Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SKKN một số biện pháp cho trẻ 4 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học đạt kết quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.33 KB, 17 trang )

Một số biện pháp cho trẻ 4-5 tuổi làm quen với
tác phẩm văn học đạt kết quả cao
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuổi mầm non là lứa tuổi cần sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ và
cô giáo. Ở giai đoạn này, những mối quan hệ, có nh ững sự vật, hiện t ượng
xảy ra xung quanh trẻ đều có tác động rất lớn đến bản thân tr ẻ. Vì v ậy
cha mẹ và cô giáo đều mong muốn dạy trẻ những điều hay, lẽ ph ải, nh ững
thói quen tốt và những hành vi có đạo đức để hình thành nhân cách cho tr ẻ
sau này.Thụng qua hoạt động dạy và học dưới hình thức nh ư tạo hình,
hoạt động với đồ vật, môi trường xung quanh… sẽ giúp trẻ phát tri ển trí
tuệ, óc sáng tạo, nhân cách con người “Làm quen văn học” là một hoạt
động không thể thiếu được đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, và thông qua
hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học là loại hình ngh ệ thu ật, đ ặc
sắc, nghệ thuật ngôn từ không thể thiếu được trong đời sống con ng ười.
Đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ, từ buổi sơ khai, từ lúc mới chào đ ời r ồi
đến tuổi thơ ấu trẻ đó sống chan hòa trong khúc hát lời ru “ầu ơ” đầy yêu
thương tận tình của mẹ, bà… và đó cũng là cánh cửa mở ra chân tr ời nh ận
thức cho trẻ.
Là một giáo viên mầm non, tôi nhận thấy việc giáo dục trẻ thông
qua các bài thơ, câu truyện thật gần gũi và dễ hiểu đối với trẻ. Qua nh ững
bài thơ, câu chuyện có ý nghĩa giáo dục giúp trẻ hiểu việc gì tốt, vi ệc gì
không tốt, việc gì nên làm, việc gì không nên làm một cách d ễ dàng. Chính
vì vậy sẽ giúp cho hứng thú với các tác phẩm văn h ọc t ừ đó c ảm nh ận và
hiểu được nội dung giáo dục của tác phẩm đó.
Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành ở trẻ nh ững tình
cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẫm mỹ, phát triển trí tưởng tượng


như: Lòng yêu thiên nhiên ở cỏ, cây hoa lá, lòng kính tr ọng yêu th ương g ần
gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như ông bà, bố mẹ, cô
giáo, anh chị em. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm


những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù h ợp v ới n ội dung
của tác phẩm. Thông qua sự hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời
trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện được.
Khi cho trẻ làm quen văn học có tầm quan trọng trong vi ệc phát tri ển
nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc th ơ kể chuy ện
làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt
mạch lạc. Các tác phẩm thơ chuyện chỉ có th ể phát huy tác d ụng c ủa nó
khi cô biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác gi ả và n ội dung tác
phẩm thông qua các hình thức nghệ thật hấp dẫn, phong phú, đa d ạng.
Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân- tự tin- đ ộc l ập- sáng
tạo- hình thành tư duy- khả năng ghi nhớ có chủ đích, nh ững tình c ảm đ ạo
đức tốt đẹp có khả năng hoạt động nghệ thuật, sáng tạo.
Cho trẻ làm quen với văn học ở trường mầm non được diễn ra rất linh
hoạt theo hai hình thức chính: hình thức trong giờ hoạt động chung và các
hoạt động khác. Việc lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen v ới văn h ọc d ựa
trên đặc điểm tình hình của trẻ, với tác phẩm văn h ọc trẻ đã bi ết hay tác
phẩm văn học trẻ chưa biết, tác phẩm dài hay ngắn buộc giáo viên ph ải
lựa chọn hình thức cho phù hợp. Ngoài ra giáo viên cũn ph ải d ựa vào s ự
hứng thú của trẻ đối với mỗi tác phẩm văn học và điều kiện cơ sở vật
chất của trường của lớp cũng là một yếu tố để giáo viên quyết định s ử
dụng hình thức nào là đạt hiệu quả nhất đối với trẻ.
Chính từ lẽ đó tôi luôn luôn trăn, suy nghĩ làm thế nào đ ể cho tr ẻ làm
quen văn học đạt kết quả tốt đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi 4-5 tuổi. Vì vậy tôi
đã lựa chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng tổ chức
hoạt động làm quen văn học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi”


