Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn thông qua việc phối hợp với chính quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.93 KB, 13 trang )

TG : Trương Sơn Lạng – Chủ tịch Công đoàn GD&ĐT huyện

Kinh nghiệm:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN
THÔNG QUA VIỆC PHỐI HỢP VỚI CHÍNH QUYỀN

I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Công đoàn là một tổ chức chính trị-xã hội có một vị trí, vai trò nhất định trong
trong các cơ quan, đơn vị nói chung, trong các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp, các
đơn vị trường học nói riêng, Công đoàn có một vị trí, vai trò đặc biệt. Với chức năng,
nhiệm vụ của mình, hoạt động của Công đoàn phải luôn hướng về đội ngũ cán bộ, giáo
viên và nhân viên ( CBGVNV ), chất lượng của đội ngũ CBGVNV sẽ phản ánh một
cách đầy đủ nhất hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn, là thước đo chính xác nhất
về mức độ hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Thế nên, ở một góc
độ nào đó, Chính quyền và Công đoàn có chung một nhiệm vụ, có cùng một mục tiêu
hướng đến chính là đội ngũ CBGVNV.
Vì vậy, Công đoàn muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì việc phối hợp
với Chính quyền để tổ chức các hoạt động là một yêu cầu, một nhiệm vụ hết sức quan
trọng đòi hỏi các Công đoàn cơ sở ( CĐCS ), các cán bộ Công đoàn ( CBCĐ) cần phải
thực hiện một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, có CĐCS, CBCĐ chưa thực sự quan tâm, chưa
nhìn nhận đúng tầm quan trọng của vấn đề này, đặc biệt rất nhiều CĐCS cũng như
CBCĐ còn bị động, lung túng trong việc phối hợp với Chính quyền mỗi khi tổ chức các
hoạt động tại đơn vị nên hiệu quả mang lại không được như mong muốn, cũng có khi
không hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Vậy, đâu là nguyên nhân thực trạng và giải pháp?

1


Bản thân là một cán bộ Công đoàn, qua nhiều năm được gắn bó với tổ chức Công


đoàn, tôi xin mạnh dạn trao đổi với quý đồng nghiệp một số phương cách làm của tôi
trong việc phối hợp với Chính quyền để nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn. Và tôi
hy vọng các quý đồng nghiệp sẽ tìm ra câu trả lời phù hợp nhất.
II/ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHỐI HỢP GIỮA CÔNG ĐOÀN VỚI
CHÍNH QUYỀN:
Thứ nhất: hiện nay có nhiều CBCĐ chưa thực sự quan tâm đến việc phối hợp với
Chính quyền. Nguyên nhân là vì CBCĐ chưa nhìn nhận đúng mối quan hệ giữa Công
đoàn và Chính quyền, chưa tìm thấy nhiệm vụ và mục tiêu chung của Công đoàn với
Chính quyền cũng như chưa đánh giá đúng vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Chính
quyền nên chưa chủ động phối hợp với Chính quyền trong quá trình tổ chức, thực hiện
các hoạt động của mình. Vì thế, khi tổ chức các hoạt động, Công đoàn không được sự
hỗ trợ từ phía Chính quyền, thậm chí không được sự nhất trí và đôi khi còn bị gây khó
khăn, cản trở từ phía Chính quyền cho nên kết quả của các hoạt động trong trường hợp
này không bao giờ được như mong muốn.
Thứ hai là: Một số CBCĐ đã nhận thấy mối quan hệ giữa Công đoàn với Chính
quyền, song thực tế trong các hoạt động Công đoàn lại không muốn cộng tác, phối hợp,
chưa đề cao vị trí, chức năng, vai trò và nhiệm vụ của Chính quyền, chưa đánh giá đúng
tầm ảnh hưởng của Chính quyền đối với hiệu quả hoạt động của Công đoàn, chưa nhìn
thấy những ưu thế của Chính quyền để khai thác, tận dụng nên đôi khi các phong trào và
hoạt động của Công đoàn còn nghèo nàn về nội dung cũng như chưa phong phú về hình
thức và như vậy hiệu qủa hoạt động tất nhiên là còn rất nhiều hạn chế.
Thứ ba là: đại đa số CBCĐ đã nhìn nhận đúng vị trí, chức năng, vai trò của cả
Công đoàn và Chính quyền, đã nhìn nhận đúng đúng mối quan hệ giữa Công đoàn với
Chính quyền, đã đánh giá đúng thế mạnh, tiềm lực và quan điểm tích cực, muốn hợp
tác, muốn phối hợp của Chính quyền đối với tổ chức Công đoàn. Mặc dù rất muốn phối
hợp với Chính quyền để tổ chức các hoạt động song CBCĐ vẫn còn lung túng trong quá
trình thực hiện phối hợp, đôi khi còn bị động. Thực tế cũng cho thấy, cũng có không ít
2



