Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN một số đề xuất dạy đọc hiểu bài sóng theo định hướng phát triển năng lực người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.44 KB, 35 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “Giáo dục
là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với
hành, lý luận gắn với thực tiễn. phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội”. Cách tiếp cận này đặt ra mục tiêu căn bản là giúp cho học sinh
có thể làm gì sau khi học, chứ không tập trung vào việc xác định học sinh cần học
những gì để có được kiến thức toàn diện về các lĩnh vực chuyên môn. Trong rất
nhiều các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thì giải pháp đổi mới phương
pháp dạy học được xem là then chốt. Các thành tựu nghiên cứu giáo dục học và tâm
lí học hiện đại đã cho thấy người học thay vì chỉ nghe giáo viên thuyết giảng, cần
phải có cơ hội tham gia các hoạt động giáo dục có tính tương tác để phát triển các
năng lực quan yếu. Đây là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo
con người trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có
và nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Quá
trình dạy học lấy người học làm trung tâm nhất thiết phải xem xét người học tiếp cận
vấn đề này như thế nào, có ích gì trong đời sống?
Thực tiễn dạy học Ngữ văn của nước ta trong thời gian gần đây cho thấy cách
dạy học Ngữ văn theo lối bình giảng và cung cấp cho học sinh các kiến thức lí thuyết
một cách tách biệt không đáp ứng được nhu cầu học tập của giới trẻ ngày nay và
không còn phù hợp với xu thế của giáo dục hiện đại. Bản thân văn học nghệ thuật là
sáng tạo ra cho từng người đọc, và mỗi người đọc phải tự đọc lấy thì hình tượng,
cảm xúc và nội dung từ văn bản mới dấy lên trong lòng mình. Giáo sư Trần Đình Sử
phân tích: “Người ta không ai thưởng thức hộ cái đẹp cho người khác, xem hộ một
bộ phim, thưởng thức hộ một bài hát, bài thơ cho người khác, vậy mà bao lâu , thầy
giáo làm người thưởng thức văn chương hộ rồi giảng lại cái hay cho học sinh chép.
Cách dạy đó đi ngược lại bản chất của văn chương, đi ngược lại nguyên tắc dạy học,
là phương pháp cách li tốt nhất học sinh – người đọc khỏi tác phẩm, làm cho học
sinh không có dịp trực tiếp đối diện với văn bản, do đó không có thói quen tự mình


khám phá văn bản và dần dần đánh mất năng lực tự học”. Cần xác định rõ, dạy văn là
dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc hiểu bất cứ văn
bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp
thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình
thành cách đọc riêng có cá tính. Muốn vậy, dạy đọc hiểu văn bản trước hết cần gắn
với đặc trưng thể loại của văn bản đó.

Dạy văn trong nhà trường phổ thông hiện nay đặt ra nhiều thách thức với
giáo viên. Dạy như thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú, tham gia tích cực vào
tiết học, tự tin thể hiện chính kiến thậm chí hăng say tranh luận về một vấn đề quả
1


thực không hề dễ, nhất là, khi phần nhiều văn bản trong sách giáo khoa đều có độ
vênh nhất định về thời đại, hoàn cảnh sống cũng như tâm lý lứa tuổi so với các
em. Sóng là một trường hợp như vậy. Bài thơ ra đời năm 1967, trong những năm
tháng chiến tranh chống Mỹ ác liệt nhất và với riêng Xuân Quỳnh, chị đã đi qua
những đổ vỡ, giông bão trong tình yêu. Sóng là những cung bậc tâm trạng phức
tạp của người phụ nữ nhạy cảm đã lắng sâu những trải nghiệm, bởi vậy, với lứa
tuổi học trò, đó là một khoảng cách, chưa kể thời đại đã thay đổi nhiều, những
quan niệm về tình yêu của giới trẻ cũng không còn như thế hệ trước. Người giáo
viên khi dạy, nếu không để ý đến điều này sẽ rất dễ áp đặt suy nghĩ, cảm nhận của
mình lên học sinh mà không ý thức rằng những điều mình cho là ý nghĩa, sâu sắc
thì với các em lại xa cách, thiếu gần gũi. Vì vậy, mặc dù đề tài tình yêu vốn rất
hấp dẫn học trò thì tiết học cũng không trở nên sôi nổi như mong muốn và học
sinh cũng không nhận thấy ý nghĩa, giá trị thiết thực khi học bài thơ này. Bài thơ
được đưa vào chương trình lớp 12, với độ tuổi học sinh có nhiều xáo trộn trong
tâm lý tình cảm, người giáo viên càng phải khéo léo khai thác, gợi mở để các em
tự nhiên thể hiện suy nghĩ của mình. Tuy nhiên, người dạy cũng đồng thời phải ý
thức không biến giờ văn thành giờ sinh hoạt ngoại khóa về đề tài tình yêu. Gia

giảm như thế nào, điều tiết các câu hỏi gợi mở ra sao để giờ học hiệu quả là một
kỹ năng cần thiết với người dạy.
Qua thực tế giảng dạy và theo dõi sự cập nhật của các tiết thao giảng, dạy
mẫu ở nhiều trường trên cả nước được đăng tải trên internet, tôi nhận thấy khi
hướng dẫn học sinh đọc hiểu bài thơ Sóng, phần lớn chúng ta vẫn nặng về truyền
tải kiến thức mà chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu
một văn bản thơ trữ tình hiện đại, bồi dưỡng các năng lực thực tiễn, phát triển
phẩm chất toàn diện cho học sinh. Nghĩa là, người thầy vẫn có thói quen dùng sự
trải nghiệm cuộc sống và vốn kiến thức của mình để đọc hộ, hiểu hộ tác phẩm rồi
“trình diễn” thật cảm xúc trước học trò. Vai trò chủ động tự tiếp nhận tác phẩm, từ
đó hình thành những kĩ năng, phẩm chất toàn diện cho người học chưa được chú ý
đúng mực.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Một số đề xuất
dạy đọc hiểu bài Sóng theo định hướng phát triển năng lực người học” làm đề tài.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là văn bản Sóng, sách Ngữ văn 12, tập 1.
2. Phương pháp nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm sử dụng một số phương pháp nghiên cứu trọng tâm
như: phương pháp so sánh – đối chiếu; phương pháp phân tích – tổng hợp;
phương pháp tích hợp liên ngành…
2


III. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, sáng kiến triển khai các nội dung chính
sau:
I. Cơ sở của đề tài
1. Cơ sở lí luận

1.1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học
1.2. Đặc thù của tiếp nhận văn học nói chung và đọc hiểu văn bản văn học
nói riêng trong nhà trường phổ thông
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Khảo sát hệ thống câu hỏi và luyện tập của Sách giáo khoa
2.2. Khảo sát thực tế hoạt động dạy học
II. Các giải pháp
1. Dạy bài thơ Sóng theo đặc trưng thể loại thơ trữ tình
2. Dạy bài thơ Sóng trong liên tưởng với các văn bản cùng loại, cùng đề tài
3. Dạy bài thơ Sóng phù hợp với bối cảnh xã hội hiện đại và tâm lí lứa tuổi
học sinh THPT hiện nay
4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực vào
dạy bài thơ Sóng
III. Giáo án thực nghiệm
IV. Hiệu quả của đề tài
1. Đối tượng áp dụng
2. Phạm vi áp dụng
3. Hiệu quả cụ thể

3


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ

máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Để thực
hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cần có nhận thức đúng về
bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
người học.
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ
phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận
dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng
lực tự học, trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư
duy. Cần đảm bảo nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức
với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể
hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau:
Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học
sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri
thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành
các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã
biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn.
Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các
tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và
phát hiện kiến thức mới. Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích,
tổng hợp, đặc biệt hóa, khái quát hóa, tương tự, quy lạ về quen… để dần dần hình
thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở
thành môi trường giao tiếp GV-HS và HS-GV nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh
nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ chung.

4


Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt
tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Chú trọng phát triển kỹ
năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh.
Đây là cơ sở lí luận để chúng tôi tiến hành triển khai đề tài.
1.2. Đặc thù của tiếp nhận văn học nói chung và đọc hiểu văn bản văn học
nói riêng trong nhà trường phổ thông
Theo lí luận văn học hiện đại, tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các
giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn
từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác
giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng
trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể…. Qua tiếp nhận văn học, nhờ được
tri giác, liên tưởng, cắt nghĩa, tưởng tượng của người đọc mà tác phẩm trở nên
đầy đặn, sống động, hoàn chỉnh; ngược lại, người đọc nhờ tác phẩm mà được mở
rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng và tình cảm cũng như năng
lực cảm thụ, tư duy. A.Phơ răng xơ phát biểu: Phê bình là kể lại cuộc phiêu lưu
của tâm hồn mình qua tác phẩm. Nhà thơ P.Valery viết: Ý nghĩa trong thơ tôi là
do bạn đọc cho nó. Giản dị hơn, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn nói: Thơ làm ra là
để cho người đọc, ai cũng có thể tìm thấy một chút mình.

Về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa
người đọc và tác giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc tham gia với tất cả trái
tim, khối óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và sáng tạo. Người đọc ở vào một
tâm trạng đặc biệt, vừa quên mình, nhập thân, vừa sống và thể nghiệm nội dung
của tác phẩm, vừa phân thân, duy trì khoảng cách thẩm mĩ để nhìn nhận tác phẩm
từ bên ngoài, để thưởng thức tài nghệ hoặc nhận ra điều bất cập, hoặc cắt nghĩa
khác với tác giả. Nhờ vậy, trong hoạt động tiếp nhận, tác phẩm văn học không
đứng yên mà luôn luôn lớn lên, phong phú thêm trong trường kì lịch sử. Tiếp

nhận văn học tạo thành đời sống lịch sử của tác phẩm văn học.
Tiếp nhận văn học là một hoạt động có tính quy luật. Ở cấp độ cá thể, do các
đặc điểm của cá tính, tầm đón nhận của người đọc quy định. Người đọc cũng có thể
phát hiện những giá trị tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm ngoài tầm kiểm soát của tư
tưởng tác giả, dựa trên các ấn tượng chủ quan về tác phẩm, hoặc khám phá những
ý tưởng ngược hẳn với ý tác giả. Tầm đón nhận là điều kiện tiền đề để độc giả tiếp
nhận một tác phẩm văn học. Nó bao gồm kinh nghiệm và tri thức có được từ trong
các tác phẩm văn học đã đọc, mức độ quen thuộc đối với các hình thức và thủ
pháp văn học khác nhau; và các điều kiện chủ quan khác như địa vị kinh tế, chính
trị, trình độ được đào tạo, sự từng trải và kinh nghiệm sống, trình độ thưởng thức
và thị hiếu nghệ thuật, hứng thú cá nhân, tính cách và các tố chất.
Ở cấp độ xã hội, sự đọc không phải là một hoạt động hoàn toàn tự do. Người
đọc trước hết bị quy định bởi văn bản tác phẩm với các mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật,
mã văn hóa kết tinh ở trong đó. Thứ đến, người đọc bị quy định bởi kinh
5


