Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử ở lớp 4a2 trường tiểu học nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.66 KB, 21 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có một lịch sử lâu đời với nhiều chiến công huy hoàng rất
đáng tự hào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như Bác Hồ đã từng nói
“ Dân ta phải biết sử ta cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Đã là người Việt
Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình vì đó là đạo lí muôn đời của dân
tộc “ Uống nước nhớ nguồn”.
Thông qua môn Lịch Sử học sinh tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, của đạo
lí làm người Việt Nam; vì chính đó là cái gốc của mọi sự nghiệp lớn hay nhỏ của dân
tộc không phải chỉ ở thời xưa mà cả ngày nay và mai sau.
Thế nhưng, trong nhiều năm qua, do những nguyên nhân khách quan ( khó
khăn về kinh tế, xã hội) và chủ quan ( nhận thức, quan niệm không đúng), chất lượng
học tập lịch sử ngày càng giảm sút, đến mức báo động. Nhiều thanh niên không biết
Hùng Vương là ai. Nhiều học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên không biết về các nhân
vật, sự kiện lịch sử đặt tên cho các đường phố, mà họ đang sống hay rất quen thuộc.
Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế và để giúp
học sinh theo dõi tiến trình lịch sử một cách hệ thống và ghi nhớ một số sự kiện lịch
sử, nhân vật lịch sử một cách chặt chẽ. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi băn khoăn
suy nghĩ phải làm gì và làm thế nào để các em có hứng thú học tập nhất là đối với
phân môn lịch sử. Chính vì vậy tôi nhận thấy cần phải có những biện pháp thiết thực
và hữu hiệu để tăng cường tính tích cực hóa học tập của học sinh, giúp các em nắm
vững kiến thức môn này. Hình thành nhân cách cho mỗi học sinh hiểu và yêu thương,
kính trọng, tôn vinh các anh hùng dân tộc, yêu quý tôn trọng các chiến công hiểm
hách hào hùng của ông cha ta, các di tích lịch sử lừng danh thế giới, từ đó tăng thêm
lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần xây dựng và ý thức bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 ở lớp 4A2 Trường Tiểu học
Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Nhằm thay đổi cách thức, phương pháp học tập của học sinh
1



lớp 4 chuyển từ học tập thụ động ghi nhớ kiến thức là chính sang học tập chủ động
sáng tạo, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn.
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở trường Tiểu học
Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng. Tôi thu thập và xử lí thông tin nhằm tìm ra những biện
pháp cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4 cho học sinh. Từ
đó giúp các em yêu thích và ham học Lịch sử hơn. Đồng thời với đề tài này, tôi mong
muốn được nâng cao nhận thức của bản thân về việc dạy học Lịch sử cho học sinh,
tìm ra các biện pháp khắc phục tồn tại, khó khăn, giúp giáo viên soạn giảng linh hoạt,
trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành kỹ năng học Lịch sử hiệu quả.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Với sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
Lịch sử lớp 4 ở lớp 4A2 Trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Tôi đi vào nghiên
cứu nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 4.
4. Giới hạn của đề tài:
Nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 4, áp dụng cho học sinh lớp 4A2 và có
thể áp dụng cho học sinh toàn khối 4 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát: bằng các giác quan tiến hành thu thập những biểu hiện
của đối tượng cần nghiên cứu dưới cả hai hình thức là quan sát trực tiếp và quan sát
gián tiếp.
- Phương pháp đàm thoại: Tôi đã vận dụng thông qua trò chuyện trực tiếp và cả
gián tiếp để nghiên cứu đối tượng của đề tài.
- Phương pháp điều tra: Thông qua các câu hỏi để thăm dò phát hiện xem đối
tượng nghiên cứu của đề tài có hứng thú học môn toán không, để có biện pháp bổ
2



sung.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.

3


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra
trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá
khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và
tương lai.
Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu sắc
và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng dạy kiến
thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc biệt, tư duy của
các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình bày phải hết sức coi
trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất các biện pháp hình thành
năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học.
Chương trình Lịch sử lớp 4 giúp học sinh có những kiến thức cơ bản, thiết thực
về những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, phản ánh những vấn đế về sự phát triển
các giai đoạn lịch sử, những thành tự trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm 1858.
Kiến thức lịch sử ở tiểu học không được trình bày theo một hệ thống chặt chẽ
mà chỉ chọn ra những sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử tiêu biểu cho một giai đoạn
lịch sủ nhất định đưa vào chương trình phân môn Lịch sử.
Tuy vậy, những kiến thức trong phân môn Lịch sử vẫn đảm bảo tính hệ thống
và tính logic của lịch sử ở mức độ thích hợp nhất định.

Nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 gồm 8 giai đoạn:
1. Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179).
Gồm 2 bài.
2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm
938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập.
3. Buổi đầu đọc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài.
4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài.
4


5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài.
6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1
bài ôn tập.
7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài.
8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó
có 1 bài tổng kết.
Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4, mỗi bài học là một sự kiện, hiện tượng
hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Sự chọn lọc như
vậy nhằm đảm bảo mục tiêu phù hợp với thời lượng dành cho môn học cũng như trình
độ nhận thức của học sinh. Nhưng thực tế cho thấy ở đơn vị tôi các em học môn Tiếng
Việt còn yếu, nên việc tiếp thu môn này còn hạn chế. Thời gian đầu tư vào môn lịch
sử của giáo viên còn thụ động.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trường Tiểu học tôi đang giảng dạy thuộc địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí
chưa cao, địa phương không có các di tích lịch sử, bảo tàng lưu giữ hiện vật lịch sử để
làm tư liệu giảng dạy thực tế.
Với nội dung kiến thức như trên là vừa tầm với học sinh ở lứa tuổi lớp 4. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy học sinh học phân môn lịch sử thường tiếp thu một cách thụ
động do đa số giáo viên chỉ dùng một phương pháp đã cũ là thuyết trình cốt sao cho
học sinh chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ. Chính vì vậy học sinh

không hứng thú trong các giờ lịch sử và đặc biệt không hình dung được sinh động về
các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối 4, tôi nhận thấy việc dạy học Lịch sử
còn một số hạn chế. Học sinh lớp tôi trong năm học 2018 - 2019, qua một số lần kiểm
tra, tôi thấy chất lượng học Lịch sử của các em còn hạn chế ở những điểm sau:
- Chưa biết cách theo dõi kênh chữ kết hợp kênh hình để tìm hiểu nội dung bài.
(chiếm khoảng 25%).
5


- Các em chưa biết cách học linh hoạt các nội dung chính trong một bài học.
Các em thường học máy móc các ý trong phần ghi nhớ cuối bài nên hiệu quả không
cao. (chiếm khoảng 71,4%).
- Ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, thời gian và ý nghĩa các cuộc khởi nghĩa còn
hạn chế. Học sinh thường bị nhầm lẫn giữa các sự kiện, nhân vật, thời gian lịch sử với
nhau. VD: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938; Đinh
Bộ Lĩnh lên ngôi năm 968. Học sinh lại nhớ thành : Ngô Quyền đánh tan quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng năm 968 ; Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi năm 938. (chiếm khoảng
42,8%).
Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy
suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy
thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm được lượng kiến
thức thầy giảng, rất nhanh quên. Việc dạy môn Lịch sử không hấp dẫn cho học sinh
khiến các em chỉ học thuộc lòng đối phó, để trả bài, chứ đầu thì trống rỗng.
Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng khái quát hóa
còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật, mốc lịch sử, sự
kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (dễ nhớ nhưng
lại mau quên). Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chậm, do đó ảnh hưởng đến
thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em
chưa tự tin, học thụ động.

Học sinh mới làm quen với môn Lịch sử từ lớp 4 nên bước đầu các em còn
nhiều bỡ ngỡ, chưa quen với cách giảng, cách học lớp 4.
Học sinh ngại học Lịch sử vì học Lịch sử phải ghi nhớ nhiều sự kiện, số liệu.
Trình độ tư duy của các em còn non yếu nên việc tiếp thu, lĩnh hội các kiến
thức lịch sử còn hạn chế.
Trong quá trình dạy, người giáo viên phải chuẩn bị một lượng kiến thức lớn cho
các môn Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử và Địa lí,… Thời gian lên lớp và chuẩn

6


bị giáo án đã chiếm trọn thời gian của mỗi giáo viên. Vì vậy, việc tự học, tự bồi dưỡng
kiến thức còn hạn chế. Nhiều giáo viên chưa thực sự nắm vững các kiến thức lịch sử.
Qua khảo sát đầu năm học tôi thấy số lượng học sinh thích học môn Lịch sử
còn ít, cụ thể:
TSHS