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện phát

triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt g ắn
gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không nh ững th ế mà việc d ạy tr ẻ
làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh
giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng t ư duy độc l ập
trong suy nghĩ.
Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu quý ng ười hiền
lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bố, biết nh ường nh ịn
em nhỏ.
Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao
gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đ ạt, truy ền đạt


trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế gi ới loài v ật,
cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn th ấy đ ược,
cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ nh ư làng quê,
cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố,…Qua tác ph ẩm văn
học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, nh ững tình cảm
gia đình, tình bạn tình cô cháu,…Trẻ cũng dần nh ận ra cú một xã h ội ràng
buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình
làng nghĩa xóm. Văn học có thể cần đề cặp đến nh ững l ực l ượng siêu
nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ s ứ và cả nh ững phép
màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đ ối tượng miêu t ả
của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh th ần.
Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu
biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng miêu tả cuộc sống xung quanh
phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đ ầu trẻ sẽ
nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình th ức giữa các th ể lo ại
thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đ ặc s ắc của cách
diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm cũng cần giúp trẻ phân biệt được hình
tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn h ọc

như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh…, giúp trẻ trao đ ổi nh ững đi ều đó
được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát
triển đời sống tinh thần của trẻ.
Thông qua các tác phẩm văn học , trẻ bước đầu đã sử dụng chính xác
các từ chỉ tính chất không gian như: Cao thấp, dài ngắn, r ộng h ẹp, các t ừ
chỉ tốc độ như : nhanh- chậm,các từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng ,đen,
ngoài ra các từ có khái niệm tương đối nh ư: hôm qua, hôm nay, ngày mai,
trẻ dùng chưa chính xác. Một số trẻ biết sử dụng các t ừ chỉ màu s ắc nh ư
:Xám, xanh lá cây, tím, da cam.


Khi cho trẻ làm quen với tác phẩn văn học giúp trẻ dần mở rộng nh ận
thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát tri ển
ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỹ năng đ ọc và k ể tác
phẩm.
2.Thực trạng vấn đề.
Năm học 2019-2020 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 4-5 tuổi tại
của trường: Là lớp 4-5 tuổi với số cháu 46, trong đó 17 cháu n ữ, 29 cháu
nam, với độ tuổi đồng đều , 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên,
đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát tri ển ngôn
ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc s ống xung
quanh trẻ . Đó là một thuận lợi lớn để tôi rèn luy ện phát tri ển kh ả năng
của trẻ đặc biệt đưa trẻ đến với môn làm quen với văn học giúp tr ẻ cảm
thụ môn làm quen văn học đạt kết quả cao nhất.
Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen làm quen v ới tác
phẩm văn học và làm quen với chữ viết, giáo viên đã th ực s ự có nhiều đầu
tư vào việc nâng cao các phương pháp, hình th ức cho trẻ làm quen v ới tác
phẩm văn học đã chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và d ạy trẻ
kể lại chuyện, kể sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú.
Song việc dạy trẻ đóng kịch còn còn có nhiều hạn ch ế. Giáo viên ch ưa ch ủ

động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch cho trẻ - n ếu có
thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các gi ờ chơi, các buổi sinh hoạt thì
hầu như chưa có, sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa h ọc, ch ưa có sáng
tạo trong việc chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bản sân khấu, không
tạo ra được tính kịch - sự kiện - sự biến không thu hút đ ược s ự chú ý c ủa
trẻ
Bên cạnh khả năng cảm nhận các tác phẩm văn th ơ chuyện của trẻ
còn hạn chế giọng đọc ngọng và cử chỉ, điệu bộ, minh họa ch ưa bộc l ộ


