền thống, các hoạt động giáo dục ở trường tiểu học;
quan sát, tham dự lễ hội.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thử nghiệm, đề xuất về mục tiêu,
nội dung và phương thức giáo dục đạo đức, lối sống thông qua việc khai thác
các giá trị văn hóa truyền thống lễ hội đình làng An Biên cho HS tiểu học.
- Phương pháp điều tra khảo sát: Sử dụng các phiếu điều tra đối với GV,
HS để phân tích thực trạng, thu thập ý kiến đề xuất nội dung, phương thức giáo
dục giá trị văn hóa truyền thống lễ hội đình làng An Biên trong nhà trường.
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp: Sử dụng các
phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp để xử lí các số liệu.
- Phương pháp điều tra thực địa, quay phim, chụp ảnh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài
- Chương 2: Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho
học sinh lớp 5 trường tiểu học Nguyễn Văn Tố thông qua việc khai thác các
giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội đình làng An Biên.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


16
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa truyền thống

1.1.1.1. Văn hoá và tính chất của văn hoá
a) Khái niệm văn hóa
Văn hóa chính là tổng thể các giá trị do con người tạo ra, là các giá trị vật
chất và các giá trị về tinh thần. Văn hóa nói chung trong nghiên cứu của nhiều
học giả đều cho rằng đó là gồm tất cả các giá trị vật chất và tinh thần. Được
dùng theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng khái niệm văn hoá có hai cách hiểu
chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo không gian hoặc thời gian,
theo chiều sâu hoặc chiều rộng,… Giới hạn theo không gian, văn hoá được
dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Nam Bộ, văn hoá
Tây Nguyên…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá dùng để chỉ những giá trị
trong từng giai đoạn (văn hoá Đông Sơn, văn hoá Hoà Bình…). Giới hạn theo
chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn
hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để
chỉ các giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…).
Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm những sáng tạo phong phú về vật chất
và tinh thần của con người trong quá trình cải tạo hiện thực khách quan. Những
tri thức, các kết quả của hoạt động cải tạo xã hội và tự nhiên là thành phần của
văn hóa. C.Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt
động lao động sáng tạo của con người - hoạt động sản xuất vật chất và tái sản
xuất ra đời sống hiện thực của con người. [10, tr.42, 136, 137]
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con
người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”. [53, tr.5]


17
Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một, nó bao gồm tất cả
những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến

nghệ thuật, đạo đức, pháp luật…
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghiên cứu các hiện tượng và giá
trị văn hóa của nhiều dân tộc, đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. [33, tr.431]
Theo Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO (Tổ chức Văn hóa, Khoa
học, Giáo dục Liên hợp quốc): “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm
những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những
người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân
tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong
tục tập quán, lối sống và lao động”. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp
năm 1970 tại Venise. [69, tr.5]
Qua đó, ta thấy, văn hóa là toàn bộ những gì do con người sáng tạo ra và
trở thành thế giới tự nhiên thứ hai do con người tạo ra, ở đâu có con người, có
quan hệ giữa con người với con người thì ở đó có văn hóa.
b) Tính chất của văn hoá
Bản chất xã hội của văn hóa gắn liền với tính dân tộc, tính giai cấp và tính
nhân loại.
Tính dân tộc: Ngôn ngữ, biểu tượng, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp
sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật đều là những thành tố cơ bản
của văn hóa. Tính đặc thù của văn hóa được hình thành trong lịch sử của mỗi
dân tộc, tạo ra sự khác biệt văn hóa và là nguồn gốc đa dạng văn hóa của tiến