CBCĐ đã chủ động phối hợp tổ chức một số hoạt động nhưng chỉ mang tính hình thức,
chưa mang tính thống nhất cao, sự phối hợp chưa toàn diện, chưa trọng tâm, hiêụ quả
mang lại chưa phản ánh đúng ý nghĩa của sự phối hợp từ hai phía. Hay nói cách khác là
hiệu quả chưa được như mong đợi của cả Công đoàn và Chính quyền.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân dẫn đến, song nguyên nhân chủ yếu vẫn là
xuất phát từ CBCĐ, do vẫn còn hạn chế về trình độ nhận thức, trình độ lý luận chính
trịnh, trình độ nghiệp vụ, về kinh nghiệm thực tế công tác. Bên cạnh đó còn do CBCĐ
thiếu sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa chịu khó học hỏi, chưa thường
xuyên tìm hiểu, chưa kịp thời nghiêm túc rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức các
hoạt động…vv. Vì vậy chưa tìm ra đâu là những nguyên nhân, giải pháp, phương pháp
cần thiết, phù hợp, đâu là những biện pháp mang tính đột phá để nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức Công đoàn.
III/ PHƯƠNG CÁCH PHỐI HỢP VỚI CHÍNH QUYỀN NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN:
1/ Nhìn nhận đúng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Chính quyền.
Đây là một trong những yêu cầu trước tiên mà người CBCĐ cần phải quan tâm
khi tổ chức các hoạt động Công đoàn cũng như khi chủ động phối hợp với Chính quyền.
Bời lẽ, nếu CBCĐ không nhìn nhận một cách đầy đủ về vị trí, chức năng, vai trò, nhiệm
vụ của Chính quyền thì CBCĐ sẽ không có cơ sở để thực hiện sự phối hợp. Vì bất cứ
một cá nhân hay một cơ quan, tổ chức nào khi phối hợp với một cá nhân hay một cơ
quan, tổ chức khác thì cũng cần phải xác định được là phối hợp làm gì? Phối hợp như
thế nào, tức là cách thức tiến hành, thời gian bắt đầu, kết thúc? Và điều quan trọng hơn
nữa là phối hợp để làm gì? Như chúng ta đã biết, sự phối hợp chỉ được thực hiện khi cả
hai đều thống nhất về quan điểm, nguyên tắc, phương pháp phối hợp và cuối cùng là về
mục đích phối hợp. Ngược lại nếu CBCĐ không nhìn nhận đúng về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của Chính quyền thì rất khó có thể thực hiện được sự phối hợp một cách có
hiệu quả.