Khảo sát đầu năm

31

Yêu thích

Bình thường

Không thích

TS

%


TS

%

TS

%

2

6,45%

24

77,42%

5

16,13%

3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp.
- Tôi chọn đề tài nghiên cứu này nhằm nâng dần chất lượng học tập và hứng
thú khi học môn Lịch sử của học sinh. Để các em nắm được các kiến thức cơ bản về
môn Lịch sử lớp 4 tạo điều kiện để các em học tốt môn Lịch sử, nắm vững những kiến
thức cơ bản cần thiết để tiếp tục học ở lớp trên.
- Giúp các em tự tin hơn, ham thích học Lịch sử hơn.
Trong quá trình giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy rằng việc hình thành kiến thức
lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc cho mỗi

học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo viên
cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử cho học sinh. Vì vậy tôi mạnh
dạn xin được trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình thực hiện
đề tài
b. Nội dung và cách thức, thực hiện các giải pháp:
Qua thực tế của lớp mình, tôi đã sử dụng một số biện pháp hướng dẫn, giúp đỡ
nhằm giúp học sinh học tốt môn Lịch sử sau đây:
* Thứ nhất: Không coi Lịch sử là môn phụ
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng xứng
đáng trong nhà trường. Lịch sử chỉ được xem là một “môn phụ” trong hệ thống các
môn học, số tiết vào loại ít nhất. Phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan
7


niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí
và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học sinh
và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng đắn về môn học thì tất cả những đề xuất về
đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đều không
thể thực hiện để đem lại kết quả như mong muốn. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ
tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: “Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông
mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và
văn hóa dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể
hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch
sử càng phải được đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ
thông.”
Vì vậy, khi giảng dạy, tôi luôn quan niệm Lịch sử là một môn học quan trọng,
luôn dành thời lượng từ 35- 40 phút cho một tiết lịch sử, không cắt xén thời gian của
Lịch sử cho việc dạy các môn khác.
* Thứ hai: Tìm hiểu chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 4. Từ đó,
xác định những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài.

-Với loại bài dạy về nhân vật lịch sử: Giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh
ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp với đọc
sách giáo khoa trước ở nhà để nắm được nội dung của bài mới về cuộc sống và sự
nghiệp của nhân vật lịch sử trước khi đến lớp.
Trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử nào đó, giáo viên cần cung cấp để học sinh
biết được những nét sơ lược về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật
hoạt động.
Học sinh tự trình bày cơ sở hiểu biết đã có của mình về nhân vật lịch sử đó.
Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật có những lời đối thoại đắt giá thể
hiện phẩm chất cao quí của nhân vật, học sinh có thể tự đóng vai để diễn lại.
-Với loại bài dạy về sự kiện lịch sử: Việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu là rất quan
trọng để các em dễ hình dung, dễ nhớ, nhớ lâu các sự kiện đó. Chính vì vậy học sinh
8


phải sưu tầm tranh ảnh từ ở nhà, đọc trước sách giáo khoa kết hợp với những tư liệu
sưu tầm được hoặc do giáo viên cung cấp để nắm vững được nội dung bài.
Mỗi dạng bài đều có những phương pháp dạy học đặc trưng riêng. Điều này
xuất phát từ nội dung kiến thức và hình thức trình bày. Do đó giáo viên phải biết lựa
chọn các phương pháp dạy học cho phù hợp với nội dung của bài dạy. Chẳng hạn:
+ Đối với dạng bài về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế văn
hoá- xã hội: Giáo viên nên sắp xếp từng mảng kiến thức thành những vấn đề rồi tổ
chức cho học sinh tự tìm hiểu, tự phát hiện vấn đề thông qua phương pháp vấn đáptìm tòi, thảo luận nhóm. Với dạng bài này, cần áp dụng tối đa phương pháp sử dụng
đồ dùng dạy học. Mặt khác, việc miêu tả, giải thích, phân tích của giáo viên đóng vai
trò chủ yếu.
+ Đối với dạng bài về khởi nghĩa, chiến tranh: Phương pháp chủ đạo là kể
chuyện, miêu tả, tường thuật kết hợp với đồ dùng trực quan để tái hiện diễn biến của
cuộc khởi nghĩa hay trận đánh,..
+ Đối với dạng bài về nhân vật lịch sử thì kể chuyện lại là phương pháp chủ
đạo. Giáo viên vừa là người dẫn chuyện, kể chuyện lại vừa là người dẫn dắt, gợi ý

