Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn sư phạm Đặc trưng thể loại trữ tình hiện đại với việc đọc - hiểu thơ trữ tình Tố Hữu trong nhà trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.67 KB, 91 trang )

Trường Đại học sư phạm hà Nội 2
Khoa Ngữ văn
----------------------------

Nguyễn Thị Thanh Nhàn

Đặc trưng thể loại trữ tình
hiện đại với việc đọc - hiểu thơ
trữ tình tố hữu trong
nhà trường THPT
Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học

ThS.GVC Vũ Ngọc Doanh

Hà Nội - 2010


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại là một vắn đề được
đặt ra từ lâu trong thực tiễn giảng dạy văn học ở trường phổ thông. Và trong
một thời gian dài, nó vẫn thường là băn khoăn, suy nghĩ, tìm tòi của phần lớn
giáo viên Ngữ văn THPT chúng ta. Tất cả những trăn trở, cố gắng tìm tòi
trong đổi mới phương pháp giảng dạy đều nhằm mục đích nâng cao chất
lượng dạy học Ngữ văn, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế thị trường phát triển
như vũ bão, tất cả mọi người dân nói chung và học sinh nói riêng đều bị cuốn
theo sự phát triển đó của xã hội. Hơn nữa, cách lựa chọn chương trình trong


SGK cầu kỳ, hàn lâm, không thiết thực, GV vẫn thiên về lối dạy truyền thống:
Thầy đọc - trò chép nên xu hướng chung là các em học sinh tìm đến với
những môn học tự nhiên (toán, lý, hóa…), tìm đến những trường Đại học kinh
tế, kĩ thuật… Còn môn Ngữ văn nói riêng và những môn xã hội nói chung thì
số người yêu thích ngày càng giảm, thậm chí đối với nhiều em đó chỉ là môn
học để chống chế
Tuy nhiên, nền giáo dục của nước ta là nền giáo dục toàn diện. Chính vì
vậy, từ trước đến nay môn Ngữ văn vẫn là môn học chính trong chương trình
giáo dục. Điều đó được thể hiện bằng thời lượng giảng dạy và vai trò quan
trọng của nó đối với vấn đề hoàn thiện nhân cách, tri thức vủa học sinh. Vấn
đề đặt ra ở đây là tại sao môn Ngữ văn lại không được học sinh yêu thích? Có
rất nhiều lí do để giải thích và trả lời câu hỏi đó, và một trong những lí do có
thể đưa ra đây là phương pháp giảng dạy.


Dạy văn từ trước đều được tiến hành theo kiểu áp đặt cách hiểu, cách
cảm của giáo viên cho học sinh và học sinh tiếp thu một cách máy móc, thụ
động. Phương pháp dạy văn học truyền thống chưa phát huy đúng mức tính
tích cực, chủ động của học sinh. Mô hình tiêu biểu của quan niệm đó là: thầy
giảng- trò nghe; thầy đọc- trò chép; thầy ra đề hỏi về những điều đã học- trò
trả lời. Không phải chúng ta không biết tới các phương pháp tích cực như dạy
học nêu vấn đề, phương pháp phát vấn trong giờ học văn. Vấn đề là một thời
gian dài chúng ta dạy văn trên cơ sở lí thuyết hình tượng, chỉ ra các chi tiết,
mâu thuẫn tiêu biểu thể hiện tư tưởng tác phẩm. Trong lí luận, đó là vấn đề
văn bản văn học- đối tượng trực tiếp của sự đọc- hiểu chưa được coi trọng
đúng mức. Lí luận dạy học hiện đại đặt vấn đề đọc- hiểu văn bản lên hàng
đầu. Trước khi có hình tượng, học sinh phải làm việc với văn bản. Từ THCS
phương pháp đọc- hiểu đã được GS Nguyễn Khắc Phi đề xuất và vận dụng
một cách chính thức- đó là “Phương pháp dạy học sinh làm việc với văn bản
văn học từ ba phương diện: đọc theo dòng chữ, đọc giữa dòng chữ, đọc ngoài

