Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Phát triển công nghiệp văn hoá ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.72 KB, 135 trang )

LUẬN VĂN:

Phát triển công nghiệp văn hoá ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp


Mục lục
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ trương của Đảng làm cho văn hoá thấm sâu vào đời sống xã hội, đảm
bảo sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và văn hoá, việc xã hội hoá, đẩy mạnh các hoạt động
sản xuất, kinh doanh sản phẩm văn hoá đã có bước tiến mới. Tuy vậy, chúng ta vẫn rất
lúng túng để tìm ra cơ chế, giải pháp thích hợp cho phát triển văn hóa trong bối cảnh mới.
Những nghiên cứu lý luận về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, trong đó có vấn đề phát
triển ngành công nghiệp văn hóa vẫn chưa theo kịp với sự phát triển.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng đi vào chiều sâu thì văn hoá càng nổi lên là
một trong những trụ cột chính của sự hợp tác. Những vấn đề trọng tâm được đặt ra đối với
các quốc gia, như: sự đối thoại giữa các nền văn hoá văn minh, chính sách nhằm bảo vệ,
phát huy sự đa dạng văn hoá và vấn đề xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hoá… Nhiều
nước đã rất chú trọng đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá, xem đây là một biện pháp
hữu hiệu. Công nghiệp văn hóa không những có khả năng to lớn trong việc truyền bá, bảo
vệ, phát huy bản sắc, giá trị văn hoá dân tộc, mà còn giữ vai trò là một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tri thức. Phát triển công nghiệp văn hoá liên quan đến thị
trường hàng hoá văn hoá, giá trị thương mại, liên quan đến chính sách văn hoá, chính sách
đầu tư, sự thay đổi hệ thống pháp lý cũng như hệ thống đánh giá các hoạt động và sản
phẩm văn hoá của mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập.
Nhiều nền kinh tế trên thế giới, sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá đã và
đang chiếm tỉ trọng đáng kể của tổng thu nhập quốc dân, thậm chí trở thành mũi nhọn về
xuất khẩu. Trong khi đó ở Việt Nam cả nhận thức và thực tiễn để phát triển ngành công
nghiệp văn hoá còn rất sơ khai. Thực tế đó đã ảnh hưởng lớn đến nhu cầu, khả năng sáng
tạo, hưởng thụ các giá trị văn hoá của nhân dân. Thực tế đó cũng làm hạn chế việc tuyên
truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển sâu rộng và nâng


cao chất lượng nền văn hóa dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại. Không phát triển nền công nghiệp văn hóa, không những ảnh hưởng
đến quá trình hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc- mà còn là sự biểu hiện của yếu thế, không
cạnh tranh được với các sản phẩm văn hoá của nước ngoài… Nếu không vượt qua được


những thách thức này, thì về mặt trái của nó, một mặt chúng ta phải chịu thua thiệt về kinh
tế, mặt khác do tính phụ thuộc càng tăng, điều đó cũng đồng nghĩa là phải đối diện với
những hệ luỵ khôn lường về văn hoá dưới góc độ xây dựng phát triển con người, cũng như
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Trên đây là những lý do để chúng tôi nghiên cứu đề tài “Phát triển công nghiệp
văn hoá ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”. Hy vọng những kết quả đạt được sẽ
góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận và thực tiễn của phát triển văn hóa gắn với
phát triển kinh tế, hiện đại hóa nền văn hóa nhằm phát triển con người, phát triển đất nước
trong thời kỳ mới ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu về xây dựng phát triển ngành công nghiệp văn hóa còn quá ít ỏi.
Có thể khái quát về tình hình nghiên cứu như sau:
Nhóm thứ nhất: Những quan điểm có tính chất chỉ đạo trong đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hoá trong cơ chế thị trường định
hướng XHCN, có liên quan đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá (Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 (khoá VII); Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X; Nghị quyết
Trung 5 (khoá VIII); Kết luận Hội nghị Trung 10 (khoá IX)...
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII)
đã bàn đến những khía cạnh kinh tế trong hoạt động và kinh doanh văn hoá phẩm ở nước
ta

(1)


. Những vấn đề được nêu ra trong Nghị quyết: bằng mọi cách phải đưa những giá trị

văn hoá của dân tộc và thế giới đến với nhân dân, mở rộng giao lưu văn hoá với nước
ngoài (như xuất nhập khẩu văn hoá phẩm, khuyến khích việc trao đổi nghệ thuật với các
đoàn nghệ thuật); cấm sản xuất và phổ biến những tác phẩm, phim ảnh, băng hình có nội
dung độc hại, phản động đồi truỵ… Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ tiếp tục bổ sung và
hoàn chỉnh các quy định về mua, bán tác phẩm, vấn đề thuế; xây dựng và hoàn chỉnh các
văn bản pháp quy về Luật Xuất bản, Luật bảo vệ di tích văn hoá dân tộc…
- Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) Về xây dựng phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực của tác
động văn hoá đến đời sống tinh thần xã hội, và chỉ ra khuynh hướng “thương mại hoá”

1 Đảng cộng sản Việt

Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 (khóa VII), 1993, tr.22,23.


đang có ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển văn hoá nghệ thuật, chiều theo những thị hiếu
thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học nghệ thuật bị suy
giảm…(1).
- Kết luận của Hội nghị Trung ương X (khóa IX) đến Nghị quyết Đại hội X, đã tập
trung nhấn mạnh phải bảo đảm sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế,
phát triển kinh tế là trọng tâm, phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần của xã hội.
- Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị Về phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới, khẳng định nước ta đã hình thành thị trường văn hóa phẩm, xây dựng, phát triển
ngành công nghiệp văn hoá vì một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển đất nước, hội nhập quốc tế.
Nhóm thứ hai: Những công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề phát triển
công nghiệp văn hoá ở nước ta trên bình diện lý luận và thực tiễn, như: vấn đề kinh tế thị
trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN; vai trò của văn hoá trong quá trình phát

triển, phát triển văn hoá trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; sự tác
động của toàn cầu hoá đối với phát triển văn hoá hiện nay; phát triển văn hoá phát triển
con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá...
* Một số công trình nghiên cứu:
- Kinh doanh Xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường ở Việt Nam (Luận án của
Phạm Thị Như Tâm - Đại học Kinh tế quốc dân, năm 1994).
- Văn hoá vì phát triển - Phạm Xuân Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 1998.
- Chống những biểu hiện của văn hoá, văn nghệ thương mại; Xã hội hoá các hoạt
động văn hoá và xã hội hoá kinh doanh văn hoá- của Trần Trọng Đăng Đàn, Nxb Văn
nghệ Sở Văn hoá Thông tin TP. Hồ Chí Minh, 1998.
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta - Hoàng Vinh (Nxb
Văn hoá Thông tin - Hà Nội 1999).
- Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn hoá - Lê Ngọc Tòng (NXB Chính
trị Quốc gia Hà Nội, 2004).
- Hành trình nghiên cứu điện ảnh Việt Nam, Nxb Văn hóa –Thông tin, Bộ Văn hóaThể thao và Du lịch, H, 2007

1 Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa VIII, năm 1998, tr. 48.


* Một số đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước:
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội giai đoạn 2001 - 2004 (Đề tài cấp Nhà nước
- KX.03.05, đã nghiệm thu).
- Phát triển văn hoá, con người và nguồn lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (Đề tài Chương trình KX. 05, giai đoạn 2001 - 2004, đã nghiệm thu).
- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong lĩnh vực vui chơi giải trí ở khu
vực đô thị nước ta - thực trạng và giải pháp (Đề tài cấp Bộ - Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Phạm Duy Đức chủ nhiệm, đã nghiệm thu năm 2003).
- Mỹ thuật đương đại Việt Nam liên ứng với thế giới (nhìn từ Hà Nội)- Đào Mai
Trang, (Đề tài khoa học cấp cơ sở, Bộ Văn hoá Thông tin - Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật),
năm 2005.