giúp học sinh nắm vững cốt truyện ( nội dung bài học).
+ Đối với dạng bài về kiến trúc, nghệ thuật: Bên cạnh việc sử dụng phương
pháp quan sát, vấn đáp- tìm tòi thì miêu tả, phân tích là hết sức quan trọng
+ Đối với dạng bài tổng kết, ôn tập: Tuỳ từng phần nội dung cụ thể trong bài
mà giáo viên lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Thông thường bài này là sự tổng
hợp của nhiều phương pháp.
Đối với những bài hoặc những đoạn có nhiều lời thoại, hoặc có thể xây dựng
thành một kịch bản, giáo viên nên sử dụng phương pháp đóng vai.
* Thứ ba: Chuẩn bị chu đáo cho giờ dạy - học Lịch sử.
a. Đối với học sinh:
Để giúp các em học tốt một bài lịch sử, cuối tiết dạy lịch sử trước, tôi thường
hướng dẫn các em chuẩn bị một cách chu đáo, cụ thể như sau:
9


- Trước tiên các em cần đọc thành tiếng ít nhất 3 lần, sau đó đọc thầm.
- Đọc kỹ phần giải nghĩa từ ngữ khó ở cuối bài.
- Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ đó
các em có thể nêu được những ý chính của bài học.
b. Đối với giáo viên.
Cùng với phương pháp dạy học mới nói chung, phương pháp dạy môn Lịch sử
nói riêng, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy và sự học hỏi, giúp đỡ của đồng nghiệp,
tôi nhận thấy rằng để tổ chức dạy - học thành công một tiết Lịch sử, học sinh hiểu bài
và ghi nhớ được theo mục tiêu, yêu cầu của tiết học, giáo viên cần chuẩn bị những
việc sau:
- Soạn bài cụ thể, chi tiết rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng các phương
pháp giảng dạy kết hợp với phương tiện dạy học một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ
nhàng và đạt hiệu quả.
- Nắm chắc mục tiêu, yêu cầu ở từng bài. Đọc kỹ nội dung sắp dạy, trao đổi học
tập bổ sung thêm kiến thức liên quan, dự kiến các tình huống học sinh sẽ mắc phải và

cách xử lí những tình huống đó.
- Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài Lịch sử. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù
hợp với từng đối tượng học sinh để học sinh hiểu nội dung bài một cách hiệu quả
nhất, từ đó tìm ra nội dung cần ghi nhớ.
- Liên hệ, tích hợp với kiến thức Địa lí để tăng hiệu quả dạy học.
Ví dụ: Khi dạy bài “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long”, giáo viên hỏi vì sao nhà Lý
chọn Thăng Long làm kinh đô, học sinh có thể vận dụng kiến thức về Địa lí bài Đồng
bằng Bắc Bộ để trả lời.
* Thứ tư: Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ dùng dạy học
kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử.
Học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ
của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Đặc trưng nổi bật của nhận
thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt
10


khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách
quan, không thể “phán đoán”, “suy luận”,… để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu
tiên, tất yếu của bộ môn Lịch sử trong nhà trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh
tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh
những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra
những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không
gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước hết phải kể
đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo viên dùng phương pháp
tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử. Có thể nói, chỉ có
miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái hiện được những biến cố lịch sử quan trọng,
đem đến cho học sinh những hứng thú mạnh mẽ. Do sách giáo khoa viết rất cô đọng,
trừu tượng nên tôi đã sử dụng nhiều tư liệu, kết hợp với đồ dùng trực quan (tranh ảnh,
bản đồ) để miêu tả, tường thuật. Các phương tiện trực quan sẽ tạo ra hình ảnh lịch sử

cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tạo biểu
tượng lịch sử.
Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch sử còn nhiều
hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại vừa không phù hợp. Thử lấy ví dụ về hệ thống bản
đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử
trong danh mục đồ dùng do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành không đủ. Các tranh
ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu, thiếu đồng bộ. Trước những khó khăn đó,
việc dạy học theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin là một giải pháp tích cực, là
hướng đi kịp thời để giải quyết những khó khăn nêu trên. Nhận thấy điều đó, tôi
thường soạn giáo án Lịch sử trên phần mềm PowerPoint. Qua các năm, trao đổi giáo
án giữa giáo viên trong khối nên các bài giảng soạn bằng phần mềm PowerPoint tăng
cả về số lượng và chất lượng. Khi giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng. Học sinh
hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt động. Được tiếp xúc với tranh ảnh lịch sử sinh động,
các em chủ động tiếp thu và nắm vững kiến thức hơn.
11


* Thứ năm: Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự phát
hiện kiến thức.
Học tập lịch sử để hình dung rõ ràng, giải thích đúng, có cơ sở khoa học về tiến
trình lịch sử. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử, biến cố lịch sử,… không phải xuất hiện
một cách tùy ý, hoàn toàn ngẫu nhiên mà là sản phẩm của những điều kiện lịch sử
nhất định, có những mối quan hệ nhân quả nhất định, tuân theo những quy luật nhất
định.
Học tập lịch sử không chỉ hình dung được hình ảnh của quá khứ mà điều cốt
yếu là phải hiểu lịch sử, tức là nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Trên cơ sở đó hình thành khái niệm, phát hiện mối quan hệ, rút ra các bài học lịch
sử….
Bởi vậy, khi dạy học, tôi thường tạo điều kiện cho học sinh độc lập suy nghĩ, tự
tìm tòi, phát hiện kiến thức chứ không áp đặt những kết luận có sẵn. Để làm được việc

này, tôi không chỉ sử dụng các phương pháp diễn giải mà tổ chức bài học thành những
vấn đề rồi dùng hệ thống câu hỏi, kích thích học sinh tự tìm tòi, tự phát hiện kiến thức
một cách độc đáo, sáng tạo. Phương pháp dạy học vấn đáp- tìm tòi này giúp học sinh
có thể lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn. Để sử dụng phương pháp này hiệu quả,
tôi thường đầu tư xây dựng các câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, tường minh, tránh những
câu hỏi rườm rà, không có tác dụng phát triển tư duy. Trong một bài hoặc một phần
không nên đặt quá nhiều câu hỏi.
Ngoài ra, tôi còn sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Giáo viên đưa ra các ý
kiến khác nhau để học sinh trao đổi, thảo luận, lựa chọn, nêu ý kiến riêng của mình.
Tuy nhiên, không phải bất cứ bài học nào, phần kiến thức nào cũng đem ra thảo luận.
Tùy từng dạng bài, tùy từng phần kiến thức mà giáo viên cho học sinh thảo
luận.Thông thường chỉ những phần kiến thức phức tạp, có nhiều cách hiểu khác nhau,
hay những câu hỏi, những bài tập khó cần có sự hợp tác giữa các cá nhân thì nên tổ
chức cho học sinh thảo luận nhóm. Khi thảo luận nhóm, giáo viên cần lưu ý đến thời
gian tiết học, không gian lớp học và số lượng học sinh … để tổ chức thảo luận nhóm
12


một cách hợp lí. Không nên lạm dụng phương pháp này trong suốt tiết học cũng như
phải hết sức tránh tính hình thức trong thảo luận nhóm.
* Thứ sáu: Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp xúc các nguồn
sử liệu trong thực tế.
Lịch sử đã đi qua nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại dấu vết của nó
qua kí ức của nhân loại(văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội); qua những
thành tựu văn hóa vật chất (thành quách, nhà cửa; đình, chùa, miếu mạo, tượng đài,
…); qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa; qua tên đất, tên làng, tên
đường phố; qua tranh ảnh, báo chí đương thời; qua thái độ của người đương thời đối
với các sự kiện lịch sử (những ngày kỉ niệm, những ngày lễ lớn,…) Chỉ có trên cơ sở
những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày về lịch sử. Ngày
nay, ngoài những hình thức dạy học truyền thống, người ta hết sức quan tâm đến các