dòng chữ. Ba cấp độ đó ứng với ba cấp độ của cấu trúc văn bản: ngôn từ, hình
tượng, ý nghĩa. Đó là tư tưởng sâu sắc” (SGV Ngữ văn 12 (thí điểm)(2004),
NXB Giáo Dục, tr.176).
Mặt khác, mỗi tác phẩm văn chương lại tồn tại dưới một thể loại nhất
định (tự sự, trữ tình, kịch). Mỗi thể loại có đặc trưng riêng nên hướng tiếp cận
cũng khác nhau. Vấn đề giảng dạy theo đặc trưng thể loại được đánh giá là
phương pháp có nhiều triển vọng. Nó vừa tránh được những bất cập mà các
phương pháp khác tồn tại vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc đặt ra trong việc
giảng dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường.
Tố Hữu là nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Thơ
ông gắn chặt với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc ta suốt mấy chục năm
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phản ánh những nét lớn trong đời sống


tinh thần của dân tộc ở một thời kì đã diễn ra nhiều biến cố trọng đại và đổi
thay to lớn của lịch sử Việt Nam trong thế kỉ XX. Thơ Tố Hữu đã có sức cảm
hóa, chinh phục đông đảo quần chúng nhân dân trong một thời kì dài suốt
mấy mươi năm. Với vị trí và sức mạnh của mình, thơ Tố Hữu đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến những đặc điểm và xu hướng vận động của nền thơ ca.
Việc giảng dạy thơ hiện đại nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng trong nhà
trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều bất cập khi cách dạy truyền thống
thầy giảng- trò chép đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi giáo viên và học sinh. Làm
thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học? Làm thế nào để học sinh thấy hết
được cái hay cái đẹp của mỗi vần thơ để từ đó hoàn thiện nhân cách và có tri
thức bước vào cuộc sống đã trở thành câu hỏi lớn đang đặt ra. Hơn nữa lại áp
dụng phương pháp đọc- hiểu và giảng dạy các tác phẩm văn học giai đoạn
này. Trong khi xã hội đang ngày càng phát triển, việc dạy văn- học văn cũng
cần phải đổi mới, nâng cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu mới của một xã hội
hiện đại.
Vì vậy, để góp phần vào việc giảng dạy có hiệu quả thơ Tố Hữu nói

riêng, thơ trữ tình nói chung dựa trên đặc trưng thể loại, người viết chọn đề
tài: “Đặc trưng thể loại trữ tình hiện đại với việc đọc- hiểu thơ trữ tình Tố
Hữu trong nhà trường THPT”.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề thể loại
Thể loại trữ tình đã và đang là đối tượng nghiên cứu của đông đảo các
nhà khoa học.
Người đầu tiên quan tâm đến vấn đề này là Aristot trong “Nghệ thuật thi
ca” đã đưa ra ba phương thức mô phỏng hiện thực đó là: tự sự, trữ tình, kịch.
Biêlinxki đã phân chia chi tiết hơn trong bài báo: “Sự phân chia thơ ra
kiểu và loại”.


GS Trần Thanh Đạm đã khẳng định có ba loại: tự sự, trữ tình, kịch.
Trong giáo trình “Lí luận văn học” (NXB Giáo dục) phân chia ra làm
năm loại: tự sự, trữ tình, kịch, chính luận, bút kí.
Vấn đề đọc- hiểu
Đây là một vấn đề được quan tâm bởi đông đảo các nhà nghiên cứu. Tập
trung trong một số công trình:
-“Tiếp nhận văn học” của Nguyễn Trọng Hoàn.
-“Đọc văn hiểu văn” của Trần Đình Sử.
-“Hiểu văn dạy văn” của Nguyễn Thanh Hùng.
Vấn đề đọc - hiểu tác phẩm trữ tình
Được nghiên cứu tập trung trong các công trình sau:
-“Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường” của
Nguyễn Thị Khánh Dư.
-“Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” của Trần Thanh
Đạm.
Song, qua khảo sát cho thấy hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ
đưa ra một cách chung nhất về vấn đề đọc - hiểu các tác phẩm trữ tình mà