nghiệm tiếp nhận do truyền thống văn học. Cuối cùng, người đọc bị quy định bởi
nhu cầu đời sống, họ chờ đợi ở tác phẩm những vấn đề, những hiện tượng hiện
thực mà họ quan tâm. Thời đại thay đổi thì tầm đón nhận của một thế hệ cũng đổi
thay, biến hóa. Hiện tượng tiếp nhận văn học xác nhận vai trò chủ động, sáng tạo
của chủ thể người đọc trong việc chiếm lĩnh giá trị văn học.
Trở lại với vấn đề dạy văn trong nhà trường phổ thông. Một thời gian dài,
dạy văn bản văn học được gọi là “giảng văn”, trong cách hiểu đó, giảng văn chủ
yếu là công việc của thầy. Theo đó, vị trí của trò trong môn học văn hoàn toàn bị
động. Giá trị thẩm mĩ, cái hay, cái đẹp như là những thông tin mà giáo viên nắm
bắt được cho học sinh, học sinh học thuộc những thông tin ấy để dùng vào việc
làm bài và như vậy, trên thực tế học sinh nói chung là không đọc văn, không tự
mình hiểu văn và không có kỹ năng tự đọc văn. Thậm chí tồn tại tình trạng học
sinh không đọc sách giáo khoa vì người dạy chúng ta có thói quen tóm tắt sách

giáo khoa hộ. Cho nên, nếu cho một văn bản cùng loại với văn bản đã học trong
chương trình thì đa số các em đều gặp khó khăn và không đọc hiểu được. Vì vậy,
cần xác định rõ dạy văn là dạy cho học sinh năng lực tự đọc, kỹ năng đọc, từ đó
bồi dưỡng cho các em năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mĩ. Nghĩa là người
dạy cần tìm cách để khơi dậy sự sáng tạo, chủ động, trực tiếp tham gia vào quá
trình đọc hiểu văn bản của học sinh; chấp nhận mọi phương án, cách hiểu, cách
kiến giải riêng, thậm chí đối nghịch với những gì mình chuẩn bị, không nên vội
vàng đánh giá đúng sai. Muốn như vậy, giáo viên cần lắng nghe, nắm bắt tâm lý,
đời sống, nhu cầu của các em, tự kéo gần khoảng cách để có thể hiểu vì sao các
em lại có những cảm thụ như vậy về tác phẩm.
Bản thân ngữ cảnh của văn bản văn học cũng tạo ra tính đa nghĩa. Ngày nay,
người ta xét ý nghĩa trong ba quan hệ: ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm; ý nghĩa
vốn có trong văn bản và ý nghĩa do mối quan hệ của người đọc đặt vào văn bản.
Do đó, dạy văn không thể tách khỏi bản thân đời sống, các mối quan hệ của học
sinh cũng như những thay đổi liên tục, hàng ngày của xã hội hiện nay.
Đây là những cơ sở lí luận quan trọng để chúng tôi đề xuất các giải pháp dạy
đọc hiểu bài thơ Sóng theo định hướng phát triển năng lực người học.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Khảo sát hệ thống câu hỏi sách giáo khoa
Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, phần Hướng dẫn học bài văn bản Sóng
đưa ra 4 câu hỏi:
1. Anh (chị) có nhận xét gì về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ? Âm điệu,
nhịp điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?
2. Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng. Mạch liên kết
các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng này.
6


3. Giữa sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ như thế nào? Anh (chị)
có nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy

sự tương đồng giữa các trạng thái của tâm hồn mình với những con sóng. Hãy
chỉ ra sự tương đồng đó.
4. Bài thơ là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Theo cảm nhận
của anh (chị), tâm hồn người phụ nữ đó có đặc điểm gì?
Phần Luyện tập của sách giáo khoa nêu thêm một yêu cầu: Có nhiều câu thơ,
bài thơ so sánh tình yêu với sóng và biển. Hãy sưu tầm những câu thơ, bài thơ đó.

Sách Bài tập Ngữ văn 12, tập 1 của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đưa ra
4 bài tập:
1. Bài thơ được kết cấu theo hai hình tượng sóng đôi là sóng và em. Phân
tích sự triển khai kết cấu ấy qua các đoạn của bài thơ và nhận xét về ý nghĩa,
hiệu quả của cách kết cấu ấy.
2. Câu hỏi 2, SGK, trang 156.
3. Khổ thơ:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Có hai cách hiểu: một là, khẳng định sức mạnh của tình yêu; hai là, dự
cảm lo âu trước cái mong manh, hữu hạn của tình yêu. Hãy nêu ý kiến riêng của
anh (chị).
4. Vẻ đẹp nữ tính trong tâm hồn người phụ nữ ở bài Sóng của Xuân Quỳnh.
Từ việc khảo sát hệ thống câu hỏi đọc hiểu và luyện tập trong sách giáo
khoa và sách bài tập có thể lưu ý mấy điểm sau đây:
- Thứ nhất, câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu bài Sóng bám sát đặc
trưng của thể loại thơ trữ tình, từ hình tượng nhân vật trữ tình, nội dung trữ tình
đến nghệ thuật kết cấu, âm điệu, nhịp điệu của bài thơ. Như vậy, trong định hướng
tiếp cận, giáo viên trước hết cần hướng dẫn học sinh bám sát đặc trưng thể loại
thơ trữ tình để đọc hiểu văn bản Sóng.
- Thứ hai, trong phần Luyện tập, sách giáo khoa đưa ra yêu cầu học sinh sưu

tầm những bài thơ so sánh tình yêu với sóng và biển. Ý đồ của người làm sách là
muốn khơi gợi ở học sinh sự liên tưởng, đối sánh tác phẩm với những tác phẩm có
cùng đề tài để từ đó nhận ra phong cách riêng của mỗi tác giả. Do đó, khi dạy đọc
hiểu bài Sóng cần đặt trong tính liên văn bản với những bài thơ về đề tài tình yêu
7


đã được học trước đó, để học sinh gợi nhớ lại kĩ năng đọc hiểu văn bản đồng loại,
đồng thời nhận thấy nét riêng của Xuân Quỳnh khi viết về tình yêu.
- Thứ ba, có thể thấy, trong 8 yêu cầu của sách giáo khoa và sách bài tập ở
trên, có 2 câu hỏi trong nội hàm đã chứa đựng sự khuyến khích ý kiến cá nhân của
học sinh: Theo cảm nhận của anh (chị), tâm hồn người phụ nữ đó có đặc điểm
gì (câu 4, sách giáo khoa) và Hãy nêu ý kiến riêng của anh chị (câu 3, sách bài
tập). Như vậy, trong một chừng mực nhất định, người làm sách đã có ý thức tạo
không gian mở cho người học phát huy những suy nghĩ, cảm nhận riêng của
mình. Nếu người dạy không linh hoạt, sáng tạo, thì rất dễ đẩy giờ học vào tình
trạng hàn lâm. Lời giảng có hay đến mấy, kiến thức sâu sắc đến đâu thì người học
cũng chỉ thấy đó là những tình cảm xưa cũ, không còn hợp thời, không gắn kết
với mình, vì vậy thiếu sự nhập cảm, quan tâm cần có. Bởi vậy, dạy bài thơ cần có
ý thức liên hệ với đời sống, tâm tình, quan niệm của các em để việc đọc hiểu bài
thơ thực sự có ý nghĩa thực tiễn.
2.2. Khảo sát thực trạng dạy đọc hiểu bài Sóng
Để tìm hiểu thực tế đọc hiểu tác phẩm Sóng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát
thăm dò học sinh. Cụ thể chúng tôi phát phiếu thăm dò cho 34 học sinh lớp 12C2
và 35 học sinh lớp 12C6. Từ việc xử lý phiếu thăm dò, chúng tôi có kết quả như
sau:
Nội dung câu hỏi:
- Điều làm em hào hứng nhất khi học bài thơ Sóng là
gì? + Đề tài tình yêu: 67/69 học sinh (chiếm 97,1%)
+ Thể loại thơ trữ tình: 1/69 học sinh (chiếm 1,45%)

+ Tác giả là Xuân Quỳnh: 1/69 học sinh (chiếm 1,45%)
- Em cảm thấy khó khăn gặp phải khi đọc hiểu bài thơ Sóng là gì?
+ Khó khăn do chưa nắm vững kĩ năng đọc hiểu thơ trữ tình: 36/69 học sinh
(chiếm 52,2%)
+ Khó khăn do khoảng cách thời đại và tâm lý giữa hai thế hệ: 40/69 học
sinh (chiếm 58%)
+ Không gặp khó khăn nào: 5/69 học sinh (chiếm 7,2%)
- Khi đọc hiểu các tác phẩm văn học, em có thói quen liên hệ với các tác
phẩm khác cùng đề tài hay không?
+ Thường xuyên: 25/69 học sinh (chiếm 36,2%)
+ Thỉnh thoảng: 32/69 học sinh (chiếm 46,4%)
+ Không có thói quen: 12/69 học sinh (chiếm 17,4%)
Như vậy, đa số học sinh đều thấy rất hào hứng khi học một bài thơ viết về tình
yêu. Đây là điều dễ hiểu, phù hợp với tâm lý lứa tuổi của các em. Tình yêu là một đề
tài gần gũi, có sức hấp dẫn rất lớn với tuổi học trò cuối cấp. Điều này có thể
8


xem là một thuận lợi khi dạy đọc hiểu bài thơ Sóng. Vấn đề là giáo viên phải làm
gì để nuôi dưỡng hứng thú của các em đến cuối tiết học, không để xảy ra tình
trạng đầu tiết thì hào hứng mà càng học không khí càng chùng xuống.
Tuy hứng thú với đề tài nhưng các em vẫn còn gặp khó khăn nhất định khi
tiếp cận bài thơ. Thể loại thơ trữ tình đã được học qua nhiều tác phẩm nhưng kĩ
năng tự đọc một văn bản cùng loại vẫn chưa thành thục, còn gặp nhiều lúng túng.
Vì vậy, một trong những mục tiêu của bài học là tiếp tục rèn luyện cho các em kĩ
năng đọc hiểu thơ trữ tình. Do vậy, trong quá trình dạy bài thơ Sóng, giáo viên
cần lưu ý để hướng dẫn các em cách đọc văn bản từ đặc trưng thể loại. Một khó
khăn nữa là tác phẩm ra đời cách đây đã hơn 50 năm, bối cảnh thời đại, quan
niệm tình yêu của thế hệ trẻ ngày ấy và bây giờ đã có nhiều thay đổi. Người dạy
nếu không lưu ý điều này sẽ không khắc phục được tính hàn lâm, xa rời thực tiễn

– một trong những lý do khiến học trò không muốn học văn, không mấy ấn tượng
về những điều đã học.
Thao tác so sánh đối chiếu các tác phẩm trên cùng một bình diện là hết sức cần
thiết để nhận diện phong cách cũng như đóng góp riêng của mỗi tác giả. Tuy nhiên,
trong thực tế học văn, học sinh chưa hình thành một thói quen so sánh, thi thoảng
mới nhớ để sử dụng, hoặc có dùng nhưng hiệu quả chưa cao. Vì vậy, qua bài học,
giáo viên cần lưu ý tiếp tục rèn luyện cho các em thao tác liên hệ đối chiếu.

Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy, thăm lớp dự giờ cũng như thường xuyên
theo dõi các bài thao giảng đăng tải trên internet, tôi nhận thấy việc dạy bài thơ
Sóng còn tồn tại một số hạn chế sau:
- Cách dạy còn nặng về kiến thức hơn là kĩ năng, giáo viên vẫn có thói quen
nói nhiều, đôi khi câu hỏi của cô chỉ là cái cớ để cô tự trả lời, diễn giải mà chưa
dành thời gian cho các em thảo luận, tranh biện. Giáo viên thường thiếu sự kiên
nhẫn để gợi mở cho học sinh tự đi đến kiến thức mà luôn bị áp lực thiếu thời gian,
“cháy” giáo án nên phải “chạy” cho hết bài. Vì vậy, học sinh dễ cảm thấy mệt khi
học văn, từ đó mà thấy ngại, không thực sự thích thú.
- Sự liên hệ giữa tác phẩm với thực tế còn mang tính hình thức, câu hỏi còn
chung chung, khái quát cao, thiếu sự cụ thể, gắn với những hiện tượng, sự việc
nóng hổi hoặc mối quan tâm gần gũi của học sinh hiện tại.
Thực tế trên khiến giờ học nhìn chung còn nặng tính hàn lâm, chưa thể hiện
đúng vai trò chủ động của học sinh trong giờ học.
II. CÁC GIẢI PHÁP
1. Dạy bài thơ Sóng theo đặc trưng thể loại thơ trữ tình
Dạy học theo đặc trưng thể loại là phương án khắc phục nhiều nhược điểm của
phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, trao cho các em “cần câu” chứ không
phải “con cá”, nghĩa là hình thành cho học sinh kĩ năng tự đọc hiểu văn bản cùng loại.
Phương pháp này rất được chú trọng trong đổi mới phương pháp dạy học
9



văn những năm gần đây. Trở lại trường hợp bài thơ Sóng, cần xác định rõ dạy văn
bản thuộc thể loại thơ trữ tình, đích cuối cùng là củng cố kĩ năng đọc hiểu một văn
bản thơ trữ tình hiện đại đã được làm quen nhiều trước đó cho học sinh.
Về nội dung, tính trữ tình là đặc trưng nổi bật nhất của thơ. Thơ tập trung biểu
hiện các xúc động nội tâm, những tình cảm, cảm nhận của con người trước sự việc,
giúp ta hiểu con người chủ thể ở bên trong. Tình cảm mãnh liệt ở đây không phải
là thứ tình cảm kêu gào, khóc cười ồn ào bên ngoài, mà là sự rung động mãnh liệt
ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Đọc Sóng không phải để thấy
cảnh biển đẹp, chỉ hình dung những con sóng biển ngày đêm ào ạt vỗ bờ mà qua
sóng phải thấy được những cung bậc tâm trạng tinh tế, phức tạp vừa táo bạo, mãnh
liệt; vừa sôi nổi, hồn nhiên; vừa lo âu, thấp thỏm nhưng hơn hết là sự thiết tha,
nồng nàn, thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là tâm hồn của người
phụ nữ đã lắng sâu nhiều trải nghiệm, đã đi qua những giông bão của tình yêu vẫn
không ngừng khao khát hướng về hạnh phúc bình dị đời thường.
Nhưng cảm xúc trong thơ không phải là sự bộc lộ một cách bản năng mà là
cảm xúc chứa đựng tư tưởng. Trong tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn
Đình Thi khẳng định: Cái tư tưởng trong nghệ thuật là một tư tưởng náu mình, yên
lặng. Và cái yên lặng của một câu thơ lắng sâu xuống tư tưởng. Qua những giãi
bày hết sức thành thực của trái tim người phụ nữ đang rạo rực yêu đương, người
đọc có thể nhận thấy những quan niệm sâu sắc về tình yêu của Xuân Quỳnh: tình
yêu cần trước nhất là sự thấu hiểu; không thể lý giải nổi vì sao yêu, không thể truy
tìm nguồn gốc của tình yêu vì đó là rung động của con tim không phải của lí trí;
tình yêu có thể đi qua nhiều bão giông nhưng nhất định sẽ đến được bến bờ hạnh
phúc; tình yêu sẽ giúp ta vượt qua sự hữu hạn của kiếp người bởi tình yêu là vĩnh
cửu. Sóng còn là tiếng nói của một cái tôi cá nhân đích thực, khao khát kiếm tìm
bản thể và khẳng định phái tính. Hành trình đi tìm tình yêu cũng chính là hành
trình kiếm tìm bản thể, bản thể của cái tôi trữ tình trong khát vọng được bất tử hóa,
vĩnh cửu hóa cùng tình yêu.
Thơ Xuân Quỳnh vì vậy vừa giàu trực cảm vừa lắng sâu nhiều trải nghiệm

suy tư. Tình yêu là đề tài muôn thuở, là tình cảm cao quý và đẹp đẽ nhất của con
người, giản dị và nữ tính, thơ Xuân Quỳnh đã đi sâu vào lòng người đọc nhiều thế
hệ một cách tự nhiên, gần gũi. Khi dạy bài thơ, giáo viên cần giúp các em thấy
được dù thời gian qua đi làm thay đổi mọi thứ, dù cuộc sống đã rất khác xưa, dù
cách nghĩ, cách cảm của người trẻ hôm nay đã khác nhưng ý nghĩa của tình yêu
chân chính thì vẫn luôn bất diệt và cần phải tin vào tình yêu với lòng tin mãnh liệt
để sống tốt hơn giữa cuộc đời.
Nói đến thơ trữ tình không thể không nhắc đến nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ
tình là người trực tiếp thổ lộ những suy nghĩ và cảm xúc trong bài thơ. Khi tiếp xúc
với văn bản trữ tình, việc đầu tiên là phải xác định nhân vật trữ tình là ai, để có thể
hình dung vị trí, tư thế, nỗi niềm, tâm trạng của họ một cách phù hợp. Nhân vật trữ
10


tình có khi là biểu hiện trực tiếp cái tôi thứ hai của tác giả, nhưng nhiều khi chỉ là
cái tôi “nhập vai” trữ tình. Trường hợp Sóng, nhân vật trữ tình chính là cái tôi
Xuân Quỳnh nhưng tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ không chỉ của riêng chị mà là sự
đồng điệu với rất nhiều tâm hồn phụ nữ đang yêu, đặc biệt là thế hệ phụ nữ cùng
thời với Xuân Quỳnh. Tính chất tiêu biểu và khái quát của những cảm xúc làm nên
ý nghĩa của nhân vật trữ tình. Vì vậy, đọc Sóng bất cứ người phụ nữ ở thời đại nào
cũng có thể tìm thấy một nét tâm trạng của mình trong đó.
Nếu tình cảm là sinh mệnh của thơ thì tưởng tượng là đôi cánh của thơ. Tưởng
tượng là hoạt động tâm lí phân giải, tổ hợp các biểu tượng đã có để tạo ra hình tượng
hoàn toàn mới. Thơ không xây dựng các hình tượng khách thể như nhân vật trong
truyện hay ký mà xây dựng hình tượng của bản thân dòng ý thức, cảm xúc đang diễn
ra, vì thế tưởng tượng ở đây chủ yếu là liên tưởng, giả tưởng, huyễn tưởng. Trong bài
thơ Sóng, hình tượng sóng và em được xây dựng dựa trên sự liên tưởng. Bài thơ là sự
vận động và phát triển song hành của hai hình tượng sóng và em. Em là cái tôi trữ tình
của nhà thơ còn sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự
hóa thân, phân thân của em. Hai hình tượng ấy khi phân đôi để soi chiếu sự tương

đồng, khi hòa nhập để âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng đan cài, quấn quýt với
nhau từ đầu đến cuối bài thơ nhằm diễn tả sâu sắc, thấm thía hơn khát vọng tình yêu
trào dâng mãnh liệt trong lòng thi sĩ. Lấy sóng để nói chuyện tình yêu không phải là
cách làm mới trong thơ ca. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết: Sóng tình
dường đã xiêu xiêu / Xem trong âu yếm có chiều lả lơi; Xuân Diệu cũng mượn cách
thể hiện này trong bài thơ Biển: Bờ đẹp đẽ cát vàng / Thoai thoải hàng thông đứng /
Như lặng lẽ mơ màng / Suốt ngàn năm bên sóng… Có lẽ cái khác biệt đáng kể nhất ở
đây là con sóng của Xuân Quỳnh được nhìn bằng nhãn quan phụ nữ và tác giả cũng là
người mượn sóng để bộc bạch tình yêu của người phụ nữ thành công nhất: thi sĩ đã
tạo hình một con sóng mang tính nữ.