được cảm xúc. Trẻ chưa hiểu biết về vốn từ con nghèo nàn, ch ưa bi ết cách
diễn đạt câu đúng ngữ pháp, khả năng thể hiện lại các tác phẩm còn kém.
Là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm và đầy lòng nhiệt tình, yêu
nghề mến trẻ bản thân tôi xác định được mục đích, ý nghĩa, tầm quan
trọng của việc phát triển mọi mặt cho trẻ từ việc cho trẻ làm quen v ới các
tác phẩm văn học cho đề đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhất cho tr ẻ.
Nắm bắt được tình hình thực tế của lớp, tôi quyết định tìm ra một số biện
pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động làm quen v ới văn h ọc cho tr ẻ.
Bước đầu tôi đi khảo sát kết quả trên trẻ
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2019 - 2020
Số
Số trẻ đạt

Số
lượng
trẻ
N=46

trẻ


đạt

Nội dung
N
Diễn đạt câu đúng ngữ

%

N

%

pháp.
26
Khả năng thể hiện lại tác

57

20

43

phẩm
29
Vốn từ của trẻ, nói câu có

64

17


36

nghĩa đầy đủ.

55

21

45

25

chưa

Đọc thơ kể chuyện theo
trí nhớ.
20
40
26
60
Nhìn vào bảng khảo sát, tôi thấy khả năng làm quen v ới tác ph ẩm văn h ọc
của trẻ vẫn còn nhiều hạn chế. Khả năng trẻ diễn đạt còn kém, v ốn t ừ
của trẻ, nói câu đủ nghĩa chưa nhiều. Đặc biệt khi cho trẻ kể chuyện theo
trí nhớ rất ít trẻ có thể kể lại được,cũng như khả năng diễn đạt câu đúng
ngữ pháp còn gặp nhiều khó khăn.
Và một điều đặc biệt nữa, trước khi đi vào nghiên cứu đ ề tài này, tôi th ấy
việc cho trẻ làm quen với văn học vẫn diễn ra theo hai hình th ức chính là


trong tiết học và ngoài tiết học nhưng chưa có y ếu tố sáng t ạo, các hình

thức cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học thường lặp đi l ặp l ại trong
các tiết học dẫn đến việc trẻ ít hứng thú với việc kể chuy ện, đọc th ơ. V ới
hình thức đơn điệu sẽ làm trẻ không chú ý lên cô, tập trung vào vi ệc khác
hoặc buồn ngủ.
Xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm tâm sinh lý c ủa tr ẻ,
muốn đưa chất lượng học tập của trẻ đạt hiệu quả cao. Tôi đã đi sâu
nghiên cứu tìm tòi, tham khảo… những tài liệu có nội dung v ề đ ề tài, h ọc
hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nh ận th ức đúng đắn,
hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ th ể l ớp. Xác
định rõ những khó khăn thuận lợi của trường, của lớp của bản thân. T ừ đó
tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất
3. Các biện pháp tiến hành
3.1.Biện pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng.
Muốn dạy tốt môn làm quen với văn học, thứ nhất là trong giờ kể chuy ện
lôi cuốn được trẻ thì tôi luôn nắm vững, nắm chắc bài d ạy, sao cho có l ời
hay ý đẹp ngắn gọn dễ hiểu để dẫn dắt trẻ lôi cuốn tr ẻ say s ưa v ới gi ờ
học.
Tôi luôn tích cực trau dồi kiến thức tự học tự bồi d ưỡng v ề chuyên môn
nghiệp vụ như: học tập chuyên môn hè do phòng mở, đi dự hội giảng ở
trường, ở cụm, ở huyện, học hỏi chị em đồng nghiệp có chuyên môn v ững
vàng hơn, tôi nghĩ rằng có tâm huyết với nghề nghiệp, yêu nghề mếm trẻ
và có kế hoạch tháng, hàng tuần, hàng ngày một cách khoa h ọc và tìm tòi
những phương pháp linh hoạt sáng tạo, mạnh dạn đưa vào áp dụng trong
tiết dạy.
Để thực hiện tốt các biện pháp tôi còn tham khảo tài liệu, tập san xem vô
tuyến truyền hình, học hỏi các bạn đồng nghiệp, qua m ột số giờ d ạy m ẫu,
giờ dạy giỏi, từ đó người giáo viên có đầy đủ kiến th ức để thực hiện đúng