3



2/ Đánh giá đúng mối quan hệ giữa Công đoàn với Chính quyền để chủ động
phối hợp.
Như chúng ta đã biết, Công đoàn là một tổ chức chính trị-xã hội cũng nằm trong
hệ thống chính trị , cùng với Chính quyền, Công đoàn được đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ
đạo trực tiếp của Đảng. Mặc dù chức năng, vai trò có khác nhau, song dưới sự lãnh đạo
của Đảng thì Công đoàn và Chính quyền có vị trí ngang nhau. Chính vì vậy, Công đoàn
và Chính quyền có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ bình đẳng, hài hoà và tôn
trọng lẫn nhau. Bên cạnh những nhiệm vụ riêng thì cả hai vẫn có những nhiệm vụ
chung. Sự song trùng trong nhiệm vụ phải thực hiện và về đối tượng tổ chức các hoạt
động của cả hai càng được thể hiện rõ nét trong ngành GD&ĐT. Bởi trên thực tế, tính
chất đặc thù của ngành, của đơn vị là hành chính sự nghiệp, các thành viên trong bộ
máy Chính quyền cũng chính là các đoàn viên của Công đoàn, do Chính quyền được
quyền quản lý và điều hành. Việc thực hiện các nhiệm vụ như: tuyên truyền giáo dục
nâng cao phẩm chất năng lực cho đội ngũ, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của đội ngũ, xây dựng đội ngũ vững mạnh về mọi mặt… thì cả
hai đều coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Và như vậy việc
phối hợp công tác giữa Công đoàn với Chính quyền và ngược lại là một yêu cầu nhiệm
vụ rất quan trọng và không thể thiếu đối với mỗi bên đặc biệt là đối với tổ chức Công
đoàn. Đánh giá đúng mối quan hệ giữa Công đoàn với Chính quyền thì người CBCĐ
mới có thể chủ động phối hợp được.
3/ Chủ động phối hợp từ lý luận đến thực tiễn:
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn như trên, CBCĐ cần xác định và
tiến hành một số những định hướng như sau:
3.1. Tiến hành phối hợp một cách chủ động trong mọi hoạt động. Chủ động ở đây
tức là CBCĐ phải có ý tưởng phối hợp trước, lập kế hoạch phối hợp trước và đặt vấn đề
phối hợp với Chính quyền trước. Vì chủ động sẽ giúp CBCĐ lượng hoá được công việc,
lường trước được những vấn đề nảy sinh và không chệch mục tiêu đã đề ra.

4



3.2. Chủ động soạn thảo nội dung một bản quy chế phối hợp giữa Công đoàn với
Chính quyền và tiến hành các thủ tục cần thiết để thông qua và ký kết. Căn cứ vào vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn và Chính quyền, trong bản quy chế phối hợp cần
thể hiện rõ sự phối hợp một cách thường xuyên, một cách toàn diện và chi tiết nội dung
các nhiệm vụ, hoạt động của tổ chức Công đoàn trong nhiệm kỳ hoặc trong một năm
học. Bản quy chế phối hợp có thể coi như một bản kế hoạch mang tính chiến lược lâu
dài, là sợi dây nối kết chặt chẽ giữa Công đoàn và Chính quyền, là thời khoá biểu chung
cho cả hai, là cơ sở để xác định mối quan hệ bình đẳng, hài hoà và tôn trọng lẫn nhau.
Có thể nói một cách hình ảnh rằng bản quy chế phối hợp giống như một bản thiết kế của
sự phối hợp. Vấn đề còn lại là thực hiện như thế nào cho sự phối hợp có hiệu quả?
3.3. Thực tế, không phải trong nhiệm vụ nào, trong hoạt động nào của tổ chức
Công đoàn cũng phối hợp với Chính quyền để tổ chức mà người CBCĐ cần biết lựa
chọn nội dung, thời gian, thời điểm để phối hợp như đã nói ở phần đầu. Có nghĩa là phải
xác định được trọng tâm, trọng điểm để thực hiện sự phối hợp. Ví như những vấn đề
liên quan đến đời sống, quyền lợi của CB,GV,NV; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở; việc tổ chức các phong trào thi đua, các phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục thể
thao, các hội thi dành cho CB,GV, việc bồi dưỡng và đào tạo, nâng cao trình độ và phẩm
chất của đội ngũ…vv. CBCĐ cần phải xác định rõ phối hợp làm gì, vào thời điểm nào
cho phù hợp với cả hai bên.Với rất nhiều nội dung có thể phối hợp như đã kể trên, đòi
hỏi người CBCĐ cần phải nắm chắc được kế hoạch, nội dung, chương trình công tác
của Chính quyền thì mới có thể chủ động phối hợp và đem lại hiệu quả như mong
muốn.
3.4. Để sự phối hợp được diễn ra một cách thuận lợi, mỗi một đợt hay một lần
phối hợp tổ chức một phong trào hoặc một hoạt động nào đó thì CBCĐ cần có một văn
bản phối hợp riêng. Trong đó cần nêu rõ trách nhiệm của Công đoàn phải làm những gì,
Chính quyền phải hỗ trợ những gì, tránh tình trạng nói chung chung rất dễ rơi vào tình
cảnh “ cha chung không ai khóc ”.