chưa chỉ rõ phương pháp giảng dạy tác phẩm trữ tình theo đặc trưng loại thể
vận dụng vào bài học thơ Tố Hữu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc trình bày những tri thức cơ bản về đặc trưng của thể loại
trữ tình, đặc trưng của thơ Tố Hữu, người viết muốn vận dụng vào việc tổ
chức dạy học các tác phẩm thơ Tố Hữu trong chương trình Ngữ văn THPT.
Qua đó giúp học sinh tiếp nhận được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm thơ Tố
Hữu.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu, khảo sát các tài liệu về thể loại, đặc điểm về thể loại và thể
loại trữ tình, phương pháp đọc - hiểu theo đặc trưng thể loại.
- Trên cơ sở đặc trưng đó và lý thuyết giảng dạy tác phẩm văn chương
trong nhà trường vận dụng đọc - hiểu các tác phẩm thơ trữ tình Tố Hữu trong
chương trình THPT.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Lí thuyết tiếp nhận văn chương, vấn đề thể loại, đặc trưng thể loại trữ
tình, thơ Tố Hữu, lí thuyết đọc hiểu và vận dụng trong giảng dạy ở trường
THPT.
- Tài liệu nghiên cứu: Toàn bộ tác phẩm thơ trữ tình Tố Hữu, tập trung
vào các tác phẩm được tuyển chọn trong “Tuyển tập thơ Tố Hữu” và trong
chương trình THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu trong phạm vi thể loại trữ tình với các tác phẩm thơ trữ tình
Tố Hữu.
- Nghiên cứu các tác phẩm thơ trữ tình Tố Hữu trong nhà trường THPT.
5. Đóng góp của khóa luận.

- Khóa luận đóng góp một phần nhỏ trong việc hình thành các thao tác,
các bước đọc - hiểu trong giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình Tố Hữu trong
nhà trường THPT.
- Khóa luận đóng góp tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn trong nhà trường THPT.
6. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì nội dung khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung


1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2: Đặc trưng thể loại trữ tình hiện đại với việc đọc – hiểu thơ trữ
tình Tố Hữu trong nhà trường THPT.
2.1. Đặc trưng thơ trữ tình hiện đại
2.2. Đặc trưng thơ trữ tình Tố Hữu
2.3. Đọc – hiểu thơ trữ tình hiện đại
2.4. Phương pháp dạy đọc - hiểu thơ trữ tình Tố Hữu trong nhà trường
THPT.
Chương 3: Giáo án thực nghiệm
3.1. Giáo án 1: Từ ấy – Tố Hữu.
3.2. Giáo án 2: Việt Bắc – Tố Hữu.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
1.1.1.Vấn đề thể loại.
1.1.1.1. Thể loại (Loại thể)
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thể loại:

- Theo “Từ điển Tiếng Việt” thì thể loại là hình thức sáng tác văn học,
nghệ thuật phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn
ngữ.
Theo các nhà lí luận, khái niệm thể loại được hiểu là: “Thể loại tác phẩm
văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một
nội dung nhất định có hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức
chỉnh thể”[12,339]
Thực chất, khái niệm “thể loại” được hiểu là: sự gộp lại của hai khái
niệm “thể” và “loại”
“Loại” (loại hình): từ thời cổ đại, Aristot đã đề xuất khái niệm này. Loại
là phương thức nhà văn sử dụng để nhận thức, khám phá đời sống khách
quan, để tái hiện đời sống và sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật. Thông qua
hình tượng nghệ thuật ấy để biểu hiện tư tưởng, tình cảm. Bao gồm ba loại
hình tiêu biểu cho ba phương thức sáng tác:
- Loại hình tự sự với phương thức tự sự
- Loại hình trữ tình với phương thức trữ tình
- Loại hình kịch với phương thức tạo xung đột và kịch tính
Ba loại hình đó tổ chức thành hai dạng văn bản: văn vần và văn xuôi. Ba
loại hình có mặt ở tất cả mọi nền văn học, mọi thời kì văn học ở mọi quốc gia,