- Âm nhạc Việt Nam thời kỳ đổi mới thực trạng và giải pháp - Nguyễn Đăng Nghị
(Đề tài cấp cơ sở - Bộ Văn hoá Thông tin - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật), năm 2005.
- Thị trường văn hoá phẩm ở nước ta - hiện trạng và giải pháp (Đề tài cấp Bộ - Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hương chủ nhiệm, đã nghiệm thu năm
2006).
- Hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay (Đề tài độc lập cấp Nhà nước - Bộ Khoa học công nghệ, TS.
Trần Chiến Thắng chủ nhiệm, nghiệm thu cơ sở năm 2008).
- Nghiên cứu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá của Thủ đô Hà
Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội
- 01 X-12/01-2006-3, Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm, đã có báo cáo tổng kết lần 1, năm
2008).
* Một số bài bài viết:
- Chính sách văn hóa- nhìn từ bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học nghệ thuật,
Nguyễn thị Hương (Thông tin Văn hóa và Phát triển, số 5, 2005).
- Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá ở nước ta - Tô Huy Rứa (Tạp
chí Cộng sản, số 1, tháng 1/2006).
- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về sản xuất văn hoá và thị trường hàng
hoá văn hoá - Nguyễn Thị Hương (Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, 2006).


- Xây dựng ngành công nghiệp văn hoá ở nước ta - Mai Hải Oanh, Tạp chí Văn hoá
- Nghệ thuật, số 6/2006.
- Phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế- Nguyễn Thị Hương (Tạp chí Lý luận Chính trị, số 10, năm 2008).
- Chính sách kinh tế trong văn hóa và phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt
Nam - Nguyễn Thị Hương (Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số tháng 5/2009).
* Một số Hội thảo khoa học:
- Kỷ yếu Hội thảo Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2010-2020 ở TP.Hồ Chí
Minh ngày 21/2/2009 (Đề tài cấp Nhà nước do PGS,TS. Phạm Duy Đức chủ nhiệm).

- Hội thảo “Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” tại Hà Nội,
do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch tổ chức ngày 30/8/2009.
- Hội thảo “Phát triển công nghiệp văn hóa vui chơi giải trí ở nước ta hiện nay” do
Viện Văn hóa phát triển tổ chức ngày 24/11/2009.
Các công trình nghiên cứu trên đây, bước đầu đã bàn về vấn đề phát triển ngành
công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá phẩm ở nước ta trên các mặt chủ yếu, như: vấn
đề kinh tế trong văn hoá, bản chất của hàng hoá văn hoá tinh thần và thị trường hàng hoá
văn hoá tinh thần; quản lý thị trường văn hoá và cơ chế quản lý thị trường văn hoá. Tuy
chưa hoàn thiện, nhưng một số công trình trên đã đưa ra quan niệm về công nghiệp văn
hóa và cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, phân tích vai trò của công
nghiệp văn hóa đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Riêng công trình nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô Hà Nội, đã khái
quát được bức tranh cơ bản về tình hình phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô trong
những năm qua.
Nhóm thứ ba: Một số công trình nghiên cứu về quản lý các hoạt động văn hoá và
cơ chế quản lý văn hoá liên quan đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá trong điều
kiện hiện nay ở nước ta. Những công trình này gồm các đề tài, sách, hoặc các giáo trình
đang được sử dụng giảng dạy, như:
- Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp công ích ngành văn hoá thông tin trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam (Nguyễn Danh Ngà - Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997).
- Lược sử quản lý văn hoá ở Việt Nam (Tập bài giảng của Trường Đại học Văn hoá
Hà Nội - Hoàng Sơn Cường (Nxb VH-TT, Hà Nội 1998).


- Quản lý hoạt động văn hoá - Nguyễn Văn Hy, Phan Văn Tú, Hoàng Sơn Cường,
Lê Thị Hiền, Trần Thị Diên (Nxb VH TT, Hà Nội 1998).
- Thể chế xã hội trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ ở nước ta (Đề tài cấp Bộ - Học
viện CTQG Hồ Chí Minh - do GS, TS. Hoàng Vinh chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2000).
- Xây dựng thể chế quản lý kinh doanh văn hoá phẩm hiện thời ở nước ta. (Đề tài
cấp Bộ - Học viện CTQG Hồ Chí Minh - do GS, TS. Hoàng Vinh chủ nhiệm, nghiệm thu

năm 2005).
- Quản lý văn hoá đô thị trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Lê Như Hoa, Viện Văn hoá, năm 2000.
- Quản lý nhà nước đối với thị trường băng đĩa trong giai đoạn hiện nay, do TS.
Đinh Thị Vân Chi làm chủ nhiệm (Đề tài cấp Bộ, năm 2005).
Nhiều vấn đề được bàn đến trong các công trình trên: quan niệm quản lý, quản lý
văn hóa, trình độ khoa học công nghệ và công tác quản lý, những tác động tích cực và tiêu
cực của quản lý văn hóa đến đời sống xã hội. Những vấn đề này liên quan trực tiếp đến
phát triển nền công nghiệp văn hoá.
Như vậy, các nghiên cứu có liên quan đến vấn đề phát triển ngành công nghiệp
công nghiệp văn hóa ở Việt Nam chỉ mới quan tâm đến các phương diện sau:
1/ Những định hướng thể hiện trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển văn hoá, thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá, bảo đảm sự gắn kết giữa
phát triển kinh tế và phát triển văn hoá. Đây là cơ sở quan trọng cho việc phát triển ngành
công nghiệp văn hoá Việt Nam trong cơ chế thị trường định hướng XHCN.
2/ Nghiên cứu sự phát triển của văn hoá Việt Nam trước tác động của kinh tế thị
trường và toàn cầu hoá; bản chất của sản phẩm hàng hoá văn hoá, cơ sở lý luận của thị
trường văn hoá phẩm, về quản lý văn hoá và việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế
quản lý văn hoá ở nước ta hiện nay…
3/ Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức các hoạt động văn hoá và các sản phẩm
văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, liên quan đến cơ chế, chính
sách phát triển ngành công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá phẩm ở Việt Nam.
4/ Nhận thức chung về phương diện lý luận phát triển công nghiệp văn hoá, như:
quan niệm công nghiệp văn hóa, cấu trúc của ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta..., khảo
sát thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở một số lĩnh vực, khu vực…


5/ Bước đầu nghiên cứu tính tất yếu, vai trò, ý nghĩa của phát triển công nghiệp văn
hoá đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, và những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng, phát triển ngành công nghiệp văn hoá ở
nước ta.