Về phương diện nghệ thuật, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ được cấu tạo đặc biệt.
Trước hết, đó là ngôn ngữ có nhịp điệu. Sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích
tạo nhịp điệu, tùy theo số chữ (tiếng) trong dòng thơ mà thơ có nhịp điệu khác
nhau. Bài thơ Sóng được làm theo thể thơ năm chữ. Với những câu thơ năm chữ
được ngắt nhịp linh hoạt, phóng túng, đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng
biển dào dạt, sôi nổi, lúc sâu lắng, lúc dịu êm chạy suốt bài thơ. Đó không chỉ là
nhịp của những con sóng biển liên tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn mà còn âm điệu
của một nỗi lòng đang tràn ngập khao khát tình yêu vô tận, đang rung lên đồng
điệu hòa nhịp với sóng biển. Hòa hợp đến mức không còn phân biệt đâu là nhịp
sóng và đâu là nhịp điệu tâm hồn của thi sĩ.
Thứ hai, ngôn ngữ thơ không có tính liên tục và tính phân tích như ngôn ngữ
văn xuôi, ngược lại, nó có tính nhảy vọt, gián đoạn, tạo thành những khoảng lặng giàu
ý nghĩa. Các câu thơ gắn với nhau theo mạch liên tưởng ở chiều sâu. Mạch liên kết
các khổ thơ ở bài Sóng là những khám phá liên tục về sóng. Khổ 1 là sự cắt nghĩa
“bản thể sóng” cũng đồng thời là “bản thể tình yêu”. Đó là một bản thể gồm nhiều
11


đối cực, tưởng mâu thuẫn hóa ra thống nhất, luân chuyển không ngừng để vẫn mãi

là mình. Đó còn là một bản thể mang khát vọng được thấu hiểu tận cùng, phá vỡ
không gian chật hẹp để tìm đến tình yêu phóng khoáng, rộng lớn. Nếu ở khổ 1,
sóng được miêu tả trong không gian thì ở khổ 2, sóng được soi chiếu trong thời
gian. Cũng như những con sóng muôn đời dào dạt trong lòng biển, tình yêu là khát
vọng vĩnh hằng của con người và mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Sang khổ 3 và 4,
sóng đồng hành cùng em với ước muốn đi tìm nguồn gốc của bản thể cũng là
nguồn gốc của tình yêu. Nhưng đầy nữ tính và trực cảm, cái lắc đầu đáng yêu của
người con gái thể hiện một niềm hạnh phúc được cảm nhận tình yêu đang ở thì
hiện tại. Ở khổ 5, nhà thơ tạo hình một thân thể sóng đang dào dạt hạnh phúc, cồn
cào nỗi nhớ nhung và khao khát thể hiện một tình yêu mê say, cuồng nhiệt. Có lẽ vì
thế mà khuôn khổ khổ thơ bị phá vỡ, dôi dư thêm 2 dòng thơ nữa mới chuyển tải
hết sự dạt dào của cảm xúc. Mấy khổ thơ tiếp theo cho thấy một Xuân Quỳnh “già”
hơn, triết lí hơn, thấp thoáng nét lo âu. Xuân Quỳnh không chỉ là một phụ nữ hiện
đại mà còn mang đậm bản sắc phụ nữ phương Đông, cho nên nhà thơ luôn quan
niệm tình yêu gắn với lòng chung thủy (khổ 6). Soi mình vào sóng, nhà thơ càng
tin vào sự thủy chung trọn vẹn của tình yêu (khổ 7). Nhưng sự nhạy cảm của người
phụ nữ sẽ xui khiến ước vọng lớn lao luôn đi kèm những thoáng lo âu, không phải
lo về sự hữu hạn của tình yêu mà ngại cái mong manh, ngắn ngủi của đời người,
làm sao để yêu nhau cho đủ (khổ 8). Cho nên, kết lại bài thơ, mượn sóng, Xuân
Quỳnh muốn thể hiện khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân
vĩnh viễn vào tình yêu bất tử. Như vậy, có thể thấy trong bài thơ, Xuân Quỳnh vừa
thổ lộ trực tiếp, vừa mượn hình tượng sóng để nói và suy ngẫm về tình yêu. Những
ý nghĩ này có vẻ tự do và tản mạn nhưng từ trong chiều sâu thi tứ vẫn có sự vận
động nhất quán. Đó là cuộc hành trình, khởi đầu là sự từ bỏ cái chật hẹp để tìm đến
tình yêu bao dung, rộng lớn và cuối cùng là khát vọng bất tử hóa tình yêu.
Đặc điểm thứ ba của ngôn ngữ thơ là giàu nhạc tính với những âm thanh luyến
láy, những từ trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc và những cách ngắt nhịp có giá trị gợi
cảm. Sóng là một bài thơ giàu nhạc tính. Ngoài thể thơ năm chữ, sự trùng điệp hình
tượng sóng – em đã nói ở trên, âm điệu sôi nổi, nồng nàn, nhịp nhàng của bài thơ còn
được tạo nên bởi sự trùng điệp của ngôn từ. Các biện pháp điệp từ sóng, nhớ; điệp

ngữ, điệp cấu trúc câu liên tục Em nghĩ về anh, em / Em nghĩ về biển lớn; Sóng bắt
đầu từ gió / Gió bắt đầu từ đâu?; Con sóng dưới lòng sâu / Con sóng trên mặt nước;
con sóng nhớ bờ / lòng em nhớ anh; ngày đêm không ngủ / trong mơ còn thức; Dẫu
xuôi về phương bắc / Dẫu ngược về phương nam; Cuộc đời dài thế / biển kia dẫu
rộng; Năm tháng vẫn đi qua / Mây vẫn bay về xa đã tạo nên một âm điệu nhịp nhàng,
hồi hoàn của những con sóng. Đó chính là nhịp đập thổn thức, khắc khoải, khôn dứt
khôn nguôi của trái tim người phụ nữ giàu khát vọng tình yêu.
Bài thơ có cách ngắt nhịp đặc biệt, dòng thơ phần lớn không ngắt nhịp, không
có dấu câu, tạo một hơi thơ liền mạch, gợi âm hưởng những con sóng nhịp nhàng vỗ
vào bờ cát, làm nên một giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, rất dung dị và đầy nữ tính. Cả
12


bài thơ chỉ có ba dòng thơ ngắt nhịp. Hai dòng thơ mở đầu Dữ dội và dịu êm / Ồn
ào và lặng lẽ được ngắt nhịp 2/3 đều đặn làm nổi bật tính chất sóng đôi của các cặp
tính từ trái nghĩa, thể hiện những cảm xúc phong phú, phức tạp trong tâm hồn
người phụ nữ đang yêu. Đó là nhịp của những con sóng ào ạt vỗ vào bờ cát rồi lại
lặng lẽ trườn ra biển cả như chính nhịp đập thổn thức, vừa gấp gáp, sôi nổi, vừa dịu
dàng, đằm thắm của trái tim người phụ nữ. Dòng thơ còn lại được ngắt nhịp 3/1/1
Em nghĩ về anh, em thể hiện sự suy tư, trăn trở, giọng thơ lắng sâu nhiều trải
nghiệm. Cách ngắt nhịp của bài thơ rất giàu giá trị gợi cảm, nhịp thơ chính là nhịp
của tâm trạng nhân vật trữ tình.
Giáo viên dựa vào đặc trưng thể loại để hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn
bản, tìm ra những giá trị đặc sắc của bài thơ và nhận diện được phong cách thơ tình
Xuân Quỳnh. Trong quá trình dạy học, người dạy phải luôn có ý thức rèn luyện kĩ
năng đọc hiểu tác phẩm thơ trữ tình cho học sinh để các em có thể chủ động làm
một người đọc độc lập và phát triển được những cảm xúc thẩm mỹ riêng của mình.
Dạy đọc hiểu bám sát đặc trưng thể loại của văn bản là giải pháp khắc phục được
nhiều hạn chế của phương pháp dạy học văn truyền thống như dạy học đọc chép,
nhồi nhét kiến thức, học văn như nhà nghiên cứu văn học, khiến học sinh trở nên

thụ động, thiếu sáng tạo, mất dần hứng thú, đam mê. Đây là phương pháp tối ưu để
đổi mới phương pháp dạy học văn theo định hướng lấy người học làm trung tâm.
2. Dạy bài thơ Sóng trong liên tưởng với các bài thơ tình trong và ngoài
chương trình
Khi dạy đọc hiểu một văn bản văn học, một trong những thao tác không thể
thiếu là liên tưởng, so sánh với những văn bản khác cùng loại. Một là, để gợi nhắc,
củng cố kĩ năng đọc hiểu văn bản cùng loại cho học sinh. Hai là, để học sinh có
được một phông nền kiến thức rộng, từ đó đi vào khám phá chiều sâu văn bản,
nhận diện được phong cách độc đáo của tác giả, đóng góp riêng của tác phẩm với
cùng một đề tài. Dạy học theo tính kế thừa giúp học sinh hình thành kiến thức, kĩ
năng có tính hệ thống, tăng thêm sự tự tin, chủ động cho học sinh khi trực tiếp
tham gia vào quá trình đọc hiểu văn bản mới.
Trong chương trình Ngữ văn THPT xuất hiện khá nhiều tác phẩm thơ viết
về đề tài tình yêu, cụ thể:
- Lớp 10: Ca dao yêu thương tình nghĩa; ca dao hài hước; Lời tiễn dặn (trích
Tiễn dặn người yêu) – truyện thơ dân tộc Thái; Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ (trích Chinh phụ ngâm) – Đặng Trần Côn; Thề nguyền (trích Truyện Kiều) –
Nguyễn Du

- Lớp 11: Tương tư – Nguyễn Bính; Tôi yêu em – A.X.Pu-skin, Bài thơ số 28
– R.Tago
- Lớp 12: Sóng – Xuân Quỳnh
13


Ngoài ra, có những bài thơ mặc dù đề tài không phải là tình yêu nhưng trong
văn bản vẫn xuất hiện vấn đề này như: Tự tình – Hồ Xuân Hương; Thương vợ Tú Xương; Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử …
Việc đưa vào chương trình PTTH khá nhiều tác phẩm viết về đề tài tình yêu
chứng tỏ những nhà làm sách giáo khoa có ý thức chạm đến vùng tâm lý nhạy cảm
của học sinh lứa tuổi này. Trong số đó, có những tác phẩm thuộc giai đoạn Văn học