khuynh hướng, trào lưu, tác giả, … Loại hình vừa mang tính phổ biến lại vừa
phản ánh đặc điểm riêng của một dân tộc, một cộng đồng, một cá nhân nghệ
sĩ.
“Thể” (thể tài): là hình thức tổ chức ngôn ngữ, quy mô, dung lượng của
tác phẩm. Số lượng nhiều hơn loại, sự biến đổi cũng phong phú hơn. Mỗi loại
có thể bao gồm nhiều thể khác nhau.
Nói chung, loại là một khái niệm lớn, có quan hệ bao chứa; thể là một
khái niệm nhỏ nằm trong loại.
Thể loại tác phẩm văn học là một hiện tượng loại hình sáng tác và giao

tiếp văn học. Nó vừa mang tính quy luật, lặp lại, vừa mới mẻ độc đáo. Nó vừa
mang tính lịch sử vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại. Bởi nó có
quan hệ chặt chẽ với lịch sử văn học.
Trong thể loại tác phẩm văn học, bao giờ cũng có sự thống nhất, quy
định lẫn nhau về các mặt: đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình thức nhân vật, lời
văn. Chẳng hạn: thể trữ tình có nội dung trữ tình, nhân vật trữ tình, ngôn ngữ
trữ tình; tự sự có: cốt truyện, nhân vật tự sự, ngôn ngữ tự sự. Do vậy, việc bạn
đọc tiếp nhận văn chương theo thể loại chính là việc bạn đọc phải đi tìm hiểu
đặc trưng của thể loại ấy.
1.1.1.2. Sự phân chia thể loại.
Từ thời cổ đại, Aristot đã phân chia các tác phẩm văn học ra thành ba
loại cơ bản: tự sự, trữ tình, kịch. Ứng với mỗi thể loại là một phương thức
phản ánh đặc trưng. Tiêu chuẩn và căn cứ hợp lí nhất để phân chia loại thể
văn học trước hết là kết cấu hình tượng hoặc hệ thống hình tượng của tác
phẩm. Tức là mọi sự phân chia đều từ sự cấu tạo bên trong của tác phẩm văn
học chứ không phải đơn thuần dựa vào một số biểu hiện về hình thức bên
ngoài. Kiến trúc của tác phẩm, cấu tạo hình tượng như thế nào là do phương
thức phản ánh và biểu hiện đó quy định. Nếu hình tượng thiên về mặt biểu


hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả ta sẽ có tác phẩm trữ tình. Nếu hình tượng
thiên về mặt biểu hiện con người, sự vật trong cuộc sống ta sẽ có tác phẩm tự
sự. Tác phẩm tự sự tập trung, cô đọng đến mức độ bản thân nhân vật, sự việc,
câu chuyện có thể tự mình bộc lộ trên trang sách hoặc trên sân khấu, không
cần sự “dẫn chuyện” của tác giả, như thế ta sẽ có tác phẩm kịch. Tự sự, trữ
tình, kịch là ba phương thức cơ bản nhất của sự phản ánh hiện thực cuộc sống
và biểu hiện nội tâm tác giả, ba phương thức cơ bản của sự cấu tạo hình
tượng, kiến trúc tác phẩm văn học. Đồng thời đó cũng là ba loại cơ bản nhất
trong lòng mỗi loại và trên biên giới của mỗi loại sẽ nảy sinh rất nhiều các thể
khác nhau của sự sáng tác văn học.

