Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ĐỀ 9 VAI TRÒ của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.29 KB, 20 trang )

ĐỀ 9: VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
Lời nói đầu
Hệ thông chính trị có vai trò rất quan trọng trong điều kiện xây dựng và
phát huy nền dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, quyền lực chính trị trong điều kiện
hiện nay không chỉ thể hiện vai trò của các thiết chế chính trị, chính trị - xã
hội mà nó còn có xu hướng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các thiết chế xã
hội. Sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và nhiều chiều của các yếu tố kinh tế - xã
hội đến kiến trúc thượng tầng chính trị là một sự tác động mang tính quy luật
trong các xã hội hiện đại. Điều này có ảnh hưởng lớn đối với quá trình xây
dựng và củng cố nền dân chủ, muốn hay không, chúng ta cần phải nhận thức
được một cách đầy đủ.
Để đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi toàn bộ hệ
thống chính trị ở nước ta phải được kiện toàn, đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động.
Tuy nhiên, hệ thống chính trị là vấn đề rộng lớn, có nhiều nội dung cần
đề cập, vì vậy, trong bài này chỉ nêu một số vấn đề cơ bản, cần thiết, phù hợp
với tiến độ phát triển của đất nước hiện nay.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN HỆ THỐNG CHÍNH
Khái niệm về chính trị và hệ thống chính trị
a) Khái niệm về chính trị
Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các
mối quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của
toàn xã hội1. Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Thực chất, chính trị là
mối quan hệ, sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và


thành viên trong xã hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền
lực chung (quyền lực xã hội), gọi làquyền lực chính trị.
Trong các công việc chung của xã hội thì công việc của nhà nước chiếm


vị trí quan trọng hàng đầu. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế
luôn luôn muốn giành lấy vai trò thực hiện các công việc chung để xác lập và
duy trì địa vị thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng, thực chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động
xoay quanh vấn đề giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước.
Tất nhiên, chính trị không chỉ bao gồm các công việc của nhà nước. Xã
hội muốn tồn tại và phát triển thì còn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải
quyết như các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, các
phương án giải quyết các vấn đề chung của xã hội khác với giai cấp, tầng lớp
nắm quyền... Vì vậy, bên cạnh nhà nước trong xã hội còn tồn tại các tổ chức
chính trị khác.
b) Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để
thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị.
Trong chế độ dân chủ, các thành viên của xã hội cũng như các tổ chức
xã hội đều được tham gia ở mức độ nhất định hoạt động chính trị. Nhưng
không phải vì thế mà các tổ chức xã hội đó đều được gọi là các tổ chức chính
trị. Chỉ những tổ chức được lập ra chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị thì
mới gọi là tổ chức chính trị. Tổ chức chính trị có thể thực hiện các hoạt động
khác nhưng đó không phải nhiệm vụ cơ bản của nó.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.


Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong
xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù
hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nước

nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống
chính trị mang bản chất giai cấp. Trong các nước phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền
lực chính trị, tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ
thống chính trị.
II. ĐẶC ĐIỂM , NHIỆM VỤ CỦA HỆ THÓNG CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
a) Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới hiện nay, hệ thống
chính trị gồm hai thành phần cơ bản là nhà nước và các chính đảng (đảng
chính trị). Khác với hệ thống chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa, hệ thống
chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hệ thống chính trị ở Việt
Nam hiện nay, ngoài nhà nước và các chính đảng còn có một số tổ chức chính
trị - xã hội đặc biệt khác, được thành lập để thực hiện các hoạt động chính trị
đặc biệt. Các tổ chức chính trị đặc biệt này ngoài các hoạt động chính trị là
chủ yếu còn thực hiện các chức năng xã hội khác nhưng đó không phải chức
năng chủ yếu.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính


trị - xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị - xã
hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam.
b) Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
- Tính nhất nguyên chính trị
+ Không có chính đảng đối lập: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế
chính trị một đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất

định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội.
Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí
cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt
Nam là thể chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
+ Nhất nguyên về tổ chức (các thành phần đều là “cánh tay nối dài” của
Đảng): Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị
đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ
chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần
chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản
thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
+ Nhất nguyên về tư tưởng: Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống
chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính
trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tính thống nhất


Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí,
vai trò, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo
thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong
phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều
kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong
toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các
yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập
trung dân chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa
phương, với các bộ phận hợp thành.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân
dân
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với
chính trị,
quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có
các tồ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị,
vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội


khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội
(như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà
là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ
thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện
trên các yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp,
tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức
trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân

dân.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
+ Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính
trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân
dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều
thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị
ở nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
+ Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc
lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt


Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố
quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
+ Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong
bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt
giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
2. Nhiệm vụ của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị ở nước
ta
ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ
thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống
chính trị của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác
nhau do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các

quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
a. Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh
đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên
những nội dung chủ yếu sau:


Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan
điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo
và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận,
thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch,
chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước
và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các
Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc
xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có
đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và
nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế
dân chủ...
b. Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó

chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà
nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị
của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là
bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội


của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội
do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra
Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những
chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về
quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo
cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan
hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra.
Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý

những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật
một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí
của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự,


không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét
xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống,
tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ
quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt
động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được
gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội...
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện
cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất,
tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất
nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên,
đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng

tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám
sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân.


Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã
hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường,
thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng
Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã,
phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị
trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định
trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư.
III. VAI TRÒ CỦA HỆ THỒNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆ NAM HIỆN
NAY
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể
phân biệt ba loại thiết chế là:

- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam;
- Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng
như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội


cựu chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên
hiệp các hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt
Nam, Hội nhà báo Việt Nam...
- Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp
và các tổ chức xã hội khác...
Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội.
Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo để
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức tổ chức
và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ quan
nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do
Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tổ
chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống
nhất quản lí. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp
thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trò và trọng trách là
người lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính
chất chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng
vai trò là người tổ chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức
phù hợp.
Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trò riêng, chẳng hạn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của
các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp
xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý chí đại đoàn kết và

nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt
Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối
hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước,


quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và giám
sát; đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện
dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối
liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn
của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện
lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam
độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất
giai cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao
động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập
hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của
Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết
các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ
vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn
trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ,

có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương,


chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy
quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại
diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ
các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết,
tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất,
truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ,
bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp
đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Ngoài các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là
tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam
(VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam,
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng thời
cũng là một xu hướng phát triển của các thiết chế xã hội trong thời kì đổi
mới, nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức, các nhà khoa học,
không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội mà các tổ chức này cũng
đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.


Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên và phát huy
cao độ vai trò của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các doanh nhân trong
việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể
nói rằng đó là xu hướng tất yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân
chủ XHCN ở Việt Nam mà một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự
tác động tương hỗ dẫn đến sự hài hòa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế
- xã hội.
Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập
hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực
hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên
nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
So với các tổ chức xã hội khác, vai trò này của các tổ chức chính trị - xã hội
có tính trực tiếp hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội truyền thống và những
tổ chức xã hội đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội như nêu
trên, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ chức xã
hội khác. Các tổ chức xã hội loại này đang ngày càng nhiều và gồm các hình
thức tổ chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội
quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động tương trợ
xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung của các tổ chức xã
hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ chức này
hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển

lợi ích chung của các thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không
phải để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.


Bên cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã
hội, các tổ chức xã hội còn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự
liên kết, tập hợp các lực lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng về lợi
ích và ý nguyện. Đó cũng là xu thế khách quan của xã hội dân sự mà chúng ta
cần biết phát huy điểm tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một
cách đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây
giờ mà từ rất xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về
chức năng của các tổ chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã hội hiện
đại cũng cần phải như vậy, với tư duy “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của
các tổ chức xã hội được mô hình hoá như một “cái bệ đỡ” lớn, vững chắc cho
sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng, Nhà nước. Gốc có to, cây mới
vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với hệ thống
chính trị - xã hội Việt Nam.
Trong điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp
hội kinh tế ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng. Và theo nguyên lí về mối
liên hệ giữa kinh tế với chính trị thì các tổ chức hội đoàn kinh tế sẽ tác động
mạnh mẽ đến đời sống chính trị, luật pháp của nước ta theo cả hai chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Đó cũng là xu hướng có tính khách quan trong sự
phát triển của nền dân chủ hiện nay. Điều này dù không trực tiếp quyết định
thể chế chính trị, luật pháp nhưng việc ban hành và thực thi chính sách, pháp
luật không thể không tính đến nhu cầu, lợi ích cũng như vai trò tư vấn, phản
biện, giám định xã hội hay sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các hiệp hội kinh tế vào quá trình đó.
Như vậy, trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội

đóng vai trò năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung. Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị


mà ngày càng tham gia mạnh mẽ, tác động lớn lao đến kết quả hoạt động của
hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã hội là hệ thống
phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị.
Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị
và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân
dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã
hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội.
Do đó, hệ thống chính trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và
quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng
của đời sống xã hội. Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự
tác động của hệ thống chính trị, phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống chính trị
mà cũng có vai trò, trách nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất
nước. Cả hai hệ thống đó không thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau.
Nếu hệ thống này không tốt thì tất yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia và
ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ thống xã hội hòa hợp thành
thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, điểm cần
chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ thống
chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi
hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu
và mong muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Thành ra,
dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động nhưng nhìn
tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con
người, vì một xã hội tốt đẹp.
Điều có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây là
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự hình
thành và phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội của đất nước đã tạo

cơ sở khách quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi của các tổ chức


này đến hệ thống chính trị: Đảng và Nhà nước. Đó có thể là các loại hoạt
động khác nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã hội..


KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã
được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện
theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì
dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ
của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng
được phát huy . Qua phân tích trên đây cho ta thấy được vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự hình thành và phát
triển của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội của đất nước đã tạo cơ sở khách
quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi của các tổ chức này đến hệ
thống chính trị


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Giáo trình kinh tế phát triển
 Giáo trình kinh tế môi trường
 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010
 Văn kiện đại hội X_chương trình nghị sự 21
 Trang web: /> />và một số trang web khác.




×