trung đại, hoàn cảnh lịch sử, xã hội hoàn toàn khác biệt với đời sống hôm nay.
Những tác phẩm thuộc giai đoạn Văn học hiện đại mặc dù khoảng cách gần hơn
nhưng với tốc độ biến đổi chóng mặt, thế giới đổi thay từng ngày như hiện nay thì
khoảng cách 10 năm đã là một thế hệ nói gì đến cả thế kỉ đã trôi qua. Vì vậy, nhìn
chung các em sẽ gặp những khó khăn nhất định khi tiếp cận các tác phẩm này. Tuy
nhiên, cần phải hiểu rằng những tác phẩm đã vượt lên sự băng hoại của thời gian là
bởi đã chạm đến những vấn đề mang tính nhân loại, muôn thuở của loài người. Bởi
vậy, người dạy cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu phông nền văn hóa gắn liền thời
đại tác phẩm ra đời, từ đó gợi lên những liên hệ với thời đại hôm nay để các em
cảm thấy gần gũi và có thể cảm nhận sâu sắc những giá trị chân chính, tốt đẹp đã
được gửi gắm qua các tác phẩm đi cùng năm tháng.
Trong sách giáo khoa lớp 12 chỉ có Sóng là tác phẩm viết về đề tài tình yêu
đôi lứa, các văn bản còn lại đều chảy theo mạch cảm hứng chủ đạo của văn học
1945-1975 là anh hùng ca. Vì vậy, giáo viên nên gợi nhớ cho các em về những tác
phẩm về tình yêu mà mình đã đọc ở lớp 10,11. Liên văn bản là một phương thức
giúp các em dễ tiếp cận hơn với một văn bản mới cùng loại. Các em sẽ nhớ lại
không chỉ nội dung của những tác phẩm đã học mà quan trọng hơn là cách đọc như
thế nào, cần chú ý những phương diện nào khi tìm hiểu để đi sâu vào bài học. Có
thể hình dung cách làm này sẽ tạo được những đường hằn, được đằn đi đằn lại sẽ
hình thành tri thức, kỹ năng thành thục cho các em.
Trước hết, giáo viên cần gợi mở cho học sinh liên tưởng đến tác phẩm nào có sự
gần gũi nhất về nhân vật trữ tình, sau đó là nội dung trữ tình với bài thơ Sóng. Chẳng
hạn, cũng là ca dao tình yêu nhưng có khi là lời chua xót của chàng trai khi tình duyên
ngang trái “Trèo lên cây khế nửa ngày…”, có khi là lời nhớ thương thiết tha đi liền
với nỗi lo âu thường trực của cô gái “Khăn thương nhớ ai…”, khi lại là mong ước
được hẹn hò, gặp gỡ nối duyên “bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”. Như vậy, nếu
xét trong chùm ca dao yêu thương tình nghĩa này thì hai bài sau là gần gũi hơn với bài
thơ Sóng, vì đều diễn tả những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu, nhưng
bài hai vẫn có nhiều điểm tương đồng hơn cả. Học sinh dễ nhận thấy giữa hai bài
những gặp gỡ trong cảm xúc của trái tim người phụ nữ đang yêu: nỗi nhớ cồn cào,

mãnh liệt, trải rộng theo không gian, kéo dài theo thời gian. Đi liền với nỗi nhớ là nỗi
âu lo phấp phỏng. Nhưng nếu ca dao là lời bộc bạch tình yêu của người con gái trong
xã hội phong kiến thì Sóng là tâm sự tình yêu của một phụ nữ hiện đại. Vì vậy, nỗi lo
âu của cô gái rất cụ thể “lo vì một nỗi không yên một bề” trước hết có lẽ là vì những
rào cản của xã hội, những ràng buộc của cương thường
14


lễ giáo trong một xã hội không tôn trọng tình yêu tự do mà cần phải môn đăng hộ
đối. Còn nỗi lo âu, phấp phỏng của Xuân Quỳnh trong Sóng lại đầy chất suy tư,
trăn trở về những điều huyền diệu, khó lí giải của tình yêu “Khi nào ta yêu nhau”,
về sự hữu hạn của đời người “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua / Như
biển kia dẫu rộng / Mây vẫn bay về xa”.
Ở một góc độ khác, cũng cần soi chiếu quan niệm tình yêu của người phụ nữ
Xuân Quỳnh với quan niệm tình yêu của nhân vật trữ tình là nam giới để thấy
những điểm rất khác nhau do ý thức về phái tính chi phối. Cùng viết về nỗi nhớ
trong tình yêu, Nguyễn Bính thể hiện tư duy cắt nghĩa tình cảm rất rõ trong bài
Tương tư: “Gió mưa là bệnh của giời / Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Còn
Xuân Quỳnh giãi bày nỗi nhớ như một lời thú nhận hồn nhiên, chân thành và đầy
nữ tính. Chị không có ý định cắt nghĩa tình yêu, bởi cái lắc đầu thừa nhận sự không
tỉnh táo, không thể lý giải cho tình yêu lại là cách thể hiện tình yêu đam mê, mãnh
liệt nhất của người phụ nữ: “Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau”. Sự
liên tưởng này với học sinh là khó hơn liên tưởng trên, bởi lẽ nó đòi hỏi thêm sự
am hiểu về tâm lí giới tính. Nó có thể áp dụng cho đối tượng học sinh giỏi.
Vì vậy, khi đưa ra các câu hỏi liên hệ cần phân hóa mức độ câu hỏi phù hợp
với trình độ học sinh. Với học sinh khá giỏi, câu hỏi thường mang tính chất suy
luận cao, đòi hỏi các em cần liên hệ vừa phạm vi rộng vừa có chiều sâu, phân tích,
đánh giá. Ví dụ ở bài Sóng, có thể đưa ra câu hỏi liên hệ mức độ khó như: “Nàng
Kiều của Nguyễn Du lý giải cho hành động xăm xăm băng lối vườn khuya một
mình sang nhà Kim Trọng là Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa; Xuân Quỳnh lý

giải cho hành trình của sóng là Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra tận bể. Em
nhận thấy điểm tương đồng và khác biệt nào giữa những quan niệm tình yêu trên?”
Ở trình độ học sinh thấp hơn, câu hỏi liên hệ có thể chỉ cần ở mức độ phát hiện
hoặc tư duy vừa phải, chẳng hạn: Câu thơ Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra
tận bể của Xuân Quỳnh gợi nhớ đến câu thơ nào trong đoạn trích Thề nguyền
(Truyện Kiều) của Nguyễn Du? Nếu ở câu hỏi thứ 2 chỉ mang tính phát hiện, dấu
hiệu là điểm gặp gỡ trong quan niệm táo bạo, mạnh mẽ của người phụ nữ trong
tình yêu, thì ở câu hỏi đầu cần tìm thấy điểm khác nhau nữa. Nàng Kiều vì tình yêu
mà sẵn sàng bỏ qua lòng tự trọng, khuôn phép là một cách để chống đối số phận,
vượt thoát cái mệnh bạc đã định sẵn của kiếp hồng nhan mà nàng đã dự cảm từ
buổi gặp mộ Đạm Tiên “Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung”. Còn Xuân Quỳnh, sự táo bạo của hành động quyết rời bỏ lòng sông chật
hẹp để đến với biển cả mênh mông của sóng thể hiện khao khát được thấu hiểu của
người phụ nữ trong tình yêu. Với Xuân Quỳnh, tình yêu trước hết cần sự thấu hiểu.
Hành trình của sóng từ sông ra bể được thôi thúc bởi một khao khát kiếm tìm bản
thể. Ý thức sâu sắc về bản thể là nét riêng của Xuân Quỳnh.
Bên cạnh việc liên hệ với chùm thơ tình trong chương trình đã được học trước
đó, người dạy cũng cần mở rộng phạm vi liên tưởng đến các tác phẩm ngoài chương
trình có sự gần gũi về thể loại, đề tài, cách xây dựng hình ảnh. Điều này sẽ giúp các
15


em tăng cường vốn hiểu biết, rèn luyện thêm năng lực thực tiễn. Yêu cầu phần Luyện
tập trong sách giáo khoa đi theo hướng liên hệ mở rộng này: sưu tầm những câu thơ,
bài thơ so sánh tình yêu với sóng và biển. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm hiểu
tư liệu trước ở nhà, để trên lớp ngoài đưa ra dẫn chứng liên hệ thì điều qua trọng hơn
là gợi mở để các em nhận thấy được nét riêng trong Sóng của Xuân Quỳnh. Ví dụ,
cũng mượn hình ảnh sóng và biển để diễn tả tình yêu, Xuân Diệu trong bài thơ Biển
đã viết: Anh xin làm sóng biếc / Hôn mãi cát vàng em / Hôn thật khẽ thật êm / Hôn êm
đềm mãi mãi. Con sóng ở đây cũng là sự phân thân của nhân vật trữ tình để bày tỏ

tình yêu nhưng lại là người đàn ông chứ không phải người phụ nữ như trong thơ Xuân
Quỳnh. Trong thơ Xuân Diệu, người con gái chỉ là bờ yên ả suốt ngàn năm, thủy
chung, chờ đợi tình yêu đến. Còn người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh rất chủ động
và mạnh mẽ trên hành trình kiếm tìm tình yêu của mình Sông không hiểu nổi mình /
Sóng tìm ra tận bể. Chính ý thức phái tính đã làm nên nét riêng trong thơ Xuân
Quỳnh. Xuân Quỳnh đã tạo hình một con sóng mang đầy tính nữ.
Như một lời đối thoại với nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ trẻ Đinh Thu Hiền lại viết
Cuối chân trời sao và biển hôn nhau / Bờ lặng lẽ cúi đầu không dám khóc / Mai sóng
lại về thôi, mỏi mòn và nặng nhọc / Thở cạnh bờ trong giấc ngủ vô tâm (Biển bờ).
Câu thơ chứa đầy nỗi đau của trái tim người phụ nữ bị phản bội, mất hết niềm tin vào
tình yêu, nhưng vẫn lặng lẽ trong đau khổ. Xuân Quỳnh có lẽ nghĩ khác về tình yêu:
yêu là một cuộc hành trình không mệt mỏi để kiếm tìm một tình yêu đích thực. Bài
thơ diễn tả một tình yêu dào dạt, mãnh liệt, với khao khát hướng đến một tình yêu
vĩnh viễn, có lúc âu lo, trăn trở nhưng ta không cảm thấy một nỗi ngậm ngùi, chua
chát nào, vẫn là một niềm tin bền bỉ dành cho tình yêu, hạnh phúc.