6/ Tìm hiểu một số kinh nghiệm từ các mô hình về phát triển nền công nghiệp văn
hoá của thế giới và khu vực.
Có thể nói cho đến nay, chưa có một công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách
toàn diện vấn đề công nghiệp văn hoá ở Việt Nam, cả về lý luận và thực tiễn, chỉ ra tính tất
yếu, đặc điểm cũng như việc khảo sát đánh giá thực trạng công nghiệp văn hoá ở nước ta
trong quá trình đổi mới đất nước, đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa
trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế hiện nay. Dù vậy, những kết
quả nghiên cứu trên đây là cơ sở rất quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về xây dựng phát triển ngành
công nghiệp văn hoá, đề tài khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển công
nghiệp văn hóa ở nước ta qua một số lĩnh vực, đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp phát triển công nghiệp văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và chủ động hội
nhập quốc tế.
Nhiệm vụ : Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập phát triển. Khảo sát, đánh
giá thực trạng hoạt động của ngành công nghiệp văn hoá nước ta trong những năm qua trên
một số lĩnh vực chủ yếu. Dự báo xu hướng vận động, phát triển của ngành công nghiệp
văn hoá Việt Nam trong thời gian tới. Xác định phương hướng, đề xuất những giải pháp
khả thi cho phát triển ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Công nghiệp văn hóa xét theo cơ cấu trong quan niệm của

thế giới hiện nay, bao gồm rất nhiều ngành (quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ
thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, điện ảnh và video, in ấn xuất bản, âm
nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính...), do hạn chế, nên
phạm vi của đề tài này không thể nghiên cứu khảo sát toàn bộ các ngành. Đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu, khảo sát ba lĩnh vực: Điện ảnh, sàn diễn và âm nhạc.



- Phạm vi khảo sát: Thực trạng nghiên cứu của đề tài được khảo sát ở một số thành
phố lớn, đặc biệt là như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nơi có một số lĩnh vực thuộc
công nghiệp văn hóa đang hoạt động khá sôi động.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận mácxit và quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đề tài đã sử dụng phương pháp liên/đa ngành, phối hợp giữa các nhà quản lý
văn hóa, các nhà doanh nghiệp, các nhà kỹ thuật và công nghệ gắn liền với hoạt động của
ngành công nghiệp văn hóa để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra.
1. Nghiên cứu định tính (nghiên cứu lý thuyết): Đề tài dựa trên những cơ sở lý
thuyết về công nghiệp văn hóa, vai trò của công nghiệp này đối với sự phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội và thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa ở một số nước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá, dự báo các yêu cầu mà mục tiêu phát triển kinh tế – xã
hội đặt ra đối với việc xây dựng phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta trong bối
cảnh mới, đưa ra định hướng và các giải pháp để phát triển.
2. Phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh- Điểm yếu- Thời cơ- Thách thức:
Strengths - Weaknesses - Opportunities- Threats) được sử dụng để phân tích nhằm làm rõ
những điểm mạnh, điểm yếu của chính sách văn hóa ở nước ta, những thuận lợi cũng như
khó khăn trong việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
3. Phương pháp điều tra xã hội học. Nội dung điều tra tập trung vào 2 vấn đề chính:
sử dụng phương pháp liên ngành, phối hợp giữa các nhà quản lý văn hóa, các nhà doanh
nghiệp, các nhà kỹ thuật và công nghệ gắn liền với hoạt động của ngành công nghiệp văn
hóa; những thuận lợi, khó khăn và yêu cầu đặt ra đối với phát triển ngành công nghiệp văn
hóa Việt Nam hiện nay.
Địa bàn điều tra: Đề tài dự kiến điều tra chủ yếu ở các thành phố và đô thị lớn, đặc
biệt là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp thống kê - so sánh: Sử dụng các số liệu thống kê để phân tích và so

sánh nhằm đưa ra kết luận về thực trạng phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta.
5. Phương pháp dự báo: Kết hợp cả phương pháp dự báo định tính và định lượng
nhằm dự báo xu hướng phát triển của công nghiệp văn hóa Việt Nam trong giai đoạn tới.


7. Đóng góp mới về khoa học
- Đề tài tổng hợp các kết quả nghiên cứu về công nghiệp văn hoá từ các góc độ khác
nhau, khái quát quan niệm, bản chất, cấu trúc của công nghiệp văn hoá - góp phần xây
dựng lý thuyết phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Làm rõ vai trò của phát triển công nghiệp văn hoá đối với phát triển kinh tế - xã
hội và xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hoá của nước ta hiện nay
trên một số lĩnh vực cơ bản, dự báo xu hướng, đề ra một số giải pháp để phát triển ngành
công nghiệp văn hóa nước ta.
Những kết quả đạt được có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy, cơ sở
cho việc hoạch định chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Lý luận chung về công nghiệp văn hoá và vai trò của phát triển công
nghiệp văn hoá đối với phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Chương 2: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam từ năm trong
những năm qua (qua khảo sát một số lĩnh vực)
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp văn hoá Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế
9. Lực lượng tham gia nghiên cứu
Tham gia thực hiện đề tài gồm những cán bộ giảng dạy, nghiên cứu của Viện Văn
hoá và phát triển, các nhà khoa học trong, ngoài Học viện, các cơ quản lý, cơ sở sản xuất,
kinh doanh sản phẩm ngành công nghiệp văn hóa.
a. Cơ quan phối hợp:

- Ban Tuyên giáo Trung ương
- Vụ pháp chế - Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch
- Cục Nghệ thuật biểu diễn
- Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội
- Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
- Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Thành phố Đà Nẵng


- Khoa Văn hóa và Phát triển-Học viện Khu vực 2

Chương 1
Lý luận chung về công nghiệp văn hoá và vai trò của công nghiệp văn hóa đối với
phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
1.1. Quan niệm và cơ cấu của công nghiệp văn hoá
Sự phát triển mới và áp dụng những thành tựu của công nghệ-kỹ thuật xuất bản, kỹ
thuật ghi âm, ghi hình, sắp chữ điện tử, mạng lưới truyền thông và kỹ thuật số…những
thập kỷ gần đây trong lĩnh vực văn hóa, đã làm cho sản phẩm văn hóa-nghệ thuật được sản
xuất ra với khối lượng lớn. Trong nền kinh tế thị trường, thực tế đó làm cho nhận thức từ lý
thuyết đến thực tiễn về công nghiệp văn hóa đã được bàn thảo khá nhiều.
1.1.1. Quan niệm của thế giới về công nghiệp văn hóa
Công nghiệp văn hóa là gì?
Công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với nền văn hóa đại chúng, bắt đầu khoảng từ
giữa thế kỷ XX.
Văn hóa đại chúng (mass culture), được hiểu ngắn gọn là nền văn hóa của một xã
hội đại chúng - xã hội, được hình thành trên những điều kiện: sự gia tăng về số lượng của
người lao động; sự phát triển của quá trình sản xuất, tiêu thụ lớn theo cơ chế thị trường; sự


mở rộng không giới hạn không gian nhờ những tiến bộ về giao thông, thông tin; quá trình
đô thị hóa và tập trung dân cư tại các đô thị và đời sống chính trị dân chủ. Nền văn hóa này