phương pháp, có cách dạy đảm bảo phù hợp với đ ặc thù c ủa môn ngh ệ

thuật văn học, đồng thời để tiến hành giờ dạy có hiệu quả cao, cô phải rèn
cho mình có một giọng kể diễn cảm, ngắt giọng, cử ch ỉ hành đ ộng, l ời nói
của từng nhân vật, thể hiện đúng ngữ điệu giọng điệu một cách nghệ
thuật, rèn cho mình có tác phong sư phạm, xử lý tình huống trong gi ờ d ạy
một cách khéo léo tinh tế

( Hình ảnh 1)

3.2. Biện pháp 2: Làm đồ dùng đồ chơi cho hoạt động
Trong giảng dạy thực tế ở lớp hàng ngày tôi nhận thấy việc làm đ ồ dùng
đồ chơi và sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ kể chuy ện, hoạt đ ộng ở
các góc theo từng chủ đề, sự kiện là rất cần thiết, vì đ ặc thù của trẻ m ầm
non, là thích tìm kiếm khám phá những cái mới lạ có màu sắc hấp d ẫn,
kích thước hợp lý, do đó tôi đã học hỏi sưu tầm nghiên c ứu làm nhi ều đ ồ
dùng đồ chơi để gây sự chú ý bằng đồ dùng trực quan sinh đ ộng, nên
trước khi vào bài mới tôi đã chuẩn bị rất công phu về đồ dùng đồ ch ơi đ ẹp
và hấp dẫn cho phù hợp với từng đề tài.
Ví dụ: qua câu chuyện “quả bàu tiên” tôi vẽ một chú bé nghèo, một
dàn chim én, môt ngôi nhà, một quả bầu và một tên địa chủ, chu ẩn b ị đ ố
dùng theo cốt chuyện màu sắc hài hòa đẹp mắt để gây h ứng thú cho trẻ
trong giờ học, hay dùng đất nặn các mô hình các nhân vật trong chuy ện
luôn thay đổi đồ dùng đồ chơi, thay đổi không khí h ọc thu hút trẻ vào gi ờ
học tốt, từ việc làm nhiều đồ dùng đồ chơi ph ục v ụ trong các gi ờ k ể
chuyện sao cho đẹp mắt, tôi dùng len làm các hình người vẽ các b ức tranh
lên màu cho hài hòa đẹp mắt khâu các con rối bằng vải.
Như vậy việc sử dụng và làm đồ dùng đồ chơi vô cùng quan tr ọng
đối với trẻ, nhưng trong quá trình sử dụng cô giáo ph ải dùng đúng lúc
đúng chỗ, đồ dùng phải tạo nhiều kiểu khác nhau và phải đảm bảo tính s ư
phạm thẩm mỹ giáo dục cao


( Hình ảnh 2)