Cùng với việc liên tưởng đến những tác phẩm của tác giả khác cần liên tưởng
đến cả những sáng tác khác của Xuân Quỳnh đề góp phần nhận diện phong cách
thơ chị đồng thời giúp học sinh hiểu sâu hơn bài thơ. Tùy theo trình độ học sinh,
với đối tượng học sinh chuyên đây là một thao tác không thể thiếu. Với đối tượng
học sinh bình thường, giáo viên cần có sự gợi mở hoặc có thể giao bài tập về nhà
để tránh nặng nề cho các em. Với bài Sóng có thể liên hệ bài thơ có hình tượng gần
gũi Thuyền và biển; cũng có thể liên hệ những câu thơ thể hiện những dự cảm âu
lo thường trực trong trái tim yêu hoặc những câu thể hiện niềm tin mãnh liệt của
Xuân Quỳnh vào tình yêu.
Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra một số viện dẫn về việc sử dụng thao tác liên hệ,
so sánh với các tác phẩm khác để hiểu sâu thêm bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Giáo
viên có thể linh hoạt sử dụng phù hợp với đối tượng học sinh, không cứng nhắc cho
rằng lúc nào cũng phải liên hệ, không lạm dụng để tránh cảm giác nặng nề, cắt đứt rời
rạc mạch đọc hiểu văn bản. Giáo viên có thể nêu yêu cầu trong phần bài tập về nhà để

học sinh có nhiều thời gian suy ngẫm và sau đó có thể tổ chức các buổi xê-mi-na
ngoài giờ lên lớp để các em có điều kiện thảo luận, trình bày chính kiến hay làm việc
nhóm. Như vậy, các em sẽ có điều kiện tốt hơn để phát huy vai trò chủ
16


động, sáng tạo của mình; tiết học sẽ đi đúng định hướng lấy người học làm trung
tâm.
3. Dạy bài thơ Sóng phù hợp với bối cảnh xã hội và tâm lý lứa tuổi học sinh
THPT hiện nay
Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình), in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968). Đây là giai đoạn cuộc kháng
chiến chống Mỹ hết sức ác liệt, tất cả thanh niên nam nữ đều hăng hái lên đường nhập
ngũ với tinh thần phơi phới: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm / Trường Sơn Đông nhớ
Trường Sơn Tây”. Tình yêu lứa đôi hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc, lời hẹn thề kết
hôn trở thành lời hẹn thề ngày độc lập thống nhất đất nước: “Bao giờ kháng chiến
thành công, anh về em thỏa ước mong”. Tình yêu với người thanh niên trẻ tuổi lúc
bấy giờ là thoáng hương thầm lặng lẽ, lắng sâu, chờ đợi: “Giấu một chùm hoa trong
chiếc khăn tay / Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm / Bên ấy có người ngày mai ra
trận / Bên ấy có người ngày mai đi xa”. Tình yêu của họ đầy lòng vị tha, bao dung và
chung thủy: “Những người vợ nhớ chồng góp cho đất nước hòn Vọng phu”. Tất cả
những gì tươi đẹp nhất của của thanh xuân đều nằm nơi chiến trường, đó là thế hệ đã
quên mình để chỉ nghĩ về Tổ quốc: “Chúng tôi ra đi không ai không tiếc đời mình /
Tuổi hai mươi làm sao không tiếc / Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ
quốc?”. Xuân Quỳnh lúc bấy giờ có dịp đi thực tế khắp các vùng biển, vào đến Quảng
Trị để viết “những vần thơ lửa cháy”. Có thể nói, trong bối cảnh văn học nói chung
đều mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng anh hùng ca thì Sóng của Xuân
Quỳnh dường như chỉ viết về tình yêu thuần túy. Sóng được xem là bông hoa đẹp nhất
dọc chiến hào chống Mỹ mà Xuân Quỳnh thu lượm được. Bài thơ ra đời khi nhà thơ
đã đi qua những đổ vỡ trong cuộc hôn nhân thứ nhất, vì vậy lắng sâu những trải

nghiệm của một tâm hồn người phụ nữ đầy đa cảm. Được viết trong hoàn cảnh đầy
mưa bom bão đạn, khi cả nước cùng chung một tiếng gọi lên đường, Sóng càng trở
nên có ý nghĩa, không chỉ với riêng Xuân Quỳnh mà đó là tình yêu tha thiết, tươi đẹp
của cả một thế hệ thanh niên ngày ấy.
Thời gian đã lùi xa hơn 50 năm, bao sự đổi thay lớn lao đã diễn ra. Nước ta đã
tiến những bước rất dài trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rất nhiều
những thành tựu khoa học kĩ thuật đã được ứng dụng tạo nên sự thay đổi căn bản về
kinh tế xã hội. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao, chúng ta đã
trở thành một điểm đến hấp dẫn, an toàn của thế giới. Sự phát triển như vũ bão của
cách mạng công nghệ thông tin thời đại 4.0 đã đưa thế giới xích lại gần hơn bao giờ
hết. Khái niệm “thế giới phẳng” trở nên phổ biến, internet, mạng xã hội đã xóa nhòa
mọi khoảng cách giới hạn của không gian. Thế hệ trẻ hôm nay thực sự là những công
dân toàn cầu hiện đại, năng động, tự tin bước ra thế giới rộng lớn.
Nhưng cuộc sống hòa bình, hiện đại và hội nhập cũng đặt con người vào nhiều
vấn đề phức tạp, thử thách. Quay cuồng trong nhịp sống hối hả, gấp gáp, con người
hiện đại có rất ít thời gian quan tâm gia đình, người thân, bè bạn, thậm chí cả chính
17


mình. Rất nhiều người lựa chọn lối sống độc thân, tự chủ tài chính và không kết
hôn. Những quan niệm về tình yêu, hôn nhân gia đình đã thay đổi rất nhiều. Phụ nữ
ngày nay cũng không còn lựa chọn là “hậu phương vững chãi” cho chồng “ra trận”
nữa mà phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế trên chính trường, các diễn đàn nghị
sự, thành công trong nhiều lĩnh vực và tự chủ trong cuộc sống. Hiện tượng bà mẹ
đơn thân không còn hiếm, thậm chí họ sẵn sàng công khai và xem đó là một xu thế
của thời đại, không quan tâm đến định kiến hay các chuẩn mực hôn nhân truyền
thống. Thế giới đổi thay từng ngày, sự ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa phương
Tây đã làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống, trong đó có quan niệm về tình
yêu của người trẻ hiện nay.
Nếu đánh tìm kiếm “quan niệm tình yêu người trẻ hiện nay” trên Google thì

đây là những kết quả phổ biến mà chúng tôi đọc được: tình yêu đến quá sớm, yêu
nhau vì sắc đẹp, dễ yêu và cũng dễ chia tay, tiền chi phối tình yêu rất nhiều, có khi
đến với nhau chỉ để thỏa mãn nhu cầu thể xác hay tình yêu thời nay như mì gói, úp
vài phút là ăn… Xu thế thực dụng trong tình yêu trở nên phổ biến, thậm chí công
khai khi người mẫu Ngọc Trinh phát ngôn thoải mái: “Yêu không có tiền thì cạp
đất mà ăn à” lại nhận được nhiều sự đồng tình của giới trẻ. Họ “yêu cuồng sống
vội” và khi chia tay thì không ngần ngại “đòi lại quà” hết sức song phẳng. Những
giá trị chân chính trong tình yêu như sẻ chia, cảm thông, thấu hiểu dường như bị
khuất lấp trong nhịp sống quá vội vã, gấp gáp. Tình yêu cũng nằm trong “cơ chế
thị trường”. Trên thực tế lối sống này đã dẫn tới nhiều bi kịch. Những cô dâu Việt
ôm mộng đổi đời đồng ý lấy chồng Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc… mà chưa
một lần gặp mặt. Những cuộc kinh doanh hôn nhân ấy đã nảy sinh biết bao hệ lụy
đau đớn, nhưng điều đáng nói là số lượng cô dâu Việt xuất ngoại vẫn không ngừng
tăng lên, nhất là ở các tỉnh miền Tây kinh tế còn nhiều khó khăn.
Sự hời hợt, dễ dãi trong tình yêu cũng dẫn đến những suy nghĩ cho rằng yêu là
phải “dâng hiến”, phải hết mình. Những lời bài hát kiểu như “hay là mình cứ bất chấp
hết yêu nhau đi anh” được giới trẻ ngân nga vô tư như một tuyên ngôn sống. Tình
trạng “sống thoáng”, “sống thử” đang trở thành một phong trào lan truyền rất nhanh
trong giới học sinh, sinh viên. Theo số liệu của Báo cáo quốc gia về thanh niên Việt
Nam do quỹ Dân số Liên hợp quốc công bố năm 2015 thì tuổi quan hệ tình dục lần
đầu trung bình của người trẻ nước ta là 18,1 tuổi, thấp hơn nhiều nước trong khu vực:
Trung Quốc 22,1 tuổi; Thái Lan 20,5 tuổi; Singapo 22,8 tuổi; Malaisia 23 tuổi….
Theo báo cáo mới đây về tỉ lệ quan hệ tình dục của trẻ vị thành niên tại Hà
Nội: 10% hết lớp 9 và 39% hết lớp 12. Mỗi năm cả nước có khoảng 250000 –
300000 ca phá thai được báo cáo chính thức. Trong đó, tổ chức Y tế thế giới
(WHO) xếp Việt Nam vào danh sách một trong năm nước có tỉ lệ phá thai cao nhất
thế giới và là nước có tỉ lệ phá thai lớn nhất châu Á. Với nhiều người trẻ, sex trở
thành một bước trong quan hệ nam nữ như nắm tay, hôn môi.

Tất cả những con số trên đều khiến những bậc làm mẹ, làm cha, làm giáo viên

như chúng ta không khỏi giật mình, hoang mang. Con em chúng ta đang sống như
18


thế nào, liệu có phải mọi chuẩn mực, giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống đều đã
bị đảo lộn? Chúng ta phải chấp nhận những hiện tượng ấy như một sự thật hiển
nhiên hay cần làm gì để chúng không sa lầy vào lối đi tăm tối? Đã có biết bao em
nữ sinh phải lỡ dở việc học quá sớm chỉ vì mang thai ngoài ý muốn? Đã có biết
bao bi kịch tự tử diễn ra khi clip sex của các em bị chính người yêu tung lên mạng
trục lợi? Điều chúng ta cần làm là đồng hành cùng các em, qua những bài học để
nuôi dưỡng niềm tin vào tình yêu trong sáng, để bồi đắp những xúc cảm thẩm mĩ
tươi sáng, từ đó hướng các em có những lựa chọn và hành động đúng đắn.
Không ít tin tức về những vụ tử tử gần đây của học sinh đã khiến các bậc phụ
huynh đau lòng. Các em ra đi vì nhiều lí do: áp lực học hành, cha mẹ ít dành thời gian
cho con, cha mẹ ly hôn, gia đình không hạnh phúc, những thất vọng trong cuộc sống,
không thể chia sẻ cùng ai, bị bạn bè tẩy chay, kì thị hoặc thậm chí là thất tình… Theo
khảo sát mà Bộ Giáo dục công bố sau khi tiến hành ở một số trường phổ thông và đại
học tại Hà Nội, Hải Dương, có đến 93,57% học sinh , sinh viên được hỏi gặp phải
những khó khăn, vướng mắc cần chia sẻ trong học tập, đời sống hằng ngày. Tỉ lệ này
ở bậc phổ thông là 95,33% và đại học là 85,92%. Đặc biệt, ở lứa tuổi học sinh phổ
thông, mức độ thường xuyên có những vướng mắc cần chia sẻ là 80,17%.
Tiến sĩ Nguyễn Tùng Lâm, chủ tịch Hội tâm lí giáo dục Hà Nội cho rằng, học
sinh THPT ở vào giai đoạn sau của tuổi vị thành niên, giai đoạn mà sự phát triển về
thể chất đã tương đối ổn định nhưng lại chưa đủ trưởng thành về mặt tâm lí. Sự thay
đổi từ vị trí phụ thuộc của trẻ con sang vị trí tự quyết của người lớn đặt trẻ vào tình
trạng không ổn định, thất thường. Trong khi đó, ở nhà trường phổ thông hiện nay chưa
có nhiều điều kiện để tổ chức tư vấn tâm lý, giáo dục kĩ năng sống cho các em. Đa
phần chúng ta vẫn phải kết hợp, xen lồng trong chương trình ngoài giờ lên lớp, trách
nhiệm chủ yếu vẫn dồn lên giáo viên chủ nhiệm, người được xem là gần gũi các em
nhất. Môn Văn trong đặc thù không chỉ bồi dưỡng tri thức mà còn bồi dưỡng tâm hồn