có đối tượng thụ hưởng là đại đa số dân chúng - cả những người không có hoặc có trình độ
giáo dục ở mức độ tương đối. Những giá trị văn hóa được phổ cập, truyền bá thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền thanh và ngày nay là truyền hình,
internet…Một vài thập kỷ trở lại đây, người ta không chỉ nói đến ảnh hưởng của nền văn
hóa đại chúng Mỹ, nền văn hóa đại chúng phương Tây…, mà còn nói đến nền văn hóa đại
chúng Nhật, Hàn Quốc và một số nước khác của châu á. Giờ đây văn hóa đại chúng ngày
càng phát triển đáp ứng, nuôi dưỡng nhu cầu của tầng lớp thị dân mới, tầng lớp trung lưu,
những người làm công ăn lương, tầng lớp có trình độ học thức cao.
ở giai đoạn đầu, khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện cùng với ngành công nghiệp
văn hóa và những ảnh hưởng của nó, đã có những nhận thức khác nhau về quan niệm và
vai trò của công nghiệp văn hóa.
Khái niệm “công nghiệp văn hóa” xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, sau đó là quan niệm của
một số học giả phương Tây. Những thập kỷ cuối thế kỷ XX, khi nền văn hóa đại chúng
xuất hiện nhiều nước trên thế giới, thì công nghiệp văn hóa được nhận thức khá đầy đủ từ
lý thuyết đến thực tiễn. Thời kỳ đầu khi công nghiệp văn hóa xuất hiện, có quan niệm xem
đây là một bước thụt lùi của sáng tạo văn hóa, nhấn mạnh mặt tiêu cực của công nghiệp
văn hóa.
Những ý kiến này cho rằng, khác với quá trình sản xuất, thưởng thức các giá trị văn
hóa theo phương thức cổ điển, văn hóa đại chúng không thể hiện hết chiều sâu, chiều cao
trong sáng tạo văn hóa. Công nghiệp văn hóa làm ra văn hóa đại chúng, là thứ văn hóa
phục vụ số đông, không phải là văn hóa “bản gốc” mà là văn hóa “bản thế” (có sự thay thế,
hỗ trợ sáng tạo bằng máy móc). Họ nhấn mạnh, trước hết những sáng tạo văn hóa bao giờ
cũng bắt đầu từ những cá nhân. Và vì sản phẩm văn hoá được sáng tạo mang dấu ấn cá
nhân, có tính độc đáo, tính đơn nhất của nó, nên khác với những sản phẩm văn hóa được
sản xuất hàng loạt bởi công nghiệp.
Những học giả người Mỹ Max Horkheimer (1895-1973) và Theodor Adorno (19021969) đã quan niệm văn hoá đại chúng giống như một nhà máy sản xuất hàng loạt các sản
phẩm văn hoá theo một tiêu chuẩn nhất định để lôi kéo quần chúng vào sự hưởng thụ một
cách bị động. Nhu cầu giải trí của công chúng được đáp ứng một cách dễ dàng, sẵn có,



thông qua việc tiêu dùng những sản phẩm văn hoá đại chúng. Điều này khiến con người
trở nên dễ bằng lòng và thoả mãn, cho dù điều kiện kinh tế có khó khăn thế nào, vì thế
những sản phẩm văn hoá được sản xuất hàng loạt đó là một hiểm hoạ đối với những giá trị
nghệ thuật chân chính (cấp cao). Theo họ, chính nền công nghiệp văn hoá đã kích thích
những nhu cầu sai lầm, những thứ được tạo ra và thỏa mãn giá trị kinh tế đã làm hạn chế
sự sáng tạo của con người. Những đòi hỏi chân chính của con người, ngược lại, chính là sự
tự do, sáng tạo và hạnh phúc thực sự. Chính những người làm ngành công nghiệp văn hoá
tuyên bố rằng để thoả mãn nhu cầu giải trí, nhưng họ lại che giấu cách thức tiêu chuẩn hoá
những nhu cầu đó và việc xúi giục người tiêu dùng thèm muốn những sản phẩm của ngành
công nghiệp ấy. Hậu quả là nền sản xuất hàng loạt đã duy trì cơ chế thị trường hàng loạt
mà ở đó cá tính và sở thích riêng của cá nhân người tiêu dùng ngày càng không được coi
trọng và bản thân những người tiêu dùng cũng dễ thay đổi như chính những hàng hoá mà
họ mua.
Tuy nhiên, nếu đặt ra câu hỏi cho thực tế: tại sao các sản phẩm công nghiệp văn hoá
ấy có thể phổ biến đến như thế không nếu như mọi người không thích chúng? và nền văn
hoá đó có hay không có khả năng tự vận động trong sự quản lý? Thì chính điều đó đã phủ
định luận điểm của Adorno và Horkheimer về công nghiệp văn hoá. Dù vậy, xét ở góc độ
nào đó, quan điểm của Adorno và Horkheimer cũng đã ảnh hưởng đến quá trình nhận thức
về văn hoá đại chúng và công nghiệp văn hoá, nhất là trong thời gian đầu.
Một số học giả phương Tây có quan niệm công nghiệp văn hóa xuất hiện là tất yếu
do sự phát triển thuần túy của kỹ thuật, chính điều này đã làm cho người tiêu dùng văn hóa
không có sự lựa chọn. Họ cho rằng có hàng triệu người tham gia vào công nghiệp văn hoá,
các quá trình tái sản xuất cần thiết, không thể tránh khỏi việc hàng loạt các nhu cầu giống
nhau ở các nơi được đáp ứng bởi những sản phẩm giống nhau. Hơn nữa, có sự mâu thuẫn
giữa số lượng ít ỏi của những trung tâm sản xuất và số lượng lớn các vùng tiêu thụ nằm rải
rác khắp nơi, nên đòi hỏi có sự tổ chức và lên kế hoạch của các nhà quản lý. Và tuy tiêu
chuẩn hàng hoá trước tiên là dựa vào nhu cầu của khách hàng, hàng hóa văn hóa do ngành
công nghiệp đưa lại có thể được dễ dàng chấp nhận, nhưng trên thực tế, sức mạnh của kỹ
thuật hiện đại đối với xã hội chính là sức mạnh của những kẻ có thế lực về kinh tế chi phối
xã hội. Cái mà công nghiệp văn hóa đạt được là sự tiêu chuẩn hoá và quá trình sản xuất

hàng loạt, loại bỏ sự phân biệt giữa tính lô gích của sản phẩm và tính lô gích của hệ thống


xã hội. Bước nhảy vọt từ điện thoại đến đài phát thanh đã thực sự tách bạch vai trò của nó.
Với dịch vụ thứ nhất, người sử dụng vẫn có vai trò chủ động và tự do. Nhưng loại hình
dịch vụ thứ hai thì biến tất cả những người tham gia sử dụng thành người nghe và họ phải
theo dõi những chương trình truyền thanh gần giống như nhau.
Một điểm nữa mà giới nghiên cứu nhấn mạnh, đó là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
ngành công nghiệp về phương diện kinh tế. Ví dụ như phụ thuộc của công ty phát thanh,
truyền hình lớn mạnh nhất vào công ty điện lực, hoặc sự phụ thuộc của công nghiệp điện
ảnh đối với nhà băng.. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ kéo theo sự
phát triển của ngành công nghiệp văn hoá với sự xuất hiện hàng loạt những sản phẩm văn
hoá được sản xuất hàng loạt. Nhu cầu của công chúng được đáp ứng thông qua các sản
phẩm hàng loạt với chất lượng, kiểu loại khác nhau. Người tiêu dùng không có cơ hội để
phân loại hàng hoá vì các nhà sản xuất đã làm hộ rồi. Mọi loại sản phẩm văn hoá dường
như nằm trong một cấu trúc nhất định. Sự phát triển của công nghiệp văn hoá đã dẫn đến
sự chiếm ưu thế của những chi tiết kỹ thuật, kỹ xảo đối với bản thân sản phẩm văn hoá. Tất
cả đều đi theo một công thức nhất định nào đó. Trong công nghiệp văn hoá, sự rập khuôn
là điều đương nhiên, tất cả đều phải theo một kiểu cách nhất định. Khả năng tiêu thụ, tạo ra
lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, vì thế cái mới rất khó có cơ hội phát triển. Nhà sản xuất
sẽ rất ngần ngại với những sản phẩm mới chưa được thử thách tính hấp dẫn của nó đối với
người tiêu dùng. Nhà sản xuất phim sẽ ngần ngại sử dụng kịch bản của những cuốn sách
bán không chạy...
Ngoài ra, cách nhìn tiêu cực còn chỉ ra sự xuất hiện của ngành công nghiệp văn hoá
làm cho văn hóa có sự trộn lẫn ở những trình độ cao thấp với nhau. Tính nghiêm túc của
loại hình nghệ thuật cao cấp bị tiêu diệt bởi những tính toán cho hiệu quả kinh doanh. Dù
ngành công nghiệp văn hoá nào cũng xem xét, tính toán đến nhu cầu, sở thích của người
dân nhưng trong hệ thống ấy, người dân không đóng vai trò chủ chốt mà chỉ ở vị trí thứ
yếu, là đối tượng của những tính toán và là bộ phận của công nghiệp máy móc. Khách
hàng không phải là thượng đế, cũng không phải là chủ thể mà chỉ là đối tượng bị động của