hình thức tổ chức dạy học tại thực địa, bảo tàng, khu di tích,… tạo điều kiện cho học
sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên.
Tại địa phương tôi, những dấu vết cổ xưa của lịch sử phong kiến không còn
nữa. Những mái đình, mái chùa qua hàng chục năm đằm mình trong bom đạn nay đã
được xây dựng lại, khang trang hơn, to đẹp hơn. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của
ngôi chùa từ thời Lý vẫn còn vẹn nguyên. Vì vậy, khi dạy bài Chùa thời Lý, tôi đã yêu
cầu các em quan sát và nhận xét về đặc điểm ngôi chùa ở làng mình rồi từ đó đối
chiếu với nội dung tìm hiểu trong bài, các em sẽ có nền tảng kiến thức thực tế vững
chắc hơn.
Đối với những bài học về nhân vật lịch sử, các cuộc khởi nghĩa,… tôi thường
yêu cầu học sinh tìm hiểu qua suy nghĩ của ông, bà, cha, mẹ về những anh hùng lịch
sử ấy, những chiến công oanh liệt ấy. Sự kế thừa lòng yêu nước, ngưỡng mộ các danh
nhân lịch sử Việt Nam của các em qua ông bà, cha mẹ sẽ tốt hơn nhiều việc các em
được giáo dục, bồi đắp qua các câu chữ khô khan, qua lời nói “suông” của giáo viên.
* Thứ bảy: Dạy Lịch sử qua các qua các hoạt động ngoại khóa
Bên cạnh những giờ học trên lớp chật hẹp, ngoại khóa là điều cần thiết để giải
13


tỏa những căng thẳng và bổ sung thêm nhiều kiến thức cho học sinh. Nếu dạy học
Lịch sử lớp 5 với những câu chuyện, những kỉ niệm chân thực về một thời lửa đạn
được các nhân chứng - những cựu chiến binh trở về từ bom đạn kể lại sẽ thu hút học
sinh đến với lịch sử mạnh mẽ hơn, tích cực hơn. Nhưng Lịch sử lớp 4, nội dung là
kiến thức các triều đại phong kiến, ta không thể mời nhân chứng từ quá khứ về kể
chuyện cho học sinh nghe. Vì vậy, tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch
sử như Đền Hùng, Cổ Loa, Hoa Lư, …, các viện bảo tàng lịch sử đề các em được tận
mắt nhìn, được sờ tận tay các di vật từ lịch sử, được cảm nhận khí thế Đông A hùng
thiêng của dân ta thời Trần,… các em sẽ hứng thú hơn với Lịch sử nước nhà, hình
thành thói quen tự giác tìm hiểu Lịch sử quốc gia. Tất cả các kiến thức ấy sẽ thấm dần
vào nhận thức của học sinh một cách tự giác chứ không phải nhồi nhét một cách thụ

động, tiêu cực.
Vẫn biết phương pháp trên mang lại hiệu quả giáo dục tích cực nhưng trên thực
tế, việc tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch sử vượt quá tầm khả năng
của chúng tôi. Vì địa phương tôi công tác rất xa các các khu di tích lịch sử, các em
học sinh lại quá nhỏ, kinh phí eo hẹp. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi thường tổ
chức các buổi triển lãm tranh ảnh lịch sử theo giai đoạn. (Phần lớn tranh ảnh là do tôi
sưu tầm trên mạng, trên sách báo), tổ chức các trò chơi “Theo dòng lịch sử” dưới hình
thức “Rung chuông vàng”, “Đường lên đỉnh Olympia” để củng cố kiến thức lịch sử
cho học sinh. Tổ chức các buổi kể chuyện lịch sử cho học sinh nghe. (Nguồn truyện
lấy từ cuốn Đại Việt sử kí toàn thư, Các triều đại Việt Nam) nhằm tăng sự hứng thú
học Lịch sử cho học sinh trong lớp.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải luôn theo dõi học sinh trong quá trình
học tập và kết quả khảo sát phát hiện ra những vấn đề khó khăn mà lớp mình gặp phải
khi học môn Lịch sử để từ đó đưa ra các giải pháp và biện pháp khắc phục nhằm giúp
các em nắm được các kiến thức đễ dàng hơn, ham thích học lịch sử hơn.
Mỗi một giải pháp đưa ra cần có những biện pháp phù hợp để thực hiện có
14