được xem là môn học có nhiều lợi thế để đến gần với đời sống tâm lý, tình cảm của
học sinh. Những câu chuyện nhân văn, những tình cảm cao đẹp trong thơ văn phải
làm sao để thấm vào tâm hồn các em, thay đổi suy nghĩ, tâm trạng của các em tích cực
hơn, giúp các em có những nhận thức đúng đắn về lối sống, hành vi.
Thời đại công nghệ thông tin, các em có thể yêu qua mạng xã hội, ngồi ở đâu
cũng có thể đang hẹn hò. Thế giới ảo mênh mông khiến người lớn không thể kiểm
soát nổi đời tư của con mình. Ý thức cá nhân ngày càng phát triển, cái tôi của các em
rất lớn, tự cho mình quyền quyết định cuộc sống và một tâm lý phổ biến là các em tìm
cách che giấu đời tư của mình. Người giáo viên nếu chỉ răn đe, ngăn cấm, can thiệp
thô bạo vào tình cảm riêng tư của các em thì ngược lại sẽ phản tác dụng. Trong hoàn
cảnh ấy, nếu chúng ta vẫn dạy những bài thơ tình yêu bằng cách đọc rất diễn cảm,
ngợi ca những phẩm chất trong sáng, thủy chung mà không quan tâm đến những cơn
lốc bão thực sự của đời sống đương đại thì bài học có thực sự có ý nghĩa? Nếu chúng
ta lên lớp giảng rất hay về tình yêu, về triết lí tình yêu đẹp, về tâm hồn phong phú,
nhạy cảm của người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh mà không biết rằng
19


học trò mình vừa đổ vỡ mối tình đầu, vừa chứng kiến bi kịch hôn nhân tan vỡ của
cha mẹ và muôn vàn những tâm tư khác thì giờ văn vẫn chỉ là sáo rỗng, là sách vở
mà thôi. Vì vậy, tôi cho rằng, để dạy Sóng nói riêng và các văn bản văn học nói
chung trong chương trình phổ thông trước hết cần gắn chủ đề của tác phẩm với vấn
đề của thực tế hiện tại. Người dạy cần tìm thấy “kênh” kết nối thời đại, bối cảnh
văn hóa, xã hội để trả tác phẩm về đúng môi trường đọc, phù hợp với đời sống của
người đọc, từ đó mà đi sâu vào nhận thức, tình cảm của các em nhất.
Xin viện dẫn một số gợi ý có thể liên hệ giữa tác phẩm Sóng và thực tiễn đời
sống:
- Trong Sóng người phụ nữ thể hiện một quan niệm rất táo bạo là sẵn sàng từ bỏ
tình yêu chật hẹp để tìm đến một tình yêu bao dung, rộng lớn hơn. Theo em, hiện
tượng “chóng yêu và chóng chia tay”, “tình yêu mì ăn liền” của một bộ phận giới trẻ

ngày nay có phải là vì khao khát tìm đến một tình yêu đích thực hay không?

- Tình yêu muôn đời vẫn là khát vọng mãnh liệt nhất của tuổi trẻ. Em có
đồng tình với quan niệm ấy của Xuân Quỳnh? Theo em, quan niệm ấy có còn đúng
trong xã hội hôm nay?
- Bài thơ thể hiện một tình yêu thủy chung son sắt, với một niềm tin mãnh liệt
dành cho tình yêu của Xuân Quỳnh. Theo em, những phẩm chất ấy có còn quan
trọng trong quan niệm về tình yêu của giới trẻ hôm nay?
- Qua bài thơ, em cảm nhận như thế nào là một tình yêu đẹp? Theo em, để có
được một tình yêu đẹp cần những yếu tố nào? Em nghĩ gì về phát ngôn của người
mẫu Ngọc Trinh Yêu không có tiền cạp đất mà ăn à?
- Xuân Quỳnh tin rằng Ở ngoài kia đại dương / Trăm nghìn con sóng đó /
Con nào chẳng tới bờ / Dù muôn vời cách trở. Liệu đó có phải là một quan niệm
quá cũ trong xã hội hôm nay?

Trên đây là một số gợi ý liên hệ bài thơ Sóng với thực tiễn, người dạy cần
linh hoạt, không phải ôm đồm đưa tất cả vào bài học, biến giờ văn thành giờ kĩ
năng sống, có thể chuyển vào phần bài tập về nhà cho các em. Trong tiết học, sự
liên hệ nên gọn, tránh rườm rà và giáo viên phải điều tiết hợp lí về thời gian, dung
lượng. Với bất kì văn bản nào, không chỉ Sóng, người giáo viên cần có ý thức tìm
tòi đường ray, sợi dây kết nối giữa chủ đề tác phẩm và vấn đề thực tế trong cuộc
sống của học sinh, tạo cho các em hứng thú được tự kiểm nghiệm, tự soi chiếu và
từ đó hình thành tự nhiên sự thay đổi trong nhận thức, hành động hướng đến những
giá trị nhân văn cao đẹp hơn.
4. Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
Với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh,
người dạy cần vận dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực để tạo hứng thú, say mê cho học sinh, giúp các em tích cực, chủ động trong giờ
học. Với bài thơ Sóng, trên cơ sở những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, tình cảm cần
20



đạt được tôi đã vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để phát
huy toàn diện năng lực của học sinh.
* Lồng ghép trò chơi trong dạy học: Giáo dục bằng trò chơi là một phương
pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng. Sử dụng trò chơi sẽ
tạo sự hào hứng, thu hút sự tập trung của các em, từ đó chủ động tìm hiểu bài học.
Ở đây tôi vận dụng phương pháp trò chơi Nhớ nhanh đáp nhanh vào phần Khởi
động, nhằm tạo không khí sôi nổi ngay từ đầu tiết học. Để trò chơi diễn ra hiệu
quả, thuận lợi, tôi đã yêu cầu ở tiết học trước học sinh khi soạn bài cần nhớ lại các
bài thơ đã học trong chương trình lớp 10, 11 viết về tình yêu. Trò chơi là một hình
thức để giáo viên có thể kiểm tra sự làm việc và chuẩn bị bài của các em. Như vậy
có thể đánh giá ý thức, thái độ của học sinh ngay trong quá trình dạy. Cách tổ chức
cụ thể đã được hiện thực hóa trong phần Giáo án thực nghiệm.
* Vận dụng phương pháp Thảo luận nhóm: Học sinh được chia làm bốn
nhóm, trong khoảng thời gian giới hạn là 5 phút, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các
nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả của nhóm sau
đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Phương pháp này sẽ phát huy tính
tích cực, tính trách nhiệm và năng lực cộng tác làm việc, năng lực giao tiếp của học
sinh, đồng thời tránh sự nhàm chán. Ở bài Sóng phương pháp này được tôi sử dụng
trong quá trình đọc hiểu văn bản (xin xem cụ thể ở phần Giáo án thực nghiệm).
* Vận dụng kĩ thuật Khăn trải bàn: Kĩ thuật này được vận dụng kết hợp
phương pháp làm việc nhóm. Trên khổ giấy A2, chủ đề thảo luận ghi ở chính giữa,
chia các phần còn lại thành số phần theo số thành viên trong nhóm. Mỗi người sẽ
cùng ghi câu trả lời của mình vào phần đã được chia trong khoảng 3 phút. Sau đó đại
diện nhóm dán giấy A2 lên bảng, thuyết trình. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giáo
viên nhận xét, nhấn mạnh trọng tâm. Với cách làm này, suy nghĩ của tất cả các em sẽ
được hiện thực hóa trên giấy, vừa tiết kiệm thời gian vừa tạo điều kiện cho các em đều
làm việc, tránh sự ỷ lại, thụ động. Trong bài Sóng kĩ thuật này được tôi áp dụng trong
quá trình đọc hiểu văn bản (xin xem cụ thể ở Giáo án thực nghiệm).

* Vận dụng kĩ thuật Trình bày một phút: Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học
sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi còn băn khoăn, thắc mắc
bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng. Các câu trả lời và câu hỏi đưa ra sẽ
giúp củng cố quá trình học tập và cho thấy các em đã nắm bài học đến mức độ nào.
Giáo viên ra câu hỏi, yêu cầu học sinh suy nghĩ và viết ra giấy, gọi một số em trình
bày trước lớp, giáo viên củng cố và thu các mẩu giấy. Kĩ thuật này được tôi áp
dụng vào phần Tổng kết bài học (xin xem cụ thể ở Giáo án thực nghiệm).
* Vận dụng kênh hình trong dạy học: Những hình ảnh sinh động, trực quan
bao giờ cũng hấp dẫn với học sinh. Hiện nay, với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại
như máy tính xách tay, máy chiếu ở lớp học, giáo viên có thể vận dụng kênh hình
vào bài học một cách thuận lợi. Ở đây, tôi vận dụng vào câu hỏi liên hệ thực tế khi
21


các em tìm hiểu xong khổ 2 bài thơ, cũng là để kết lại tiết 1 của bài (xin xem cụ thể
ở Giáo án thực nghiệm)
* Sử dụng phiếu học tập: Phương pháp này sẽ giúp giáo viên đánh giá được
nhiều năng lực của học sinh từ năng lực tự đọc văn bản đến năng lực trao đổi, giao
tiếp, năng lực trình bày ý… Tôi sử dụng phiếu học tập để hướng dẫn học sinh tự
đọc khổ 7, 8 (xin xem cụ thể ở Giáo án thực nghiệm).
Bằng cách kết hợp phương pháp hỏi – đáp thông thường với những phương
pháp và kĩ thuật trên, tôi nhận thấy hiệu quả giờ học được nâng cao rõ rệt. Học sinh
rất hứng thú và tập trung, chủ động, tích cực trong cả quá trình, không có cảm giác
nhàm chán, phát năng lực toàn diện.
III. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
SÓNG (2 tiết)
- Xuân Quỳnh –
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp học sinh:
- Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn và niềm khát khao của người phụ nữ về

một tình yêu thủy chung, bất diệt.
- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật kết cấu, xây dựng hình ảnh, nhịp
điệu và ngôn từ bài thơ.
- Rèn luyện kỹ năng đọc hiểu thơ trữ tình
- Bồi dưỡng tâm hồn và nhận thức về tình yêu trong sáng, cao quý là hạnh
phúc lớn lao của con người dù ở thời đại nào.
B. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức lớp
2. Khởi động: Tổ chức trò chơi Nhớ nhanh đáp nhanh. (Thời gian: 5-7 phút)