nền công nghiệp ấy.
Những quan điểm trên cũng khẳng định, ngay cả phương tiện truyền thông đại
chúng ngày càng phát triển cũng phục vụ cho công nghiệp văn hoá. Nó không tính đến lợi
ích của dân chúng mà nó chạy theo tiếng nói của chủ nhân nhà tư bản công nghiệp văn


hoá, động cơ lợi nhuận được núp dưới vỏ bọc của hình thức văn hoá, họ theo đuổi mục
đích lợi nhuận một cách gián tiếp. Tính độc lập, sáng tạo của nghệ sĩ khó vượt qua rào cản
của hàng loạt các tác động bên ngoài vận hành theo cơ chế thị trường chi phối.
Thực ra, những quan niệm trên khi nhấn mạnh mặt tiêu cực của công nghiệp văn
hóa hóa không phải không có lý, nhất là khi hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm
văn hóa chỉ vì mục đích kinh tế. Ngay trong thời kỳ của mình, C. Mác đã phê phán tình
trạng biến văn hoá thành sản phẩm công nghiệp phục vụ cho sự tìm kiếm lợi nhuận của
giai cấp tư sản. Bản chất xã hội đó không thay đổi cả trong thời kỳ bùng nổ của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện nay.
Tuy nhiên, không nên chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của công nghiệp văn hoá mà cần
chỉ rõ cả những mặt tích cực của lĩnh vực này. Ngành công nghiệp văn hoá có khả năng
tác động mạnh mẽ vào đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, đáp ứng nhu cầu
văn hoá đa dạng và phức tạp của xã hội. Sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá góp
phần tạo nên quá trình đa dạng hoá và dân chủ hoá về tri thức cho xã hội. Nó có khả năng
cung cấp và truyền bá sâu rộng trong đời sống xã hội hàng loạt những thông tin về các lĩnh
vực văn hoá khác nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần của xã hội.
Đến Hội nghị Thượng đỉnh về hoạt động văn hóa được tổ chức tại Stockholm (Thụy
Điển) tháng 4-1998, thuật ngữ công nghiệp văn hóa đã được gần 200 quốc gia thông qua.
Tuy vậy cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Trong khi UNESCO gọi đây là ngành công
nghiệp văn hóa (Cultural industries) thì Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) gọi là
công nghiệp bản quyền (Copyright industries), người Mĩ coi đây là công nghiệp giải trí
(Entertainment industries), Hội đồng Anh lại gọi đây là nền kinh tế sáng tạo (Creative
economy)…Gần đây, tại một số Hội thảo quốc tế như Diễn đàn văn hoá châu á 2003,
Thách thức của sản phẩm và dịch vụ văn hoá trong đàm phán thương mại quốc tế đối với

các nước châu á (2007), Diễn đàn công nghiệp văn hoá Trung Quốc - ASEAN (2008)…,
vấn đề công nghiệp văn hoá là một trong những chủ đề chính. Các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lý văn hoá của các quốc gia đã khẳng định thuật ngữ công nghiệp văn hoá gắn với tập
hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng hiệu quả tính sáng tạo kỹ năng sở hữu trí tuệ,
sản xuất các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hoá xã hội.
Có thể nói, dù nhìn ở góc độ nào thì các quan niệm về công nghiệp văn hóa cũng
thường nhấn mạnh đế hai yếu tố: công nghiệp và sáng tạo. Gọi là công nghiệp bởi đây


thực sự là một ngành kinh doanh hùng mạnh, giàu tiềm năng. Ngành kinh doanh này dựa
trên năng lực sáng tạo của các cá nhân trong lĩnh vực giải trí thông qua các phương tiện
công nghệ hiện đại. Đây là một hệ thống liên kết trên phạm vi công nghiệp hoạt động sáng
tạo của nghệ sĩ với công chúng. Chính vì thế theo quan niệm của các tổ chức như
UNESCO, và GATT, thỡ Cụng nghiệp Văn hóa (cũn được biết đến như là Công nghiệp
sáng tạo), bao gồm sự sáng tạo, sản xuất và phân phối các sản phẩm và dịch vụ mang tính
chất văn hóa và thường được bảo vệ bởi bản quyền.
Từ những tổng hợp trên, chúng tôi đưa ra khái niệm:
Công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản xuất, phổ
biến, tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hoá bằng phương thức công nghiệp hoá,
tin học hoá, thương phẩm hoá, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của xã hội, các
hoạt động đó được bảo vệ bởi bản quyền
Đặc trưng của ngành công nghiệp văn hoá được thể hiện ở những sản phẩm được
tạo ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với các giá trị văn hoá, giá trị kinh tế, các
sản phẩm đó phải hướng tới phục vụ số đông. Những đặc trưng bản chất của hệ thống
ngành công nghiệp văn hóa bao giờ cũng gắn với những mô hình sản xuất nhất định. Trong
mô hình kinh tế thị trường tư bản, từ sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng các sản phẩm
văn hóa được vận hành theo mô hình sản xuất, kinh doanh hàng hóa thông thường, nhằm
thu đối đa lợi nhuận.
Về cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa
Trong quan niệm của thế giới (nhất là châu Âu), khái niệm công nghiệp văn hoá

thường gắn với tập hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng hiệu quả tính sáng tạo kỹ
năng sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hoá xã hội. Cơ cấu
của nó bao gồm nhiều ngành: quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và
thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, điện ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ
thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính... Nhờ áp dụng những thành
tựu khoa học công nghệ, đặc biệt điện tử và tin học, mà những ngành nghề trên tập trung
rất nhiều hàm lượng sáng tạo, đáp ứng được nhu cầu của đông đảo quần chúng và đem lại
một lợi nhuận khổng lồ.
Tuy nhiên, các quốc gia trên thế giới cũng chưa có sự không đồng nhất về quan
niệm và cơ cấu của công nghiệp văn hoá. Các nước châu Âu đưa ra 11 lĩnh vực thuộc


ngành công nghiệp văn hoá như đã nêu trên, nhưng một số nước châu á lại chỉ đề cập đến
6 hoặc 7 lĩnh vực thuộc lĩnh vực này, như: điện ảnh, phát thanh truyền hình, báo chí, xuất
bản, in và sản xuất băng đĩa, quảng cáo và dịch vụ giải trí...
1.1.2. Quan niệm công nghiệp văn hóa và cơ cấu công nghiệp văn hóa ở Việt Nam
Khi thuật ngữ công nghiệp văn hóa không xa lạ với nhiều nước, thì khái niệm nay
còn rất mới đối với Việt Nam. Nhiều ý kiến nghiên cứu cho rằng Việt Nam chưa có một
ngành công nghiệp văn hóa thực sự, chỉ mới được hình thành sau chuyển đổi từ cơ chế
kinh tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường.
Thậm chí đến những năm đầu thế kỷ XXI, khái niệm và vai trò của công nghiệp văn
hoá mới được bàn đến trong một vài công trình nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Tri Nguyên
cho rằng công nghiệp văn hoá là một trong những vấn đề của văn hoá đương đại, gắn liền
với quyền sở hữu trí tuệ 1. Đề cập cụ thể hơn đến khái niệm, vai trò của công nghiệp văn
hoá là bài viết của PGS, TS. Tô Huy Rứa: Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn
hoá ở nước ta (Tạp chí Cộng sản, số 1, tháng 1/2006)... Tác giả quan niệm: Công nghiệp
văn hóa là việc tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản phẩm văn hóa được
tạo ra bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa. Là ngành nghề
sản xuất các sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch vụ văn hóa, công nghiệp văn hóa lấy sự
thỏa mãn nhu cầu văn hóa của mọi người làm mục tiêu chủ yếu... Cũng theo tác giả, cơ cấu