18

trình phát triển lịch sử. Mỗi nền văn hóa là một chỉnh thể độc đáo, không lặp
lại, không thay thế. Văn hóa có tính bền vững và lâu dài do bản sắc dân tộc quy
định. Mỗi nền văn hóa có sự khác nhau là do tính dân tộc mà nó đại diện, văn
hóa phát triển được chính là nhờ sự khác biệt này.
Tính giai cấp: Sự chế định giai cấp xã hội đối với văn hóa không chỉ có ý
nghĩa lý luận mà còn mang giá trị thực tiễn. Bản chất giai cấp của các hiện
tượng văn hóa đề xuất vấn đề các quan điểm giai cấp trong việc phát triển văn
hóa. Trong mỗi nền văn hóa không có tính giai cấp đơn thuần mà bản chất xã
hội của văn hóa gắn liền với tính nhân loại của nó. Sự sáng tạo văn hóa là sản
phẩm của những xã hội cụ thể chứa đựng các năng lượng của cái đúng, cái tốt,
cái đẹp, cái mới, cái đang phát triển, cái tiến bộ. Nền tảng giai cấp - xã hội tồn
tại trong văn hóa dưới dạng hệ tư tưởng. Mỗi giai cấp hướng sự phát triển văn
hóa theo lợi ích của mình nhờ phương tiện là hệ tư tưởng. Chính vì vậy, hệ tư
tưởng có ảnh hưởng lớn đến văn hóa một cách tích cực hoặc tiêu cực.
Tính nhân loại: Tính giai cấp và tính dân tộc của văn hóa đều chứa đựng
mối quan hệ với tính nhân loại phổ biến. Giai cấp đang lên trong sự phát triển
lịch sử sẽ tạo ra các loại sản phẩm văn hóa có tính nhân loại. “Tính nhân loại
của văn hóa cũng không tách rời tính dân tộc của nó. Những tinh hoa của văn
hóa dân tộc mang ý nghĩa phổ biến nhân loại. Các tác phẩm của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh sở dĩ có tính nhân loại vì các tác phẩm đó
đã trở thành những giá trị cao quý của dân tộc Việt Nam”. [70, tr.27]
1.1.1.2. Văn hóa truyền thống và những tính chất cơ bản
a) Văn hóa truyền thống là gì?
Trong tác phẩm “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện
nay”, tác giả Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang đã nêu rõ “Truyền thống là tập
hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng
xử của một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở
nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”. [43, tr.21]
Theo Trần Văn Giàu: “Giá trị truyền thống được hiểu là những cái tốt



19
bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí không phải bất cứ cái gì
tốt đều được gọi là giá trị, mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến có nhiều tác dụng
tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định, đánh giá và dẫn dắt hành
động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái niệm giá trị truyền
thống”. [25, tr.10]
Quan điểm của Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hóa là
những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới
những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua
không gian và được cố định hóa dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ,
luật pháp, dư luận”. [56, tr.58]
Văn hoá truyền thống hay giá trị văn hoá truyền thống được hiểu như là
văn hoá và giá trị gắn với xã hội tiền công nghiệp, phân biệt với văn hoá, giá trị
văn hoá thời đại công nghiệp hoá. Khái niệm truyền thống chỉ những cái gì đã
hình thành từ lâu đời, mang tính bền vững, được trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, thì không chỉ xã hội tiền công nghiệp mới có mà với cả xã hội
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì truyền thống vẫn hình thành và định hình.
Hơn thế nữa, còn có sự kết nối giữa truyền thống tiền công nghiệp với truyền
thống công nghiệp hoá thể hiện ở mỗi hiện tượng hay giá trị văn hoá.
Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đều có những văn hóa
truyền thống đặc trưng riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh
tất cả những gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên
bản sắc riêng của một dân tộc. Giá trị văn hóa truyền thống được truyền lại cho
thế hệ sau và trở thành một động lực nội sinh để phát triển đất nước.
b) Một số tính chất cơ bản của văn hóa truyền thống
Văn hóa truyền thống có những tính chất cơ bản sau:
Tính giá trị: Văn hóa truyền thống mang tính giá trị. Văn hóa truyền thống
trở thành một bộ phận quan trọng của cuộc sống con người, góp phần phát triển
cuộc sống. Văn hóa truyền thống mang tính giá trị bởi đó là thước đo, là chuẩn

mực cho hành vi đạo đức, cho những quan hệ ứng xử giữa người với người


20
trong một cộng đồng, một giai cấp, một dân tộc, một quốc gia. Mỗi dân tộc đều
có các giá trị văn hóa truyền thống định hướng cho các hoạt động vì mục đích
xây dựng cuộc sống văn minh, tiến bộ của dân tộc mình, đó chính là những
nguyên lý đạo đức lớn mà con người thuộc các thời đại trong một đất nước dựa
vào để đưa ra các tiêu chí phân biệt đúng, sai, phải, trái.
Tính lưu truyền: Trong suốt chiều dài lịch sử của một dân tộc, văn hóa
truyền thống ra đời và phát triển. Những giá trị của văn hóa tuyền thống được
lưu truyền, chuyển giao, tiếp nối, qua nhiều thế hệ được giữ gìn phát huy lên
một tầm cao mới. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, ý
thức cộng đồng được lưu truyền phát triển tạo thành một hệ giá trị mới.
Tính ổn định: Được gạn lọc, khẳng định qua nhiều thế hệ, những giá trị
của văn hóa truyền thống đã trở thành cái chân, thiện, mỹ được lịch sử thừa
nhận. Văn hóa truyền thống trở thành những khuôn mẫu được cố định hóa dưới
dạng nghệ thuật, phong tục tập quán, nghi lễ, dư luận xã hội, pháp luật… Nó là
một trong những hệ giá trị của văn hóa dân tộc, một thành tố ổn định của ý thức
xã hội.
Tính giá trị, tính ổn định và tính lưu truyền đã tạo nên dáng vẻ riêng của
văn hóa truyền thống Việt Nam. Giữa truyền thống và truyền thống văn hóa có
mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Một mặt, truyền thống góp
phần suy tôn, giữ gìn những gì quý giá, là cốt cách, là nền tảng cho sự phát
triển của cộng đồng dân tộc, ở góc độ này truyền thống mang những giá trị tích
cực, là chỗ dựa không thể thiếu của dân tộc. Mặt khác, truyền thống còn duy
trì, làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu khi điều kiện và hoàn cảnh thay đổi, góp
phần kìm hãm, níu kéo làm chậm trễ sự phát triển của một quốc gia dân tộc.
Như vậy, văn hóa truyền thống là một bộ phận của truyền thống, là mặt tích