3.3. Biện pháp 3: Lồng ghép tích hợp môn học khác trong quá trình cho tr ẻ
hoạt động với văn học.
Việc tích hợp các nội dung khác vào hoạt động làm quen v ới văn h ọc
là vô cùng cần thiết tất cả đều hướng vào sự phát triển toàn diện của tr ẻ,
lồng ghép tích hợp các hoạt động tiết học là hình th ức đ ổi m ới giáo d ục
phù hợp thu hút được sự tập trung chú ý của trẻ, trẻ sẽ không th ấy nhàm
chán, trẻ tiếp thu được kiến thức của nhiều bộ môn. Điều quan tr ọng là
nâng cao chất lượng cho hoạt động chính, khi l ồng ghép tích h ợp, cô giáo
phải linh hoạt lựa chọn đưa vào chỗ phù hợp để đem lại kết quả cao.
Ví dụ: khi cô kể cho trẻ nghe câu chuyện “Chú dê đen” tôi dẫn dắt vào
bài bằng bài hát “Đố bạn”.
Tôi đưa bức tranh các con vật sống trong rừng cho trẻ quan sát, là cho
trẻ khám phá khoa học, cho trẻ đếm các con vật là làm quen v ới toán.
Cho trẻ kể tên các con vật sống trong rừng: trong quá trình kể chuy ện
“Chú dê đen” tôi chuẩn bị “Dê đen” “Dê trắng” “Một chú sói ” làm bằng gỗ ở
dưới gắn nam châm, một sa bàn có mô hình cảnh núi r ừng cây c ối, cây c ỏ
suối nước, khi giới thiệu bài tôi luồn tay xuống dưới để điều khi ển các con
vật theo nội dung cốt truyện.
Dựa vào nội dung chuyện, tôi trò chuyện v ới tr ẻ phân tích và gi ảng
giải cho trẻ hiểu hoặc đặt câu hỏi đàm thoại, sử dụng tranh ảnh, đ ồ dùng
trực quan để giới thiệu, như vậy sẽ tạo cho trẻ hứng thú, có tác dụng giúp
trẻ nhanh chóng làm quen với câu chuyện.
Ví dụ: trong câu chuyện “Ai đáng khen nhiều hơn” tôi đặt câu hỏi “Thỏ
anh lên rừng hái gì về cho mẹ” tôi thấy trẻ phát âm chữ “L” thành chữ “N”
tôi cho trẻ phát âm lại nhiều lần theo tôi “N” nấm, cháu sẽ phát âm đúng,
tôi theo dõi trong lớp cháu nào phát âm chưa chuẩn còn ngọng, tôi uốn n ắn
sửa sai cho trẻ ngay.

Ví dụ tôi kể chuyện “Ai đáng khen hơn nào”




Tôi đưa ra các nhân vật trong chuyện



Tôi cho trẻ quan sát từng nhân vật “Khám phá khoa học”



Cho trẻ đếm các nhán vật “Làm quen với toán”
Tôi đặt câu hỏi đàm thoại “Thỏ anh lên rừng hái gì về cho mẹ” tôi thấy trẻ
phát âm chữ “L” thành chữ “N” tôi cho trẻ phát âm lại nhiều l ần theo tôi
“N” nấm, cháu sẽ phát âm đúng, tôi theo dõi trong lớp cháu nào phát âm
chưa chuẩn còn ngọng, tôi uốn nắn sửa sai cho trẻ ngay.
Việc lồng ghép tích hợp các môn học khác vào tiết học làm quen v ới
văn học đặc biệt là giờ kể chuyện đã đem lại chất lượng rất cao, vì v ậy đã
thu hút 100% trẻ hứng thú trong giờ kể chuyện, tuy nhiên chúng ta không
nên lạm dụng quá nhiều khiến tiết học không mang đúng bản ch ất c ủa
nó ( Hình ảnh 3)
3.4. Biện pháp 4: Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Đối với trẻ mẫu giáo hoạt động chủ yếu là vui chơi, xong việc “ học mà
chơi, chơi bằng học” của trẻ phải được tiến hành ở mọi lúc mọi nơi.
Tôi dạy trẻ làm quen với các tác phẩm văn h ọc vào hoạt đ ộng góc,
hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều, dạo ch ơi thăm quan, vì d ạy tr ẻ ở
mọi lúc, mọi nơi tôi dạy được tỉ mỉ hơn, những cháu khá tốt tôi cho các
cháu phát huy hết khả năng của mình, những cháu ch ưa đ ạt yêu cầu tôi