hiệu quả các giải pháp đó. Mục đích cuối cùng là làm sao để học sinh học tốt môn
Lịch sử.
Như vậy giải pháp và biện pháp luôn thống nhất với nhau. Giải pháp là cái bao
hàm chung. Còn biện pháp là những hướng đi để thực hiện thành công giải pháp
chung đó.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
và hiệu quả ứng dụng.
Với các giải pháp trên đưa vào vận dụng trong dạy học phân môn lịch sử lớp 4.
Trong suốt quá trình học tập từ đầu học kì một đến nay, qua kiểm tra, đánh giá kết quả
ở các tháng được nâng lên rõ rệt. Các em tiếp thu bài nhanh và nhớ lâu, có tinh thần

học tập tốt. Các em chưa hoàn thành cũng tích cực tham gia học tập và phát biểu xây
dựng bài. Đó cũng là nền tảng để các em bước vào bậc học của các lớp cao hơn
Các em học sinh trong lớp đều rất thích học Lịch sử và thích được gọi trả lời,
nêu cảm nghĩ trong giờ học Lịch sử, không khí những tiết Lịch sử rất sôi nổi.
Các em được phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, hứng thú trong các
giờ học, được tự tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Từ đó bồi
dưỡng cho các em lòng yêu quê hương, đất nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc.
Chất lượng học Lịch sử của lớp được nâng cao rất nhiều. Hiện tại, 99% học
sinh trong lớp đã biết sử dụng sách giáo khoa, biết khai thác hiệu quả kênh chữ, kênh
hình phục vụ cho bài học. Học sinh nắm vững các kiến thức lịch sử nước nhà, bộc lộ
được thái độ tình cảm đối với các nhân vật, sự kiện lịch sử đã học, tự rút ra được cho
mình bài học, ý chí quyết tâm, kiên cường trong cuộc sống ... Trong các lần kiểm tra,
các em thường đạt điểm cao. Ngay cả những em học sinh vốn học yếu, nhưng nhờ học
tập có phương pháp và được các bạn giúp đỡ nên các em có tiến bộ rất nhiều.
Chất lượng này được thể hiện qua kết quả như sau: (Do môn Lịch sử và Địa lí
kiểm tra trên cùng một bài thi, thang điểm mỗi phần là 5 điểm. Để tiện theo dõi, tôi đã
lấy riêng điểm phần Lịch sử nhân theo hệ số 2 thành thang điểm 10).
Kết quả kiểm tra cuối học kì 1: Năm học : 2018 - 2019
15


TSHS
Cuối học kì I

31

Điểm 9 -10

Điểm 7- 8


TS
9

TS
11

%
29,03

%
35,48

Điểm 5-6
TS
11

Điểm dưới 5

%
35,48

TS
0

%
0

Cuối học kì I, tôi thấy số lượng học sinh thích học môn Lịch sử cũng đã tăng
lên, cụ thể:
TSHS


Cuối học kì I

31

Yêu thích

Bình thường

Không thích

TS

%

TS

%

TS

%

9

29,03%

19

61,29%


3

9,68%

Qua việc dạy học bản thân tôi đã rút ra những kinh nghiệm cần có hướng phấn
đấu:
Giáo viên phải nắm toàn bộ chương trình phân môn Lịch sử. Nắm vững kiến
thức lịch sử trong sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức, sưu tầm tài liệu có liên quan đến
bài giảng. Biết liên hệ thực tế chuyển từ kiến thúc cũ giúp học sinh khai thác kiến
thức mới một cách khoa học, hấp dẫn. Biết tổ chức các hình thức học gắn với cách
xây dựng thiết kế bài tập thực hành, với hình ảnh, lược đồ, mô hình trong SGK. Giúp
học sinh mô tả, trình bày hoặc kể lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách
chính xác. Đây cũng là cách giúp các em ghi nhớ sâu sắc những sự kiện lịch sử, từ đó
khi nhắc tới những sự kiện đó là các em hình dung và tái hiện được ngay.
Giáo viên cần gần gũi với học sinh hơn nữa và có sự linh hoạt trong cách tổ
chức hướng dẫn học sinh tự học, giúp các em biết tự giác tìm tòi, khám phá, phát hiện
cái hay, cái đẹp, sửa chữa điểm sai của mình. Giáo dục các em biết yêu quê hương đất
nước và tự hào về truyền thống hào hùng của dân tộc.
Dạy học lịch sử cần được vận dụng bằng nhiều hình thức sinh động, phong phú
nhằm thấm sâu vào các em lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự hào dân tộc trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử là cần chính xác tuyệt đối về thời gian, về số liệu minh chứng.
Kiểm tra và đánh giá là khâu then chốt trong quá trình dạy học. Đánh giá vừa
mang mục đích xác định mức độ năng lực và kiến thức được hình thành ở học sinh,
vừa giúp giáo viên điều chỉnh được hoạt động dạy học của mình.
16