cực, mặt giá trị của truyền thống.
Vì vậy, văn hóa truyền thống là những truyền thống đã được lịch sử đánh
giá, khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng trong một giai


21
đoạn lịch sử nhất định. Khi xem xét đánh giá truyền thống và các giá trị văn
hóa truyền thống cần phải có quan điểm biện chứng, quan điểm lịch sử cụ thể
nghĩa là phải đặt chúng trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định của
cả quá khứ và hiện tại.
1.1.1.3. Giá trị văn hoá truyền thống
Trong hệ sinh thái Đông Nam Á, các thế hệ người Việt Nam đã tạo ra các
nền văn hóa riêng của mình. Các nền văn hóa đã đi suốt chiều dài phát triển của
dân tộc, có lịch sử lâu đời, giàu bản sắc như: văn hóa Hòa Bình, Sơn Vi, Núi
Đọ, văn hóa Đông Sơn, Phùng Nguyên, Sa Huỳnh, Óc Eo,… Các giá trị văn
hóa truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc được sản
sinh ra trong lịch sử dân tộc, được các thế hệ tiếp nối kế thừa, phát triển, trở
thành cốt lõi nền tảng văn hóa tinh thần của xã hội. Nói đến các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam là nói đến đặc thù của nền văn hóa lâu đời với những
bản sắc đậm đà, tốt đẹp đã hình thành, lưu truyền đến ngày nay.
Các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam được hình thành trong suốt quá
trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Các giá trị văn hóa truyền thống gắn với điều kiện lịch sử cụ
thể, đó là kết quả và là động lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và
phát triển đất nước. Quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại tiếp
tục bồi đắp thêm cho các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc thêm phong phú do
có chủ nghĩa Mác - Lênin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm những giá trị văn hóa tinh thần
truyền thống của dân tộc và đã đưa ra những tổng kết của mình. Trong Nghị

quyết của Bộ Chính trị khoá VII về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay nêu rõ “Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân
tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý
thương người như thể thương thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong
lao động… Đó là nền tảng và sức mạnh to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã


22
hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái”. [18, tr.56]
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã
đúc kết ý kiến về các giá trị truyền thống cơ bản của người Việt Nam, định
nghĩa về bản sắc dân tộc như sau: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên
qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ðó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng
xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong
các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo". [19, tr.56]
Từ quan điểm của các nhà khoa học, quan điểm của Đảng ta và dựa vào
các tiêu chí xác định giá trị, giá trị văn hóa, có thể khẳng định các giá trị văn
hóa truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam gồm:
- Chủ nghĩa yêu nước
- Lòng thương yêu, nhân ái, vị tha
- Tình đoàn kết, gắn bó cộng đồng
- Cần cù, sáng tạo
- Lòng dũng cảm
- Đức tính khiêm tốn, giản dị, lạc quan,…
Đây là các giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi được nhắc đến trong các

tài liệu lịch sử, trong tâm thức mỗi con người Việt Nam.
1.1.2. Cơ sở lí thuyết của giáo dục học và giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu
học.
1.1.2.1. Các khái niệm cơ bản
a) Khái niệm về giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì chỉ có trong xã hội loài
người giáo dục mới nảy sinh, phát triển và tồn tại. Để tồn tại, con người phải