của công nghiệp văn hóa nếu xét theo phạm vi ngành nghề, bao gồm: ngành sáng tạo và
biểu diễn nghệ thuật, dịch vụ tin tức, vui chơi giải trí, đào tạo văn nghệ sỹ và kinh doanh
tác phẩm nghệ thuật, ngành phát hành, xuất bản, ngành phát thanh truyền hình, điện ảnh,
video, quảng cáo...
Trong một đề tài nghiên cứu cấp thành phố về lĩnh vực này 2, nhóm tác giả đã đưa ra
khái niệm: Công nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ các sản phẩm
văn hoá dựa trên các thành tựu về khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu
văn hoá đa dạng của xã hội. Hội thảo khoa học gần đây về “Công nghiệp văn hóa ở Việt
Nam-thực trạng và giải pháp” do Viện Văn hóa Nghệ thuật-Bộ Văn hóa-Thể thao và Du
1

Nguyễn Tri Nguyên: Văn hoá, tiếp cận lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, 2004.
2

Nghiên cứu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá của Thủ đô Hà Nội
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sở Văn hoá Thông tin Hà
Nội - 01 X-12/01-2006-3, Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm, đã có báo cáo tổng kết lần
1, năm 2008).


lịch tổ chức, các nhà khoa học cũng nhấn mạnh: Công nghiệp văn hóa là các ngành công
nghiệp sử dụng các sáng tạo cá nhân, “công nghiệp” và “sáng tạo” là đặc trưng chủ yếu
trong quan niệm về công nghiệp văn hóa.
Về cơ cấu của công nghiệp văn hóa Việt Nam, có ý kiến khẳng định ngành này chỉ
mới ở mức “bán công nghiệp hoá”, đang tồn tại với nhiều loại hình: những cơ sở sản xuất
các sản phẩm văn hoá là loại hàng hoá có khả năng kinh doanh và có điều kiện công
nghiệp hoá; những đơn vị sản xuất các sản phẩm văn hoá mang tính bán công nghiệp,
không thể điều tiết chỉ bằng quy luật kinh tế thị trường; đơn vị sản xuất các sản phẩm hàng
hoá văn hóa mà không thể tự chịu lỗ lãi, thì không thể công nghiệp hoá và nhà nước phải

có vai trò chủ yếu (1).
Trên thực tế, các loại hình này đang tồn tại, đan xen rất phức tạp. Ngành sản xuất
các sản phẩm văn hoá ở Việt Nam hiện nay mới chỉ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh
với quy mô nhỏ, chưa xuất hiện và hình thành những tập đoàn lớn, hay các tổ hợp đa chức
năng. Hiện quá trình sản xuất- phân phối- phổ biến các sản phẩm văn hoá vẫn chủ yếu do
các đơn vị nhà nước đảm nhiệm. Các đơn vị tư nhân chủ yếu tham gia ở khâu lưu thông
trên thị trường, sự tham gia này còn manh mún, tự phát, đặc biệt là chưa mang tính chuyên
nghiệp.
Nhìn chung ở nước ta, sự nhận thức về công nghiệp văn hoá trên cả hai phương
diện lý luận và thực tiễn đều đang ở trong giai đoạn đầu tiên. Trên cơ sở kế thừa thành tựu
của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi có nhận xét một cách tổng quát như sau:
1/ Mặc dù còn có những quan niệm, những ý kiến đánh giá khác nhau, nhưng phải
khẳng định rằng: công nghiệp văn hoá thể hiện sự gắn kết giữa sự phát triển của khoa học
kỹ thuật và văn hoá, là phương thức biểu hiện xu thế kinh tế và văn hoá thấm sâu vào
nhau.
2/ Vai trò của công nghiệp văn hoá không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các hiệu ích
kinh tế mà nó còn đem lại những hiệu ích xã hội, nó đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của
xã hội, nâng cao trình độ nhận thức, truyền bá thông tin, thoả mãn nhu cầu văn nghệ, giải
trí, thể thao v.v.. của quảng đại quần chúng.

1

Mai Hải Oanh: Xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta, Tạp chí Văn hóa-

nghệ thuật, số 6/2006, tr. 28-31


3/ Trong thời kỳ bùng nổ thông tin và phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật công
nghệ hiện nay, công nghiệp văn hoá có vai trò to lớn để phát triển kinh tế, ổn định chính trị
và đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng gia tăng của nhân dân. Đồng thời, nó tham gia vào

quá trình dân chủ hoá thông tin về mặt văn hoá. Mặt khác nó cũng tạo ra sự phân hoá sâu
sắc cả về kinh tế và văn hoá. Những mâu thuẫn xã hội do sự phát triển công nghiệp văn
hoá tạo ra là to lớn và phức tạp mà các quốc gia cần phải quan tâm giải quyết.
4/ Có thể khái quát công nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ
các sản phẩm văn hoá dựa trên các thành tựu về khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm đáp
ứng nhu cầu văn hoá đa dạng của xã hội. Các tiêu chí để xét những lĩnh vực được xem là
công nghiệp văn hóa, đó là:
- Sản xuất ra các sản phẩm văn hoá dựa trên thành tựu khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại
- Các sản phẩm văn hoá phải hướng tới phục vụ cho số đông
- Các hoạt động của công nghiệp văn hóa được bảo vệ bởi bản quyền
5/ Hiện tại, bàn về cơ cấu ngành công nghiệp văn hoá nước ta, vấn đề mới chủ yếu
bó hẹp trong phạm vi của các ngành/nghề do Nhà nước đang quản lý và đóng vai trò sở
hữu. Cơ cấu đó bao gồm các lĩnh vực chủ yếu:
- Công nghiệp truyền thông đại chúng (công nghiệp của báo chí, xuất bản, in ấn,
phát hành, quảng cáo, triển lãm, thông tin cổ động…)
- Công nghiệp âm nhạc (công nghiệp phục hoạt động ca múa nhạc và các sản phẩm
âm nhạc từ băng, đĩa)
- Công nghiệp điện ảnh (công nghiệp xây dựng phim, hậu kỳ phim và phát hành
phổ biến phim)
- Công nghiệp phục vụ nghệ thuật biểu diễn (công nghệ tham gia vào khâu âm
thanh, ánh sáng, thiết kế sân khấu)
- Công nghiệp mỹ thuật (công nghệ hoá sinh trong sáng tạo và bảo quản, và công
nghiệp tham gia vào khâu phát hành)
- Công nghiệp dịch vụ vui chơi, giải trí (công nghiệp về các sản phẩm vui chơi trực
tiếp và sản phẩm game từ phần mềm)…
- Hoạt động kinh doanh thương mại các vật tư chuyên ngành văn hóa và các hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa.