5


3.5. Một vấn đề nữa CBCĐ nên thực hiện đó là thường xuyên thông báo kế hoạch
hoạt động của từng thời điểm của Công đoàn cho Chính quyền được biết. Như vậy thì
Chính quyền sẽ chủ động hơn trong việc phối hợp và hỗ trợ Công đoàn hoạt động cũng
như là để cả hai dễ dàng điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp, không bị chồng chéo hoạt
động giữa hai bên.
IV/ KẾT QUẢ TỪ THỰC TẾ:
Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Công đoàn những năm qua và
đơn cử trong như năm học 2009-2010, tôi đã phối hợp với lãnh đạo Phòng tổ chức một
số nội dung hoạt động chủ yếu sau:
+ Ngay vào đầu năm học: Tổ chức sửa đổi, bổ sung thông qua và ký kết quy chế
phối hợp công tác.
+ Phối hợp trong việc tổ chức, sắp xếp ổn định bộ máy tổ chức ở Phòng cũng như
ở các đơn vị trường, phân công trách nhiệm cho các thành viên.
+ Xây dựng kế hoạch năm học 2009-2010 và triển khai nhiệm vụ năm học
+ Hướng dẫn và tổ chức phát động thi đua, đăng ký thi đua năm học.
+ Hướng dẫn và tổ chức Hội nghị CBCC và đại hội CĐCS.
+ Phối hợp tổ chức các hoạt động chào mừng, kỷ niệm ngày 20/11, ngày Nhà giáo
Việt nam.
+ Phối hợp giải quyết 02 đơn thư khiếu nại, tố cáo.
+ Phối hợp chỉ đạo và tổ chức hoạt động nhân ngày 8/3: Sơ kết 5 năm phong trào
giỏi việc nước, đảm việc nhà.
+ Phối hợp tổ chức thành công các hội thi ( Giáo viên dạy giỏi, sáng kiến kinh
nghiệm và đồ dùng dạy học )
+ Tổ chức kiểm tra, phúc tra bình xét thi đua, tổng kết thi đua khen thưởng cuối
năm.
+ Phối hợp tổ chức mở các lớp học Nghị quyết, bồi dưỡng chính trị và lớp QLGD
cho đội ngũ CB,GV.