23
tiến hành hoạt động lao động. Trong cuộc sống hàng ngày, con người tự nhận
thức thế giới xung quanh. Trải qua quá trình thích nghi với thiên nhiên và hình
thành đời sống xã hội, con người dần tích luỹ được kho tàng kinh nghiệm
phong phú bao gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng những giá trị văn hóa xã hội
bao gồm các chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng hoạt động giao lưu của
con người trong xã hội… Nhu cầu tất yếu của con người trong xã hội là duy trì
sự tồn tại và phát triển nên đã có sự trao đổi và truyền thụ lại những kinh
nghiệm đã tích lũy ấy cho nhau. Sự truyền thụ và tiếp thu hệ thống kinh
nghiệm của loài người chính là hiện tượng giáo dục.
Giáo dục là hoạt động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội từ
thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau tham gia lao động sản
xuất và đời sống xã hội. Thuở ban đầu, giáo dục xuất hiện như một hiện
tượng tự phát, diễn ra theo lối quan sát, bắt chước ngay trong quá trình lao
động (săn bắt, hái lượm, chăn nuôi, trồng trọt…). Sau đó, giáo dục trở thành
một hoạt động tự giác có tổ chức, có mục đích, nội dung và phương pháp,…
của con người. Giáo dục phát triển và trở thành một hoạt động được tổ chức
chuyên biệt: có chương trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học,…
cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người, là hệ thống
các tác động nhằm làm cho người học nắm được hệ thống các giá trị văn hoá

của loài người, tổ chức cho người học sáng tạo thêm những giá trị văn hoá đó.
Nhiệm vụ của giáo dục là chuyển giao những tinh hoa văn hoá, đạo đức, thẩm
mỹ,… của nhân loại cho thế hệ sau, giúp thế hệ sau nối tiếp sáng tạo, nâng cao
các thành tựu nhân loại. Có thể coi giáo dục như một kiểu di truyền xã hội giáo dục thực hiện cơ chế di sản xã hội: là cơ chế truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm đã được tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Bất kỳ
xã hội nào muốn tồn tại, phát triển đều phải tổ chức, thực hiện hoạt động giáo
dục liên tục đối với các thế hệ con người. Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã
hội loài người, hiện tượng giáo dục xuất hiện trong xã hội là tất yếu của lịch sử.


24
Giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác định
được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ thống)
của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển toàn diện
nhân cách con người. Qua những môn học ở trường, lớp và những hoạt động
như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, tham quan,… được tổ chức
ngoài giờ lên lớp sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác động của nhà giáo dục.
Như vậy, có thể kết luận rằng, “giáo dục” là sự hoàn thiện của mỗi cá
nhân, đây cũng là mục tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi
là thế hệ trước, có nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế
hệ sau tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn
thiện hơn. Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội loài người mới hình
thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển
loài người, phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con
người nhằm vào mục đích phát triển con người và phát triển xã hội.
Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục thế giới và của mỗi quốc gia đang
không ngừng cái cách đổi mới nhằm thích ứng tốt hơn với những xu thế phát
triển mới mẻ, năng động của toàn nhân loại và có khả năng tạo ra được những
nguồn lực mới để phát triển nhanh, bền vững.

Văn bản Bốn trụ cột của giáo dục (The Four Pillars of Education) của
UNESCO - ta thấy tính triết lý có trong mọi phần của văn bản, tập trung nhất
ở Bốn trụ cột của giáo dục, tóm lược văn bản như sau: Một nền giáo dục có sức
sống là nhờ trong xã hội có nhiều người học và đều ham học. Sự ham học sẽ
mạnh mẽ và bền vững nếu người học đạt được mục đích mà trước khi học họ
tự đặt ra cho mình, miễn là mục đích này phù hợp với lợi ích của xã hội.
Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung 2015 đã nêu: Mục tiêu giáo dục là đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,


25
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [12]
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. [12]
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. [12]
Như vậy, nhu cầu và mục đích học tập là cái trụ móng để ngôi nhà giáo
dục đứng vững. Học sinh cần học để biết, học để làm, học để cùng chung sống,
học để tự khẳng định mình hay học để làm người.
Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh nắm vững các kĩ năng nói,
đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người; có
lòng nhân ái hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em; kính trọng thầy
cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi; giúp đỡ các em nhỏ, bạn bè, yêu lao động,

có kỉ luật, có nếp sống văn hóa, có thói quen rèn luyện thân thể và giữ vệ sinh;
yêu quê hương đất nước, yêu hòa bình.
b) Khái niệm về đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình
sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội
trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
Ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức dần biến đổi. Tuy nhiên, điều này không
đồng nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị
đạo đức mới. Các giá trị đạo đức ở Việt Nam hiện nay là sự kết hợp sâu sắc
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của


×