Do nội hàm khái niệm và cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa được hiểu như
trên, nên đề tài này chỉ khảo sát thực trạng công nghiệp văn hóa ở nước ta trên ba lĩnh vực
chủ yếu: Điện ảnh, Sàn diễn và Âm nhạc.
1.2. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội và xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Bàn đến vấn đề này, chúng ta không tránh khỏi những khó khăn. Bởi về phương
diện nhận thức, khái niệm công nghiệp văn hoá cũng chỉ mới bước đầu được bàn thảo. Về
phương diện thực tiễn, một số lĩnh vực của đời sống văn hoá nước ta mới bước đầu bước
chập chững vào quá trình hoạt động theo phương thức công nghiệp văn hoá. Song xuất
phát từ thực tiến phát triển ngành công nghiệp này của nhiều nước trên thế giới và từ nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của nước ta, công nghiệp văn hóa có vai trò, ý nghĩa
to lớn đối với phát triển kinh tế-xã hội và hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc.
1.2.1. Phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội
Trên thế giới từ giữa thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của các nền công nghiệp
văn hóa đã tạo ra một xu thế mới của sự gắn kết của kinh tế và văn hóa. Có thể nói công
nghiệp văn hóa là biểu hiện tập trung mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển
kinh tế thị trường. Vai trò của công nghiệp văn hóa đối với phát triển kinh tế kinh tế-xã hội
ở nước ta có thể thấy trên 2 phương diện:
Thứ nhất, phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội, ở nước ta,
chính là giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm của Đảng ta tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X
về “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” nhấn mạnh: “Kinh tế
thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ
nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế
thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh
tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước
cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó


kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích làm giầu hợp pháp đi
đôi với xoá đói, giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, bảo
vệ ..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội
của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết của nền kinh tế Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo qui luật của kinh tế thị trường, vừa chịu
sự chi phối bởi các qui luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định
hướng xã hội chủ nghĩa”1.
Như vậy, có thể hiểu nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nó sử dụng “các thiết chế, công cụ và
nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường” nói chung một cách tự giác để giải phóng sức
sản xuất, hướng tới phục vụ đời sống của nhân dân. Có nghĩa là nó cũng phải dựa vào sự
phát triển của khoa học công nghệ, công nghiệp hoá nền sản xuất xã hội, làm ra sản phẩm
hàng hoá trao đổi trên thị trường theo qui luật cung cầu và tạo ra giá trị gia tăng, để phục
vụ nhu cầu ngày càng cao của con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Thực chất là phát triển kinh tế nhằm mục tiêu phát triển xã
hội, phát triển con người bằng cơ chế thị trường.
Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như vậy là xuất
phát từ mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế mà thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế xã hội
của nhân loại trong thời đại mới đòi hỏi. Tuyên bố của Liên hợp quốc trong buổi lễ phát
động Thập kỷ văn hoá thế giới vì phát triển (1988-1997) đã chỉ ra rằng: phát triển kinh tế

“phải đem lại cuộc sống phồn vinh và có chất lượng” , “văn hoá đứng ở vị trí trung tâm và
điều tiết phát triển” và phát triển phải được “khởi đầu và truyền bá bởi văn hoá”. Văn hoá
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần

thứ sáu, khoá X, Nxb CTQG, H,2008, tr.139-140


vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế (kinh tế thị trường) làm cho nó
trở nên có tính nhân văn, nhân bản. Đây chính là những định hướng quan trọng trong phát
triển nền kinh tế thị trường, phát triển con người và xó hội.
Mặt khác mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế đã được đặt ra ngay trong bản thân
nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848) C.
Mác và Ph.ăngghen đã cho rằng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã biến tất cả những
sản phẩm mà con người sáng tạo ra “thành giá trị trao đổi mà sản xuất vật chất đã như thế
thì sản phẩm tinh thần cũng không kém như thế”. Những người hoạt động trong lĩnh vực
sáng tạo văn hoá đều là người làm thuê được trả lương: “Bác sỹ, luật gia, tu sỹ, thi sỹ, bác
học đều bị giai cấp tư sản biến thành người làm thuê được trả lương của nó”. Như vậy, văn
hoá (hoạt động văn hoá, sản phẩm văn hoá) trở thành hàng hoá trong nền kinh tế thị trường
từ khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Do khoa học và công nghệ phát triển, phương thức công
nghiệp hoá sản xuất ngày càng cao các sản phẩm vật chất và tinh thần ngày càng dồi dào,
mặt khác thị trường tiêu thụ được mở rộng khắp thế giới đã thúc đẩy nền kinh tế thị trường
phát triển. “Những sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn
được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa”. Những đánh giá của C.Mác và Ph.ăngghen
về mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong sự phát triển của kinh tế thị trường dưới chủ
nghĩa tư bản cách đây hơn 160 năm, đến nay vẫn hoàn toàn đúng và còn có sự tác động
mạnh mẽ hơn gấp bội.
Mối quan hệ này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ bản
giống như trong nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản, song có những biểu hiện

khác. Văn hoá không chỉ là nguồn cung cấp sản phẩm hàng hoá cho kinh tế thị trường mà
còn giữ vai trò định hướng giá trị cho hoạt động của kinh tế thị trường. Hoạt động kinh tế
thị trường càng hướng tới mục tiêu văn hoá càng mang tính xã hội chủ nghĩa - vì sự phát
triển của con người, của xã hội. Sản phẩm văn hoá trở thành hàng hoá nhưng không phải
bất cứ sản phẩm nào cũng là hàng hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sản phẩm hàng hoá văn hoá không thuần tuý về lợi nhuận kinh tế mà trước hết vì
lợi ích tinh thần, thoả mãn nhu cầu nâng cao năng lực tinh thần của con người. Như vậy,
mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển về
lượng (giá trị kinh tế) mà cả về chất (giá trị tinh thần cao đẹp). Kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa cũng không tự phát triển nếu thiếu nền tảng văn hoá và văn hoá
không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hoà kinh tế
với văn hoá là sự phát triển năng động có hiệu quả và vững chắc nhất.
Thứ hai, công nghiệp văn hoá là ngành kinh tế mới, đặc biệt, góp phần to lớn vào
sự tăng trưởng kinh tế.
Trước hết, xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa sẽ giải phóng một lực
lượng sản xuất tinh thần to lớn và tiềm ẩn hiện nay. Trong lĩnh vực hoạt động văn hoá (sản
xuất tinh thần) chúng ta đang có hàng chục vạn lao động có trình độ chuyên môn, với hàng
ngàn cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đang hoạt động theo phương châm tạo ra sản phẩm
văn hoá phục vụ có tính phúc lợi cho xã hội. Nếu toàn bộ lực lượng sản xuất đó được
chuyển sang sản xuất sản phẩm hàng hoá văn hoá một cách hợp lý thì sẽ tạo ra một nguồn
thu nhập về kinh tế to lớn cho đất nước như ở Nhật Bản, Hàn Quốc…
Để làm rõ điều này, chúng tôi xin trình bày khái lược về lực lượng sản xuất tinh
thần tiềm năng của chúng ta hiện có:
Lĩnh vực xuất bản – in: hiện chúng ta có gần 50 nhà xuất bản, công ty và nhà sách
phát hành với tốc độ công nghiệp hoá khá cao, phát triển đa dạng, cụ thể về lĩnh vực xuất
bản: Số lượng xuất bản tăng nhanh, nếu như năm 1990 chỉ đạt 2.923 đầu sách với 38.208
triệu bản thì năm 2003 đã lên tới 18.641 đầu sách với 243.830 triệu bản, chủ yếu do dân bỏ