6


Bên cạnh những nội dung phối hợp trên, Công đoàn còn phối hợp với Phòng
trong nhiều hoạt động và nội dung khác có hiệu quả.
Với việc vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương cách như trên, trong những
năm qua mà đặc biệt là trong một hai năm trở lại đây, hoạt động công đoàn tại đơn vị tôi
đang công tác ( Công đoàn GD&ĐT huyện Lăk ) đã có những chuyển biến tích cực,
hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn đã được nâng lên, tổ chức Công đoàn, cũng
như cá nhân tôi đã được công đoàn các cấp ghi nhận và biểu dương.
1. Kết quả từ việc phối hợp để tham gia quản lý, tổ chức các phong trào thi
đua, các cuộc vận động trong CNVCLĐ:
Tổ chức thành công hội nghị CNVC cơ quan, đơn vị: có 29/29 đơn vị tổ chức, đạt
100%; chỉ đạo Ban thanh tra nhân dân hoạt động theo đúng chức năng, quyền hạn của
mình; tổ chức tham gia xây dựng kế hoạch nhiệm vụ năm học đồng thời phối hợp tổ
chức thực hiện tốt kế hoạch, nhiệm vụ năm học; Xây dựng, bổ sung quy chế phối hợp
hoạt động với Lãnh đạo Phòng GD&ĐT sau khi có chức danh trưởng phòng mới.
Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt; lao động giỏi, lao động sáng tạo: đội ngũ cán
bộ, giáo viên đã không ngừng học tập, nghiên cứu, sáng tạo, tìm tòi phương pháp dạy
học thể hiện qua các hội thi, hội giảng, hội thảo chuyên môn. Kết quả năm vừa qua đã
có 200 đề tài SKKN, ĐDDH tự làm hoặc cải tiến kỹ thuật được công nhận cấp trường,
có 84 SKKN, ĐDDH được công nhận cấp huyện, có hàng trăm GVdạy giỏi cấp trường,
61 GV dạy giỏi cấp huyện, 11tập thể được công nhận tập thể lao động tiên tiến, 22
CNVCLĐ được công nhận CSTĐ các cấp, 346 CNVCLĐ được đề nghị công nhận danh
hiệu LĐTT , 08 trường được đề nghị công nhận trường tiên tiến, trong đó có 4 trường
nhiều năm liền như: trường Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Trãi, Võ Thị Sáu, Nguyễn
Văn Trỗi.
Phong trào nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu dạy học trong công cuộc
đổi mới: kết thúc năm học số CNVCLĐ đi học đại học là 152 người, cao học quản lý

GD: 01 người và hàng trăm lượt CNVCLĐ được cử đi tham gia các lớp tập huấn nghiệp
7


vụ và 640 người được bồi dưỡng chính trị đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, giáo viên, đáp ứng được yêu cầu chuyên môn trong tình hình mới.
Phong trào Xanh-Sạch-Đẹp-An toàn vệ sinh lao động đã được Công đoàn thường
xuyên phát động bằng nhiều hình thức như tuyên truyền và tham gia lao động dọn vệ
sinh môi trường trong và ngoài cơ quan nơi làm việc, trồng cây xanh, cây cảnh, vườn
hoa;
Phong trào giỏi việc nước, đảm việc nhà; xây dựng đơn vị văn hóa, gia đình văn
hóa: được Công đoàn các cấp và Ban nữ công duy trì và phát huy tốt, lồng ghép trong
các phong trào thi đua dạy tốt, nuôi con khỏe, dạy con ngoan và hoạt động khác tại các
đơn vị bằng nhiều hình thức như thi giáo án, thi viết chữ đẹp, thi nữ công gia chánh, thi
cắm hoa, tọa đàm...vv. Trong năm qua toàn ngành có 254 chị em được công nhận danh
hiệu GVN-ĐVN, nhiều đơn vị và hàng trăm gia đình được đề nghị công nhận gia đình
văn hóa, đơn vị văn hóa.
Phong trào xây dựng “ trường học thân thiện, học sinh tích cực” cũng đã được
quán triệt, tuyên truyền tại các cấp Công đoàn. Kết quả có 01 trường đạt loại xuất sắc,
07 trường đạt loại tốt, 06 trường đạt loại khá, 06 trường đạt loại trung bình, 08 trường
không đánh giá.
* Cùng với các phong trào thi đua, các cuộc vận động lớn cũng đã được Công
đoàn các cấp quan tâm đặc biệt. Tiêu biểu như cuộc vận động “ Mỗi thày cô giáo là tấm
gương về đạo đức, tự học và sáng tạo ” do Công đoàn GDVN phát động. Theo đó, Công
đoàn GD&ĐT huyện đã sơ kết trong dịp 20/11/2009, có 28/28 CĐCS đã được tổ chức
lồng ghép trong các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt và phong trào lao động giỏi, lao
động sáng tạo mang lại hiệu quả thiết thực. Ở mỗi đơn vị đều có những tấm gương tiêu
biểu điển hình, chuẩn mực về đạo đức nhà giáo Việt Nam, đặc biệt là về lối sống trong
sáng, giản dị, gần gũi, hết lòng hỗ trợ đồng nghiệp và thương yêu giúp đỡ học sinh,
nhiều gương vượt khó để tự học, tự sáng tạo, nâng cao trình độ về ngoại ngữ, tin học,

văn hóa.