dạy tỉ mỉ hơn để trẻ theo kịp các bạn. Để dạy trẻ mọi lúc m ọi n ơi đ ược
tốt, tôi còn phải tạo môi trường trong sạch thoáng mát thoải mái.
Hoạt động văn học còn là phương tiện dẫn dắt cho trẻ các hoạt động
giáo dục khác rất có hiệu quả.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động góc tôi th ực hiện cho trẻ ch ơi ở các góc
theo từng chủ đề tôi treo tranh lên cho trẻ quan sát. Trong truy ện ai đáng
khen nhiều hơn, chuẩn bị 3 mũ thỏ, mũ thỏ mẹ tai to, mũ th ỏ anh tai v ừa,
mũ thỏ con tai nhỏ, mỗi mũ một màu để gây cho trẻ ham thích.


Khi thời gian dạy các tiết học ở trên lớp chỉ đủ cho cô giáo truy ền thụ các
kiến thức cơ bản cho trẻ, tôi tận dụng thời gian gây hứng thú cho trẻ qua
các giờ đón trẻ.
Ví dụ: Khi đón trẻ tôi quan sát bức tranh treo trên tường, trẻ tự kể
theo bức tranh mà trẻ thích, tôi kể cho trẻ câu chuyện của chủ đề sau.
Ví dụ: Gần hết giờ chủ đề 1 tôi lại kể câu chuyện ở ch ủ đề 2 cho tr ẻ
nghe và làm quen với câu chuyện mới, tôi cho trẻ kể theo 5 – 6 trẻ t ạo
thành một lớp học, trẻ tự điều khiển cứ hết cháu này l ại đến cháu khác
kể, tôi quan sát giúp trẻ phát âm chính xác, phát triển trí nh ớ, giáo d ục trẻ
về tinh thần tập thể, trẻ được hoạt động thoải mái, lúc này cô không gò ép
trẻ mà tới gần chỗ trẻ gợi ý cho trẻ để kể chuyện và hỏi tr ẻ câu chuy ện
gì?
Với các hoạt động ngoài trời, trẻ được quan sát thiên nhiên, con v ật,
cây cối, hiện tượng thời tiết, tôi đã lồng ghép các tác ph ẩm văn học vào k ể
cho trẻ nghe
Ví dụ: cho trẻ quan sát bụi tre, tôi nói ích lợi của tre, ai là người trồng
lên bụi tre này, tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện “Thánh Gióng” đã nhổ tre
đánh giặc, cô cho trẻ cắt dán trang trí quần áo (dạy trẻ môn tạo hình).
Cho trẻ quan sát các con vật trong gia đình
Ví dụ: cho trẻ quan sát con gà con vịt, con lợn, tôi cho tr ẻ thi nhau k ể

chuyện sáng tạo theo ý hiểu của trẻ qua quan sát một số con vật nuôi
trong gia đình của cháu tôi và các bạn cùng nghe, các cháu r ất hăng hái h ọc
nên vui tươi nhộn nhịp, các cháu hăng hái học tập và trẻ càng gần gũi g ắn
bó tình cảm với nhau hơn.
Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi có ý nghĩa quan trọng, nó không th ể thi ếu
được trong việc nâng cao chất lượng cho trẻ hoạt động làm quen v ới văn
học.(Hình ảnh 4)
3.5. Biện pháp 5: Sử dụng các trò chơi