vốn, trong thời gian tới con số này có thể tăng gấp 3 lần năm 2010.
- Về lĩnh vực in: Cả nước gần 10 ngàn cơ sở in (in lụa) hộ kinh doanh cá thể, phô tô
copy, đánh máy vi tính, đóng xén gần 600 cơ sở in công nghiệp, 12 cơ sở in đã cổ phần
hoá, 12.500 điểm mua bán, cho thuê sách tư nhân.
- Về lĩnh vực phát hành sách: Cả nước có 04 công ty phát hành sách Nhà nước đã
được cổ phần hoá, có tới 10 ngàn điểm mua bán cho thuê sách tư nhân, khoảng 16 công ty
trách nhiệm hữu hạn.
Trong thời gian tới về lĩnh vực in và phát hành sách có thể tăng mạnh. Mở rộng các
hình thức liên kết theo hướng chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh về in và phát hành xuất bản và các tổ chức có tư cách pháp nhân được liên kết
với các nhà xuất bản dưới hình thức đầu tư vốn, tổ chức bản thảo in và phát hành xuất bản
phẩm (cá nhân, các tổ chức liên kết với nhà xuất bản phải đứng tên trên xuất bản phẩm và
liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với xuất bản phẩm liên kết). Mở rộng chức


năng cho cơ sở in tư nhân, ngoài in bao bì được hoạt động chế bản in, in catalog, tờ rơi, tờ
gấp giới thiệu sản phẩm hàng hoá, hướng dẫn sử dụng thiết bị, in biểu mẫu giấy tờ giao
dịch hành chính của các doanh nghiệp in giấy kẻ vở học sinh. Đối với các cơ sở in nội bộ
có đủ điều kiện hoạt động sự nghiệp có thu theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NQ –
CP được mở rộng chức năng in như doanh nghiệp cho phép cơ sở in Nhà nước và tư nhân
được nhập khẩu trực tiếp thiết bị ngành in không phải qua nhập uỷ thác. Cổ phần hoá một
số cơ sở in tiếp nhận công nghệ tiên tiến đón đầu công nghệ mới nhằm hiện đại hoá ngành
in. Thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn về phát hành xuất bản phẩm.
Lĩnh vực điện ảnh: Hàng năm tư nhân bỏ vốn sản xuất được nhiều bộ phim phục vụ
xã hội. Đặc biệt có năm sản xuất được 60 phim video, 3-4 bộ phim nhựa với tổng giá trị
gần 10 tỷ đồng và giải quyết công ăn việc làm cho văn nghệ sĩ. Trong những năm tới, lĩnh
vực điện ảnh sẽ phát triển:
- Về sản xuất: Khuyến khích tổ chức cá nhân thành lập hãng phim tư nhân, hãng
phim cổ phần tại các trung tâm tỉnh, thành phố và tuân thủ những quy định của Bộ Văn
hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch). Các hãng phim này được phép

hoạt động như các hãng phim của nhà nước theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh (hợp
tác, cung cấp làm phim với nước ngoài, được sản xuất phim đặt hàng, tự định giá).
- Về nhập khẩu phát hành phim: khuyến khích các tổ chức cá nhân thành lập cơ sở
phát hành phim, nếu có rạp thì được phép nhập phim nhựa, băng, đĩa hành trình duyệt phát
hành tại rạp trong toàn quốc.
- Về chiếu phim: khuyến khích tổ chức, cá nhân xây rạp, cùng rạp chiếu phim kết
hợp kinh doanh chiếu phim với các dịch vụ khác, được thuê lại rạp hoặc kinh doanh cải
tạo, nâng cấp, xây lại các rạp chiếu phim hiệu có do nhà nước quản lý, được thành lập
điểm chiếu, đội chiếu phim lưu động phục vụ nông thôn, miền núi, hải đảo… ở những khu
vực mà nhà nước chưa có đơn vị phục vụ (Nhà nước không đầu tư ban đầu, chỉ tài trợ theo
định mức buổi chiếu) được mở cửa hàng kinh doanh bán và cho thuê băng hình.
Trong thời gian tới số hãng phim tư nhân được thành lập đến năm 2010 là 8 hãng
phim, số rạp, cụm rạp, chiếu phim do tư nhân đầu tư vốn 100% là 43 số điểm chiếu video
ngoài công lập là 3.311. Số vốn tư nhân đầu tư trong lĩnh vực điện ảnh chiếm 62%.
Lĩnh vực thư viện: Công nghiệp văn hoá được thực hiện chủ yếu thông qua các hình
thức liên kết, phối hợp với các cơ quan, ban ngành, các tổ chức trong nước từ trung


ương đến địa phương và sự tham gia góp phần của nhân dân, các tổ chức nước ngoài nhằm
huy động các nguồn lực (sách báo, trang thiết bị, tiền của và công sức). Để tổ chức các
hoạt động thư viện, xây dựng các mô hình thư viện cơ sở. Hiện nay cả nước có gần 7000
thư viện, phòng đọc sách ở cơ sở do ngành văn hoá thông tin quản lý, gần 7000 điểm bưu
điện – văn hoá xã, 10.000 tủ sách pháp luật, 400 tủ sách đồn biên phòng.
Vận động thành lập các thư viện, hoặc phòng đọc sách dân lập ở cộng đồng dân cư,
đề nghị thành lập thư viện tư nhân phục vụ cộng đồng. Thành lập câu lạc bộ bạn đọc hay
câu lạc bộ những người thích sách. Thành lập hội thư viện Việt Nam nhằm tập hợp những
người làm công tác thư viện thuộc mọi ngành trong cả nước, cũng góp công sức trí tuệ
phát triển sự nghiệp này.
Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn: Cả nước khoảng 100 đoàn, nhóm tư nhân gồm đủ
các thể loại ca múa nhạc, sân khấu, xiếc, cải lương, rối nước, 150 rạp tư nhân. Đến năm

2010 số đơn vị biểu diễn ngoài công lập lên tới 180 đơn vị, vốn đầu tư của tư nhân liên
doanh chiếm 60% loại hình sân khấu nhỏ, câu lạc bộ 3061. Cần có cơ chế quản lý thúc đẩy
các đơn vị này hoạt động như những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận hành trong cơ
chế thị trường một cách lành mạnh.
Lĩnh vực mỹ thuật: Cả nước có khoảng 150 galery mỹ thuật tư nhân. Đến năm 2010
số câu lạc bộ mỹ thuật nhiếp ảnh do tư nhân thành lập là 180, số gallery tư nhân là 47, triển
lãm mỹ thuật nhiếp ảnh do tư nhân thực hiện chiếm 60%, tư nhân đầu tư vốn xây dựng các
công trình mỹ thuật là 59% - Xu thế này cần được khuyến khích
Lĩnh vực đào tạo: Cả nước có khoảng 15 trường văn hoá nghệ thuật đào tạo trên cơ
sở Nhà nước cấp kinh phí và đóng góp kinh phí của người dân.
Đến năm 2010 số trường lớp ngoài công lập lên đến 43 trường, tỷ lệ học sinh tự
đóng góp kinh phí đào tạo chiếm 40%, quỹ đào tạo tài năng huy động so với ngân sách đào
tạo của Nhà nước chiếm 20%. Cần đẩy mạnh chủ trương xã hội hoá hoạt động đào tạo này
như các lĩnh vực đào tạo khác của nền giáo dục - đào tạo.
Lĩnh vực bảo tồn di sản văn hoá: Tính từ năm 1999 đến 2003 cả nước huy động
được nguồn vốn ngoài ngân sách để chống xuống cấp di tích khoảng trên 460 tỷ đồng, dân
đóng góp chủ yếu vào di tích mang tính tôn giáo. Nên cho phép thành lập các viện bảo
tàng tư nhân, các cơ sở bảo tồn di tích, di sản của tư nhân nhằm cung cấp dịch vụ văn hoá
cho xã hội.


×