8


Cuộc vận động “ Hai không ” với 4 nội dung đã đi vào nề nếp và trở thành tiêu
chí để đánh giá, bình xét, xếp loại CNVCLĐ và đơn vị. Thông qua những hình thức như
quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, tập huấn và thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá, xét
tốt nghiệp, xét thi đua, khen thưởng đảm bảo đúng pháp luật, đúng quy chế và các
hướng dẫn nên kết quả học tập, rèn luyện và giảng dạy của cả GV và HS đã phản ánh
đúng thực chất hơn, tâm lý của phụ huynh, học sinh và xã hội ngày một đồng thuận với
cuộc vận động.
Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ”: Công
đoàn phối hợp với chính quyền đồng cấp đã làm tốt công tác tuyên truyền về cuộc vận
động. 100% đơn vị đã sưu tầm, nghiên cứu và tổ chức tuyên truyền các tài liệu về đạo
đức Hồ Chí Minh, động viên CNVCLĐ tham gia học tập nội dung về đạo đức Hồ Chí
Minh do huyện ủy tổ chức. Qua các hoạt động trên nhiều tấm gương điển hình trong
cuộc vận động đã được đề nghị Ban chỉ đạo cuộc vận động tuyên dương khen thưởng
như: đồng chí Phạm Thế Hệ, Phan Thái Sơn, Nguyễn Văn Ngọc…vv.
2. Kết quả phối hợp chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của
CNVCLĐ và các hoạt động xã hội.
Công đoàn đã chủ động tích cực trong việc giám sát, kiến nghị giải quyết, thực
hiện đảm bảo các chế độ chính sách về tiền lương, tiền thưởng, các khoản phụ cấp, chế
độ BHXH, BHYT của đội ngũ CB,GV,NV; tham gia các hội đồng khen thưởng, kỷ luật,
xét thuyên chuyển, đề bạt, luân chuyển, sắp xếp bố trí CB,GV,NV trong đơn vị và luôn
thể hiện rõ vai trò bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của CNVCLĐ; đã kiến nghị nâng
lương và chuyển ngạch lương cho hơn 100 lượt CNVCLĐ, tham gia cùng với chính
quyền giải quyết nhiều kiến nghị tại CĐCS và 04 đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Về chăm lo đời sống việc làm cho CNVCLĐ luôn được Công đoàn trong toàn
ngành quan tâm. Việc xây dựng “ Qũy tương trợ Công đoàn ” đã được các CĐCS triẻn

khai thực hiện, đã có 24/29 CĐCS xây dựng được quỹ ở từng thời điểm khác nhau với
tổng số tiền trên 109 triệu đồng. Một số CĐCS đã xây dựng được quỹ có thời điểm lên
đến hàng chục triệu đồng tiêu biểu như: CĐCS Nguyễn Văn Trỗi, Võ Thị sáu, Nguyễn
9


