Tải bản đầy đủ (.ppt) (36 trang)

Dạy TV cho HS dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.42 KB, 36 trang )


Ph­¬ng ph¸p d¹y häc
tiÕng ViÖt cho häc sinh
d©n téc
Nguyễn Như Kỳ
Phó HT Trường TH Hoàn Long
Huyện Tân Kỳ - Nghệ An

I. Phươngpháp là gì?
1. Phương pháp là cách thức đề cập đến hiện thực, cách
thức ngghiên cứu các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy để nhằm đạt một mục đích nhất định (các
PP chung thường dùng: diễn giảng, đàm thoại, phân tích
ngôn ngữ, trực quan, tham quan, giao tiếp ).
2. PPDH tiếng Việt là cách thức làm việc của thầy giáo và
học sinh nhằm làm cho HS nắm vững kiến thức và kỹ
năng, kỹ xảo TV.
-> Hai PP chung dạy TV cho học sinh dân tộc là:
+ Phương pháp trực tiếp.
+ Phương pháp phiên dịch.

2.
II. Các phương pháp chung cho việc dạy học
tiếng Việt cho HSDT
a. Phương pháp trực tiếp:
- Hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của TV và tiếng dân
tộc khác nhau; kỹ năng giao tiếp TV khác thói quen giao
tiếp bằng tiếng mẹ đẻ (dân tộc). Thói quen cũ gây cản trở
nhiều cho việc học TV. Do đó, PP trực tiếp có nhiều thuận
lợi để hình thành kỹ năng và thói quen mới.
- PP trực tiếp là PP dạy ngôn ngữ thứ 2 không dựa trên cơ


sở tiếng mẹ đẻ và những đặc thù của nó. Học sinh tiếp nhận
TV một cách trực tiếp bằng cách tiếp thu thẳng các từ ngữ,
mẫu câu không liên hệ với tiếng mẹ đẻ của HS.

Ví dụ:
+ GV trực tiếp phát âm từ, câu, học sinh lắng nghe và nhắc
lại.
+ Giải nghĩa từ, câu bằng trực quan không dùng tiếng mẹ đẻ
để hỗ trợ. HS nắm nghĩa, sử dụng câu, tìm mẫu câu.

II. Các phương pháp chung cho việc dạy học
tiếng Việt cho HSDT (tiếp theo)
- ưu điểm:
+ Phù hợp với lứa tuổi của HS tiểu học.
+ Tập trung tư duy chú ý vào TV, ngăn chặn ảnh hưởng tiêu
cực của tiếng mẹ đẻ.
+ Kích thích hứng thú cho HS; các em được trực tiếp nói,
nghe bằng TV.
- Hạn chế:
+ Không tính đến sự thâm nhập của tiếng mẹ đẻ vào quá
trình học tiếng (có lúc PP trực tiếp không đủ ĐK cho HS
hiểu đúng hiện tượng ngôn ngữ).
+ Trong một số trường hợp không tiết kiệm về mặt thời
gian.

b. Phương pháp phiên dịch:
- Phương pháp này rất chú ý sử dụng tiếng mẹ đẻ.
Tất cả các từ, câu đều được liên hệ so sánh với tiếng mẹ
đẻ. Các bài dạy, các tư liệu ngôn ngữ đều được dịch ra tiếng
mẹ đẻ của HS. Các hiện tượng ngữ pháp mới cũng được so

sánh với các hiện tượng ngữ pháp tương đương, chỉ ra chỗ
giống và khác nhau. Giáo viên ngăn trước được những sai
lầm mà HS có thể mắc (Ví dụ: Em đi học bằng phương tiện
gì? HS trả lời: Em đến trường bằng chân.).
- Nhược điểm: Học sinh không tập trung chú ý duy nhất vào
TV. Thời gian giao tiếp bằng TV bị rút ngắn; kỹ năng, kỹ
xảo TV hình thành chậm hơn.
Lưu ý: Mỗi PP đều có những ưu điểm và nhược điểm
của nó. GV cần biết phối hợp một cách hợp lý, sáng tạo các
PP trên tuỳ theo ND dạy học, giai đoạn học tập của HS
(Giai đoạn đầu sử dụng nhiều, giai đoạn sau sử dụng ít,
tránh lạm dụng tiếng mẹ đẻ trong dạy TV cho HSDT).