Tổ chức các hoạt động thông qua hoạt động vui ch ơi, các trò ch ơi là
phương pháp hiệu quả nhất đối với trẻ mầm non trong hoạt động làm
quen với các tác phẩm văn học, ca dao, đồng dao…Các trò ch ơi có vai trò
quan trọng trong việc giúp trẻ phát triển năng khiếu kể chuyện.
Ví dụ: tôi cho trẻ đóng kịch qua câu chuyện “Tấm Cám” cô cho 1 trẻ
đóng vai cô Tấm từ trong quả thị bước ra và 1 trẻ đóng vai bà cụ đang têm
trầu, để giúp trẻ phát triển trí tuệ, tính cách đạo đức, tình c ảm đ ối v ới con
người.
Tôi cho trẻ chơi trò chơi ghép tranh các nhân vật trong câu chuy ện đ ể
giúp trẻ nhanh nhẹn, nhớ các nhân hơn, ( VD: Ghép tranh, nối các nét v ới
nhau, làm rối tay….
Ngoài ra trong chương trình giáo dục mầm non còn giới thiệu các loại trò
chơi minh họa nội dung câu chuyện bắt trước tiếng kêu của các con v ật,
trò chơi đóng vai, các rò chơi còn tạo cơ hội cho tr ẻ tập luy ện kỹ năng c ảm
nhận được năng khiếu của văn học.
Để biện pháp sử dụng các trò chơi đạt được hiệu quả cao trong hoạt
động làm quen với văn học thì người giáo viên khi sử dụng trò ch ơi nào
cần phải nắm chắc nội dung, tác dụng để rèn cho trê có năng khi ếu khi k ể
chuyện . ( Hình ảnh 5)
Qua những ví dụ minh hoạ ở trên, tôi thấy hình thức sử dụng trò ch ơi

trong giờ hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là hình th ức r ất c ơ b ản
giúp giáo viên đạt được mục đích của giờ hoạt động, giúp trẻ hứng thú và
ghi nhớ nội dung của tác phẩm văn học
3.6 Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh.
Tôi thường xuyên kết hợp với phụ huynh cho mẹ trẻ để đóng góp sưu tầm
các sách báo văn học các nguyên liệu để xây dựng góc sách báo mang n ội
dung văn học, ở góc sách tôi gợi ý cho trẻ xem các sách tranh chuy ện, tr ẻ


nhớ nội dung cốt truyện mà cô đã kể cho trẻ nghe. Trên tường tôi treo các
bức tranh thể hiện các nội dung câu chuyện cổ tích theo từng ch ủ đ ề, s ự
kiện mà trẻ đã được nghe.
Bên cạnh đó tôi trao đổi với phụ huynh về các câu truy ện, bài th ơ, ca dao,
đồng dao…các con đã được học hoặc đã được làm quen ở lớp đ ể trẻ đ ược
ôn luyện ở nhà. (Hình ảnh 6)
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Đối với trẻ:
Qua việc khả sát vào cuối năm đã cho thấy tỉ lệ đạt khá cao. Trẻ h ứng
thú tham gia vào các hoạt động làm quen với văn học, nhanh thuộc truy ện,
thuộc thơ, biết đọc kể diễn cảm, kỹ năng giao tiếp, phát triển ngôn ng ữ
mạch lạc có nhiều tiến bộ. Nhiều cháu có năng khiếu: Bình An, Việt
Hoàng, Quang Huy, Nguyễn Phương Linh, Quang Dương, Kiên Anh , H ồng
Hạnh, Tử Minh,…
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm học 2019 - 2020 t ại tr ường
mầm non tôi đang công tác như sau:
Số
Số trẻ đạt

Số
lượng

trẻ
N=46

trẻ

chưa

đạt

Nội dung
N
Diễn đạt câu đúng ngữ

%

N

%

pháp.
40
Khả năng thể hiện lại tác

87

6

13

phẩm

38
Vốn từ của trẻ, nói câu có

83

8

17

nghĩa đầy đủ.
43
Đọc thơ kể chuyện theo

93,4

3

6,5

trí nhớ.
37
Diễn đạt câu đúng ngữ

80

9

20

87


6

13

pháp
4.2. Đối với giáo viên:

40


Qua việc thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cho thấy hiệu quả của
việc thay đổi, vận dụng một số hình thức cho trẻ làm quen với văn h ọc r ất
cần thiết và không thể thiếu trong quá trình tổ chức hoạt đ ộng c ủa cô và
trẻ. Tôi thấy việc thực hiện đề tài này không chỉ phù h ợp v ới l ớp tôi mà
còn có thể triển khai ở các lớp mẫu giáo nhỡ khác nói riêng cũng nh ư l ứa
tuổi mẫu giáo nói chung, có thể tiếp tục thực hiện trong nh ững năm sau.
Qua đó đã giúp tôi dễ dàng trong việc th ực hiện các yêu cầu kỹ năng c ần
đạt trong độ tuổi trẻ, tạo cho trẻ niềm vui, còn sửa ngọng cho một số trẻ (
Gia Minh, Tiến Tài, Cao Huy, Thành Đạt...)sự hứng thú khi tham gia các ho ạt
động cũng như tạo sự gần gũi, yêu thương giữa cô và trẻ.
4.3. Đối với cha mẹ trẻ:
Nhiều phụ huynh đã tích cực phối hợp với giáo viên trong vi ệc cho
trẻ làm quen với văn học bằng việc sử dụng các tờ rơi để ôn luyện, cùng
cố cho trẻ, tích cực hưởng ứng sáng tác và sưu tầm thơ truyện.
100% phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi tranh
ảnh, sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp ph ần phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ hứng thú hơn khi học môn làm quen
văn học.



III. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bác Hồ có lời căn dặn với giáo viên mẫu giáo làm mẫu giáo t ức là thay m ẹ
dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ các cháu nh ỏ hay
quấy, phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng nh ư
trồng cây non, trồng cây non tốt thì sau này cây nên t ốt, d ạy tr ẻ nh ỏ t ốt thì
sau này các cháu thành người tốt.
Áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với môn văn học, qua
các giờ học tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất thích nghe k ể chuy ện, đ ọc
thơ, đọc đồng dao. Thông qua đó mà việc phát triển ngôn ngữ đạt hiệu
quả cao.
Trong khi nghe kể chuyện, kể lại câu chuy ện, đ ọc thu ộc th ơ và tr ả
lời các câu hỏi của cô. Vốn từ của trẻ được tăng lên r ất nhiều đ ồng th ời
trẻ biết sử dụng các loại câu phong phú và đa dạng.
Đặc biệt nổi bật lên có 40% số trẻ trong số các trẻ đ ạt loại khá có
khả năng ngôn ngữ rất tốt, hiểu được lời nói của mọi người, biết tr ả l ời


các câu hỏi, biết kể lại truyện, thuộc các bài thơ trong và ngoài ch ương
trình. Vốn từ phong phú và dần dần hoàn thiện theo độ tuổi.
Sau một năm nghiên cứu và thử nghiệm đề tài, tôi thấy việc lựa chọn hình
thức cho trẻ làm quen với văn học là rất quan trọng. Nó quy ết định đến s ự
thành công của giáo viên khi tổ chức các hoạt động cho tr ẻ làm quen v ới
văn học, đồng thời giáo viên cũng rút ra được nhiều kinh nghi ệm sau m ỗi
lần tổ chức những hoạt động đó. Và trong những năm sau, khi tiếp tục th ử
hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cũng như mục đích của các hoạt đ ộng sẽ
đạt tốt hơn.
Tích cực sưu tầm các trò chơi, câu đố, bài thơ câu chuy ện trong và
ngoài chương trình cho trẻ được học ở mọi lúc mọi nơi.

Tích cực sưu tầm tranh ảnh , sách báo…làm đồ dùng đồ ch ơi t ự tạo
xây dựng môi trường cho trẻ học tập.
Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt
yêu cầu cần đạt của giáo viên.
2. Đề xuất – kiến nghị
* Đối với Nhà trường:
- Ban giám hiệu nhà trường tiếp tục tổ chức các buổi kiến tập những hoạt
động sáng tạo để giáo viên học hỏi.
* Đối với Phòng giáo dục:
- Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến th ức, kỹ năng cho giáo viên trong
phương pháp phát triển ngôn ngữ.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng nhằm nâng cao ch ất l ượng t ổ
chức hoạt động làm quen văn học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. R ất mong các
bạn đồng nghiệp, các nhà lãnh đạo bổ xung, góp ý cho tôi đ ể làm phong
phú thêm những kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 2 năm 2020


Người viết
Nguyễn Thị Nguyệt



×