Trên đây là những phương pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử lớp 4 nói

riêng và chương trình tiểu học nói chung. Trong suốt thời gian qua bản thân tôi đã
nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất lượng học sinh đã nâng lên rõ rệt.
Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin khi học Lịch sử. Đối vối tôi, cách dạy trên đã góp
phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em – những mầm non tương lai của
đất nước.

III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
17


Dạy học Lịch sử là dạy cho học sinh hiểu về cội nguồn đất nước, về những vị
anh hùng dân tộc,…Từ chỗ hiểu rồi các em mới thêm yêu đất nước. Một dân tộc phát
triển là một dân tộc biết gìn giữ và phát huy những truyền thống lịch sử. Nhiệm vụ ấy
đang đặt nặng trên “đôi vai” ngành giáo dục nước nhà, mà cụ thể là trách nhiệm của
mỗi thầy cô giáo chúng ta. Dạy học sinh biết, hiểu, tự hào về những trang sử hào hùng
của dân tộc là góp phần giữ gìn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc,
góp phần xây dựng đất nước Việt Nam thành một khối đoàn kết vững chắc.
Có được kết quả như trên, bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên, ý thức vươn lên
trong học tập của học sinh còn có sự chỉ đạo đúng hướng, nhiệt tình, sát sao của Ban
Giám hiệu nhà trường, của lãnh đạo các cấp. Chính vì vậy mà giờ Lịch sử không phải
là giờ học khó, giúp các em phấn khởi, tích cực, tự tin trong học tập, giúp chất lượng
môn Lịch sử được nâng cao, làm nền tảng cho khả năng họcLịch sử sau này của các
em ở những cấp học cao hơn.
Để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức Lịch sử tốt, không chỉ dạy học lịch sử trong
giờ Lịch sử mà tôi còn kết hợp giảng dạy trong các tiết Tập đọc, Kể chuyện, Đạo đức,
Qua những phương pháp trên tôi thấy các em đã có hứng thú trong học tập và
ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách có hệ thống. Mặc dù chưa được hoàn thiện nhưng
chứng tỏ trong các môn học, môn Lịch sử cần có sự đổ mới về phương pháp dạy học
giúp học sinh phát huy cao tính tích cực trong học tập.

Trên đây là một số kinh nghiệm tôi nhận thấy, mong quý đồng nghiệp góp ý bổ
sung cho tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!
2. Kiến nghị:
Tôi rất mong Nhà trường tiếp tục tổ chức cho chúng tôi những buổi hội thảo,
chuyên đề trao đổi kinh nghiệm để bổ trợ cho chúng tôi vốn kinh nghiệm chuyên
môn, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học theo tinh thần đổi mới. Nhà trường bổ
sung thêm đồ dùng dạy học: Băng đĩa, tranh ảnh, máy chiếu đa năng, ... để giáo viên
học hỏi, vận dụng vào tiết dạy đạt kết quả tốt hơn nữa.
Thống Nhất, ngày 11 tháng 3 năm 2019
18


Người viết

Nguyễn Thị Vui

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các phương pháp nghiên cứu khoa học – Nguyễn Văn Quân
19


2. Đại cương lịch sử Việt Nam.
3. Lịch sử nhìn ra thế giới.
4. Tài liệu hướng dẫn học môn Lịch sử và Địa lí 4.
5. Sách giáo khoa môn Lịch sử và Địa lí 4.
6. Sách giáo viên môn Lịch sử và Địa lí 4.
7. Các triều đại Việt Nam
8. Đại Việt sử ký toàn thư

20



MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
b. Nội dung và cách thức, thực hiện các giải pháp
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi

6
6-14
14-15
15-17

và hiệu quả ứng dụng.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:

2. Kiến nghị :
Tài liệu tham khảo
Mục lục

18
18- 19
20
21

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

21

1-2
2
2
2
2-3
4-5
5-6



×