III. Hệ giải pháp đối với tiếng Việt cho HSDTTS

mà Vụ GDTH đã áp dụng.
Trước thực trạng dạy-học TV như đã nói ở trên, nhận
thức được tầm quan trọng của tiếng Việt đối với HSDT, Vụ
GDTH đã thí điểm nhiều hệ giải pháp đối với TV cho
HSDT:
1. Tăng cường tiếng Việt (Chuẩn bị TV cho trẻ trước khi vào
lớp 1; Năng động hoá hình thức dạy và học TV, nhất là đối
với lớp 1; Nâng cao năng lực TV qua các môn khác; Tăng cư
ờng hệ thống nhân viên hỗ trợ giáo viên).
2. Học tiếng Việt dựa trên tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ 1): Ba năm
đầu trọng tâm là tiếng mẹ đẻ; hai năm cuối học trọng tâm
tiếng Việt; giữa hai giai đoạn học tiếng chính có các bước
trung chuyển.

III. Hệ giải pháp đối với tiếng Việt cho

HSDT mà Vụ GDTH đã áp dụng
3. Thử nghiệm tiếng Việt lớp 1 của TTCNGD: Địa bàn thử
nghiệm tài liệu tại 6 tỉnh: Lào cai, Sơn La, Tây Ninh, Kiên
Giang, An Giang, Kon Tum.
4. Tăng thời lượng đối với môn Tiếng Việt lớp 1
Trên thực tế, tuỳ theo điều kiện của từng tỉnh, thành
phố, mỗi hệ giải pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm
của nó.
Sau đây là một số giải pháp (phương án) dạy học tiếng
Việt cho HSDT mà giáo dục tiểu học Nghệ An đã áp dụng
và có hiệu quả.

IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy tiếng
Việt cho HSDT
1. Nhóm giải pháp về tổ chức dạy học:
- Phối hợp tốt với các trường mầm non tích cực trong việc
chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ trước tuổi hđến trường, khảo
sát bàn giao trẻ 5 tuổi vào tháng 5 cho các trường tiểu
học. Những trẻ chưa đạt yêu cầu tối thiểu về kiến thức kỹ
năng cần có kế hoạch tổ chức và biện pháp giúp đỡ trong
thời gian hè.
- Tăng cường tiếng Việt cho trẻ bằng 60 bài học trong hè
do giáo viên lớp 1 hoặc NVHTGV thực hiện (02 huyện dự
án PEDC).
- Làm tốt công tác phân loại đối tượng học sinh (giỏi, khá,
trung bình, yếu) để tổ chức dạy học phân hoá phù hợp,
sát với từng đối tượng học sinh (có thể tổ chức dạy học
phân hoá đối tượng học sinh theo lớp, nhóm học sinh, tuỳ
theo điều kiện của từng trường).


IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy
tiếng Việt cho HSDT (tiếp theo)
- Tăng cường và tổ chức tốt dạy học 2 buổi/ngày. Giờ học
tăng buổi chỉ giải quyết một phần kiến thức, thời gian còn
lại tập trung rèn luyện những kỹ năng như đọc, viêt, giao
tiếp, kỹ năng sống, nhất là những kỹ năng mà mà học sinh
dân tộc còn yếu.
- Xây dựng trường lớp khang trang làm cho các em thích
đến trường.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho HS ở xa có điều kiện ăn trưa ở
trường để học buổi thứ 2. Tổ chức tốt hình thức bán trú
dân nuôi . Giáo viên tự nguyện đóng góp một phần lương
nhỏ bé của mình mua thêm thức ăn, nấu cơm cho các em,
Nhiều GV còn đón cácem về nhà nuôi, kèm cặp học hành

IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy
tiếng Việt cho HSDT (tiếp theo)
- Tập trung chỉ đạo đổi mới PPDH nâng cao chất lượng giáo
dục đối với loại hình học 2 buổi/ngày, nhằm lấy chất lượng
và việc làm thiết thực của nhà trường để thu hút sự quan
tâm của phụ huynh học sinh, từ đó thực hiện xã hội hoá giáo
dục trên địa bàn.
- Lựa chọn nội dung dạy học buổi thứ 2 phù hợp với từng
đối tượng học sinh khối, lớp cụ thể trong trường. Giáo viên
tự chủ trong việc lựa chọn nội dung dạy học của mình. Hội
đồng chuyên môn cấp trường, Hiệu trưởng nhà trường
duyệt và quyết định.
- Tăng cường công tác kiểm tra , đánh giá chất lượng dạy
học 2buổi/ngày của GV, các trường, để kịp thời định hướng
các giải pháp phù hợp đối tượng HS.


IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy
tiếng Việt cho HSDT (tiếp theo)
- Tổ chức hội thảo chuyên đề dạy học 2 buổi/ngày để rút
kinh nghiệm chỉ đạo trên địa bàn.
- Tổ chức các hoạt động nhằm xây dựng, bồi dưỡng năng
lực, hiệu quả cho GV dạy học 2 buổi/ngày (tăng cường các
sinh hoạt chuyên môn hàng tuần về kỹ năng đánh giá, phân
loại đối tượng HS; kỹ năng tổ chức các hình thức dạy học
trong các tiết học, môn học).
- Tổ chức thao giảng, hội thảo cụm, vùng miền, cấp huyện
về các nội dung dạy- học 2 buổi/ngày nhằm nhân rộng điển
hình, học tập, rút kinh nghiệm bài học từng vùng miền trên
địa bàn.

IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy tiếng
Việt cho HSDT (tiếp theo).
- Thực hiện phương án tăng thời lượng dạy học tiếng Việt
của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chương trình tiếng Việt lớp 1
thực hiện tăng từ 350 tiết lên 500 tiết; Tài liệu: SGK Tiếng
Việt lớp 1 hiện hành, Bài soạn tham khảo thay cho SGV;
Thời lượng tăng thêm tập trung ở khu vực Học vần; Hệ số
tăng thời lưởng khu vực học vần là 1,5 (phân phối chương
trình: 2 tiết/bài; Phương án tăng thời lượng3 tiết/bài).
- Có nhiều cách tăng thời lượng: tăng thời lượng ngay trong
giờ chính khoá, trong từng bài học, đơn vị kiến thức, trong
giờ học tăng buổi. Tăng bao nhiêu tiết, thời gian tăng bao
nhiêu, ở những kỹ năng, đơn vị kiến thức nào là do giáo viên
quyết định, xuất phát từ thực tế dạy hoc, từng đối tượng học
sinh.


IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy tiếng
Việt cho HSDT (tiếp theo)
Giáo viên dùng PATTL này để tập trung vào việc luyện
đọc các âm, vần học sinh khó đọc, đọc sai (do ảnh hưởng
phát âm vùng miền hoặc để luyện viết những vần khó, nhầm
lẫn trong quá trình viết:
Ví dụ: Vần 38 eo ao
+ Trong chương trình cũ 2 tiết: Tiết 1; thực hiện cả 2
đơn vị; Tiết 2: Luyện tập.
+ PATTL 3 tiết: Tiết 1: thực hiện 1 đơn vị; Tiết 2: 1 đơn
vị: Tiết 3: Luyện tập.

IV. Một số giải pháp cụ thể cho việc dạy tiếng
Việt cho HSDT (tiếp theo)
- Thực hiện phương án Tăng cường tiếng việt: tăng cường
tiếng Việt nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít tiếng
Việt có thể học tập các môn học trong hệ thống giáo dục sử
dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức.
- Vì sao phải tăng cường tiếng Việt?
+ Đối với HS Kinh trước khi đến trường, HS đã biết nghe
nói TV, đã có vốn TV khá phong phú khoảng 4000 từ và
một số mẫu câu; HS Kinh học TV bằng tư duy trực tiếp,
thông qua sự tiếp cận ngôn ngữ tự nhiên; bằng hiểu biết qua
nghe nói, khi học đọc và viết, HS có thể dễ dàng nhận ra
mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết, giữa âm thanh và ngữ
nghĩa, ngữ pháp;

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×