- Giáo viên chuẩn bị sẵn bằng powerpoint trích những câu thơ tiêu biểu trong
các bài thơ tình đã học ở lớp 10, 11, yêu cầu học sinh nhớ tên tác phẩm và tác giả.
Ở mỗi trường hợp, học sinh nào trả lời nhanh và đúng nhất sẽ được nhận 1 sao
khuyến khích, góp vào cho nhóm. Cuối tiết học, nhóm nào nhiều sao nhất sẽ chiến
thắng, giành phần quà.
- Nội dung:
* Khăn thương nhớ ai / Khăn rơi xuống đất / Khăn thương nhớ ai / Khăn vắt
lên vai (Ca dao yêu thương tình nghĩa)
* Chàng dẫn thế em lấy làm sang / Lẽ nào em lại phá ngang như là / Người
ta thách lợn thách gà / Còn em thách cưới một nhà khoai lang (Ca dao hài hước)
22


* Lòng này gửi gió đông có tiện / Nghìn vàng xin gửi đến non Yên (Chinh
phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)
* Cửa ngoài vội rủ rèm the / Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
* Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Một người chin nhớ mười mong một người
(Tương tư – Nguyễn Bính)
* Tôi yêu em đến nay chừng có thể / Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai (Tôi

yêu em – A.X.Puskin)
* Nhưng em ơi, trái tim anh lại là tình yêu / Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô
biên / Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu (Bài thơ số 28, R.Tago)
- Giáo viên gợi dẫn vào bài học: Thơ viết về tình yêu -> Sóng của Xuân Quỳnh
3. Hình thành kiến thức
Hoạt động của GV – HS

Yêu cầu cần đạt

- GV gọi đại diện tổ 1 đã
I. Tiểu dẫn
chuẩn bị sẵn phần giới thiệu về tác
1. Tác giả
giả, tác phẩm ở nhà lên trình bày
- Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất
bằng máy chiếu.
của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ.
- HS nhận xét, góp ý
- Người viết thơ tình hay nhất nửa cuối thế kỷ
- GV nhấn mạnh lại những
XX
điểm quan trọng
- P/c: Thơ XQ là tiếng lòng của một tâm hồn
phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa
chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát
vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.
2. Tác phẩm
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác (chú ý nêu rõ
bối cảnh thời đại và hoàn cảnh riêng của XQ)
- GV hướng dẫn cách đọc và

II. Đọc hiểu
gọi HS đọc diễn cảm bài thơ
? Xác định nhân vật trữ tình

1. Đọc hiểu khái quát

- Nhân vật trữ tình: Bài thơ có 2 hình tượng là
sóng và em. Em là cái tôi trữ tình của nhà thơ, còn
trong bài thơ
sóng là là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình.
- GV gọi đại diện nhóm 2 lên Hai hình tượng tuy hai mà một, có khi phân đôi để
bảng trình bày qua biểu bảng soi chiếu, làm nổi bật sự tương đồng, có khi hòa
chuẩn bị ở nhà. Lớp theo dõi, đặt nhập để tạo sự cộng hưởng, nhằm diễn tả một cách
23


câu hỏi hoặc bổ sung. GV chốt
vấn đề.

mãnh liệt hơn, sâu sắc và thấm thía hơn khát vọng
tình yêu đang cuộn trào trong trái tim nữ sĩ.

? Nêu thể thơ và chỉ ra hiệu
quả nghệ thuật

- Thể thơ 5 chữ, ngắt nhịp linh hoạt, tạo âm
điệu dạt dào, khi nhịp nhàng, khi sôi nổi, khi lắng
- GV gọi HS trả lời tại chỗ, sâu, khi miên man, trăn trở -> nhịp sóng -> nhịp
HS khác nhận xét, bổ sung, sau đó tâm trạng
GV nhấn mạnh lại.

- Bố cục: + Khổ 1, 2: Tâm trạng phức tạp và
khát vọng tình yêu mãnh liệt, sôi nổi, nồng nàn
của trái tim người phụ nữ.
? Phân chia bố cục của bài
+ Khổ 3, 4: Sự trăn trở, suy tư, mong muốn
thơ theo mạch cảm xúc của nhân
truy tìm nguồn gốc của tình yêu
vật trữ tình
+ Khổ 5, 6: Nỗi nhớ sâu sắc, mãnh liệt và
- GV cho HS phát biểu dựa
tình yêu thủy chung, son sắt của người phụ nữ.
trên phần soạn bài ở nhà, thống
nhất cách chia bố cục để đi vào
+ Khổ 7, 8: Những suy tư, dự cảm lo âu của
trái tim phụ nữ giàu trắc ẩn, nhạy cảm nhưng vẫn
đọc hiểu chi tiết.
chứa đựng một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.
+ Khổ 9: Khát vọng hóa thân vào tình yêu bất
diệt.
2. Đọc hiểu chi tiết
2.1 Khổ 1, 2

- Tổ chức Thảo luận nhóm:

a. Khổ 1

- 2 câu đầu:
+ Nhóm 1: Phân tích những
+ những trạng thái đối nghịch của sóng ->
trạng thái của sóng, từ đó cảm

tâm trạng phức tạp của người phụ nữ khi yêu
nhận về tâm trạng của người phụ
nữ khi yêu.
+ Từ ngữ: * sử dụng các cặp tính từ trái
nghĩa, đặt sóng đôi với nhau -> thủ pháp đối lập
+ Nhóm 2: Cách sử dụng, sắp
làm nổi bật cảm xúc phong phú, phức tạp trong
xếp từ ngữ và cách ngắt nhịp trong
trái tim người phụ nữ
hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý?
* liên từ và điệp 2 lần -> đối cực nhưng lại
+ Nhóm 3: 2 câu thơ sau bộc
hòa quyện như một tất yếu
lộ quan niệm gì về tình yêu của XQ
* sắp xếp dữ dội trước dịu êm, ồn ào trước
? Nó gợi cho em liên tưởng đến
câu thơ nào trong đoạn trích Thề lặng lẽ -> con sóng nữ tính, bản năng người phụ nữ
nguyền (trích Truyện Kiều –
* ngắt nhịp: đây là 2 câu thơ đặc biệt trong một
Nguyễn Du) ?
bài thơ hầu như không ngắt nhịp trong mỗi dòng,
+ Nhóm 4: Theo em, quan nhịp 2/3 đều đặn diễn tả những con sóng nhịp nhàng
niệm về tình yêu của XQ có sự
24


đồng điệu nào với quan niệm tình vỗ vào bờ rồi lại trườn ra biển cả như nhịp trái tim
yêu của phụ nữ hiện đại hôm nay thổn thức, sôi nổi trong tình yêu.
không? (cho ví dụ cụ thể)
- 2 câu sau:

=> Các nhóm thảo luận, cử
+ Quan niệm về tình yêu của XQ: tình yêu
đại diện trình bày, lớp nghe, nhận trước hết cần sự thấu hiểu; người phụ nữ sẵn sàng
xét, bổ sung. GV đánh giá, cô đọng rời bỏ tình yêu chật hẹp để tìm đến một tình yêu
ý chính.
bao dung, rộng lớn hơn; khát khao tự nhận thức
? Cách cảm nhận hình tượng bản thể -> quan niệm táo bạo, hiện đại
sóng ở khổ đầu và khổ 2 có gì
+ Nàng Kiều của Nguyễn Du: Xăm xăm
khác nhau
băng lối vườn khuya một mình; Vì hoa nên phải
- HS phát hiện và trả lời
đánh đường tìm hoa.
? Phân tích ý nghĩa của những
từ chỉ thời gian trong hai câu đầu

- HS suy nghĩ và trả lời
? Trong 2 câu sau, cách bộc
lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình
có gì đặc biệt

+ Người phụ nữ hôm nay: độc lập, quyết
đoán và sẵn sàng chịu trách nhiệm với tình yêu
của mình (vd: xem làm mẹ đơn thân như một lựa
chọn, công khai lựa chọn đó mà không cho rằng
nó ảnh hưởng đến nhân cách hay danh dự)
b. Khổ 2:

- 2 câu đầu: + Nếu ở khổ 1, sóng được miêu
tả theo không gian thì tới khổ 2, sóng được soi

? Câu thơ gợi liên tưởng đến chiếu trong thời gian.
câu ca dao nào cũng diễn tả tâm
+ Từ chỉ thời gian ngày xưa và ngày sau gợi
trạng bồi hồi trong tình yêu
lên một ý niệm vĩnh hằng, muôn thuở -> diễn tả
* GV sử dụng kênh hình để khát vọng tình yêu khôn dứt, khôn nguôi, trường
đưa ra câu hỏi thảo luận liên hệ tồn cùng thời gian, là khát vọng muôn đời của
thực tế: GV cho HS xem một đoạn nhân loại
video ngắn về tình yêu của thế hệ
- 2 câu sau:
trải qua chiến tranh ác liệt, đến bây
giờ cô vẫn chăm sóc, yêu thương
+ Nhân vật trữ tình trực tiếp bộc lộ khát vọng
chú dù chú phải nằm một chỗ do tình yêu như một lời thú nhận chân thành, giản dị
thương tật (cắt từ chương trình
mà tha thiết: đó là khát vọng thường trực, mãnh
Giai điệu tự hào – Trái tim người liệt nhất của tuổi trẻ
phụ nữ, tháng 3/2019 của VTV1).
+ Có thể liên tưởng đến câu ca dao Nhớ ai
Sau đó, tiếp tục cho HS xem một số bổi hổi bồi hồi / Như đứng đống lửa, như ngồi
hình ảnh về những câu chuyện cổ đống than
tích tình yêu thời hiện đại: chuyện
tình ôm nhau trên chiếc xe lăn; cô
gái xinh lấy chồng lùn; tình yêu của
cặp “người đẹp – quái
25


×