Trãi, Quang Trung, Nguyễn Thị minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Lý tự Trọng...vv. Với
khoản quỹ trên, CĐCS các trường đã tháo gỡ một phần khó khăn, ổn định, nâng cao
chất lượng cuộc sống cho không ít CNVCLĐ tại cơ sở.
Việc xây dựng quỹ “ Mái ấm Công đoàn ” là hoạt động hết sức thiết thực nên tiếp
tục được Côngđoàn triển khai có hiệu quả. Với mức vận động tương đương 01 ngày
lương/ năm, toàn ngành sẽ vận động được gần 50 triệu đồng ủng hộ cho CNVCLĐ gặp
nhiều khó khăn trong cuộc sống và về nhà ở.
Bên cạnh những hoạt động lớn như trên, Công đoàn cũng đã làm tốt việc quan
tâm, giúp đỡ, thăm hỏi, động viên đồng nghiệp lúc ốm đau, khó khăn, hoạn nạn, hiếu hỉ
thông qua việc dạy thay, tặng quà, hỏi han, chia sẻ...vv. Năm qua, số CNVCLĐ được
Công đoàn các cấp quan tâm thăm hỏi, động viên lên đến hơn 250 lượt, tổng số quà
thăm hỏi trị giá ước đạt trên 40 triệu đồng. Ngoài ra, nhân dịp tết nguyên đán Công đoàn
Ngành đã tặng quà cho những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt, nhân dịp 8/3, đã tặng 53
suất cho 53 chị em tiêu biểu có thành tích xuất sắc và nữ CNVC có hoàn cảnh khó khăn
với tổng số quà trị giá 2,5 triệu đồng. Các hoạt động trên đã góp phần động viên kịp thời
để CNVCLĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Việc chăm lo đời sống tinh thần cho CNVCLĐ cũng được Công đoàn duy trì
thường xuyên phát huy tốt tác dụng. Công đoàn các cấp đã chủ động phối hợp với
chính quyền và tham gia với LĐLĐ huyện để tổ chức các hoạt động VHVN-TDTT,
thông qua các hội thi, hội thao, tọa đàm nhân dịp các ngày lễ kỷ niệm quan trọng trong
năm như: 20/11, 8/3, 30/4, 1/5, 28/7...vv. Tiêu biểu phải kể đến hội thao truyền thống
của Ngành đã quy tụ hầu hết CNVCLĐ trong toàn ngành về tham dự giải bóng chuyền,
cầu lông, bóng bàn, đá cầu tạo ra không khí hết sức sôi nổi trong dịp Ngày nhà giáo Việt
Nam, tham dự hội thao cấp Sở đạt được nhiều giải cao cá nhân và toàn đoàn. Có 10/29

CĐCS đã tổ chức cho CNVCLĐ đi tham quan, dã ngoại, du lịch ở trong và ngoài tỉnh.
Đại đa số các CĐCS và hầu hết CNVCLĐ toàn ngành tham gia với tinh thần tích cực,
nhiệt tình.

1


Trước những khó khăn về nhà ở của CNVCLĐ, Công đoàn cũng đã tích cực kiến
nghị với Lãnh đạo Phòng về việc xây dựng nhà công vụ giáo viên. Năm qua toàn ngành
đã xây dựng mới được 02 nhà, với 05 phòng; tập trung chỉ đạo tu sửa 05 phòng, từng
bước tháo gỡ, giải quyết nhu cầu về nhà ở cho một số cán bộ, giáo viên góp phần vào
việc động viên, khích lệ đội ngũ giáo viên yên tâm, ổn định tư tưởng công tác, nhất là
đội ngũ giáo viên trẻ mới ra trường.
Về hoạt động xã hội: Mặc dù đời sống của CNVCLĐ còn nhiều khó khăn, song
phát huy truyền thống dân tộc, truyền thống Nhà giáo, CNVCLĐ trong ngành vẫn luôn
tham gia đầy đủ, tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện do Đảng, Nhà nước, Công
đoàn phát động như: ủng hộ Quỹ vì người nghèo, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ bảo trợ
trẻ em, mua trái phiếu, ủng hộ đồng bào thiên tai lũ lụt, ủng hộ trẻ em bị bệnh tim, nạn
nhân chất độc màu da cam, ủng hộ bộ đội ăn tết, hiến máu nhân đạo...vv, với số tiền của
toàn ngành ủng hộ lên đến hàng trăm triệu đồng. Bên cạnh đó các CĐCS còn cùng với
chính quyền làm tốt công tác với thôn, buôn kết nghĩa thông qua các hình thức như thăm
hỏi, tặng quà, giao lưu nhân các ngày lễ tết, tạo không khí vui vẻ, ổn định cho các thôn,
buôn kết nghĩa.
3. Kết quả từ việc phối hợp để tuyên truyền giáo dục, xây dựng đội ngũ
CNVCLĐ.
Vận động CNVCLĐ tham gia đầy đủ các lớp học tập chính trị do huyện ủy,
LĐLĐ tỉnh, Phòng GD&ĐT và LĐLĐ huyện tổ chức với nhiều chuyên đề, nội dung
khác nhau như: “ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ”, “ Âm mưu diễn biến hòa bình”, “
Tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương, tỉnh, Trung ương”, “
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa X về “ Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân

Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “ Hội nghị Trung
ương 7, khóa X về công tác vận động thanh niên, xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”, “ Chuyên đề công tác
chuyên môn, quản lý ngành”, “ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa X về một số

1


nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ X của Đảng ”…vv, và đã có hơn 80% CNVCLĐ tham gia.
Tổ chức 03 lần quán triệt, tuyên truyền cho hàng trăm cho CNVCLĐ trong ngành
một số nội dung của các bộ luật liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của
CNVCLĐ như Bộ Luật lao động, BHXH, BHYT, Luật Cán bộ công chức, Giáo thông,
Luật Công đoàn, Nghị quyết đại hội Công đoàn các cấp, …đồng thời gương mẫu chấp
hành nghiêm túc các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước; nội quy,
quy chế cơ quan, ngành; Điều lệ nhà trường như soạn bài, chấp bài, lên lớp đúng quy
định; chế độ hội họp, sinh hoạt được đảm bảo nhằm phát huy tối đa tinh thần dân chủ cơ
sở…từ đó xây dựng lối sống lành mạnh, trong sáng, mẫu mực.
Tất cả kết quả trên đã góp phần quan trọng để cùng với Chính quyền thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ của Ngành.
V/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1/ Người cán bộ Công đoàn phải nhiệt tình, tâm huyết và gương mẫu trong mọi
hoạt động, nhiệm vụ.
2/ Nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
và tình hình, chủ trương, nhiệm vụ của Công đoàn cũng như của Ngành, của đơn vị.
3/ Tổ chức các hoạt động phải lên kế hoạch một cách khoa học phù hợp với đặc
điểm tình hình và yêu cầu nhiệm vụ thực tế của đơn vị.
4/ Phải tranh thủ được sự quan tâm, chỉ đạo của Chi Bộ và Công đoàn cấp trên và
sự hỗ trợ từ phía Chính quyền.
5/ Trong mọi hoạt động phải chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan

mà đặc biệt là phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với Chính quyền.
Trên đây là một số ý tưởng, quan điểm và kinh nghiệm của tôi trong quá trình tổ
chức các hoạt động của Công đoàn phối hợp với Phòng GD&ĐT, với vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, vai trò của tổ chức Công đoàn trong đơn vị hành chính sự nghiệp, trường học
cũng như với tinh thần trách nhiệm của tôi, rất mong được quý đồng nghiệp quan tâm,
giúp đỡ, trao đổi thêm về kinh nghiệm tổ chức các hoạt động Công đoàn nói chung và
1


kinh nghiệm phối hợp với Chính quyền nói riêng để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ
chức Công đoàn, qua đó, góp phần nâng cao nhiệm vụ chính trị chung của Ngành
GD&ĐT./.
VI/ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1/ Luật Công đoàn Việt Nam 1990.
2/ Luật Giáo dục 2005.
3/ Điều lệ Công đoàn Việt Nam 2009.
4/ Nghị định sô 33/HĐBT ngày 20/4/1991, hướng dẫn thi hành Luật Công đoàn.
5/ Các Nghị quyết của đại hội Công đoàn các cấp và Các Chỉ thị thực hiện nhiệm
vụ của các năm học do Bộ GD&ĐT ban hành.
6/ Các điều lệ của trường Mầm non, Tiểu học, và THCS hiện hành./.
Lăk, tháng 2 năm 2011
Người viết
Trương Sơn Lạng

1



×