Từ ba thể loại trên có thể chia nhỏ:
- Tự sự:
+ Tự sự dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện
cười.
+ Tự sự trung đại và hiện đại: truyền kì, tiểu thuyết, kí, truyện.
- Trữ tình:
+ Trữ tình dân gian: ca dao, câu đố.
+ Trữ tình trung đại và hiện đại: thơ cổ thể truyền thống, thơ tự do.
- Kịch:
+ Kịch dân gian: chèo, tuồng, múa rối.
+ Kịch hiện đại: bi kịch, hài kịch.
Ở khóa luận này, người viết chỉ tập trung nghiên cứu thể loại trữ tình.
Tác phẩm trữ tình là tác phẩm phản ánh hiện thực đời sống thông qua
cảm xúc và tâm trạng. Cho nên các đặc trưng của tác phẩm trữ tình thường
tập trung thể hiện các chiều hướng cảm xúc, các trạng thái tình cảm, thông
qua đó để tái hiện đời sống. Và bạn đọc chỉ có thể nhận ra đời sống thông qua
tâm trạng, cảm xúc của nhà văn được trình bày và sắp xếp theo một trật tự kế


thừa theo hàng dọc. Vì vậy, khi tiếp cận tác phẩm trữ tình, người ta chú ý đến
ba đặc trưng:
- Nội dung trữ tình
- Nhân vật trữ tình
- Ngôn ngữ trữ tình
1.1.1.3. Vấn đề tiếp nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Hoạt động tiếp nhận, hoạt động dạy và học tồn tại độc lập, riêng rẽ
nhưng thực chất đây là những hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nó như là những cơ sở, những căn cứ lí thuyết của phương pháp dạy học. Vấn
đề thể loại có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy, học tác phẩm văn
chương trong nhà trường. Lí thuyết vấn đề thể loại được sử dụng như những

công cụ trong tác phẩm văn học nhưng nó là công cụ quan trọng. Bởi lẽ, thể
loại là phương thức mà nhà văn sử dụng để tạo ra tác phẩm văn học và hoạt
động dạy học tác phẩm thì cái đích cuối cùng là nắm và hiểu tác phẩm.
Muốn vậy thì ngoài việc biết tác phẩm nói cái gì còn phải biết tác phẩm
được làm ra từ cái gì mà điều quan trọng là cái điều đó được làm ra như thế
nào? bằng cách nào?
Người đọc tác phẩm phải đi trên con đường mà nhà văn làm ra tác phẩm
đã đi. Đi trên con đường ấy, người đọc sẽ được hướng dẫn bởi những lí thuyết
rút ra từ việc phân tích, cắt nghĩa, bình giá tác phẩm, trong đó có lí thuyết về
thể loại.
Hoạt động tiếp nhận theo thể loại là chìa khóa để hiểu tác phẩm theo
phương pháp mới.
1.1.2. Vấn đề tiếp nhận văn học.
1.1.2.1. Khái niệm tiếp nhận tác phẩm văn học.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ, tiếp nhận là “đón nhận
cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho”.


Tiếp nhận văn học được hình thành từ Mĩ học tiếp nhận - một trong
những thành tựu của ngành xã hội học nghệ thuật với các nhà khoa học Tiệp
Khắc như Đônxen và Micô đã nghiên cứu khái niệm “Lí thuyết ngôn ngữ và
hoàn cảnh giao tiếp văn học”. Các nhà nghiên cứu văn học Ba Lan Ingacđen
đã tìm hiểu những khả năng khác nhau để lĩnh hội, lí giải tính chân thật của
tác phẩm văn học hoặc Glôvinxki, Hanđơke, Slavinxki, Bansêđan, … trong số
các công trình nghiên cứu đó, công trình “Người tiếp nhận trong cấu trúc tác
phẩm văn học” Glôvinxki đã nghiên cứu phương thức xác định người nhận tin
trong tác phẩm văn học và những yêu cầu của người nhận tin đã ảnh hưởng
đến tác phẩm. Tư tưởng khoa học của Glôvinxki được đánh giá là điểm xuất
phát của những công trình khoa học sau này tiếp tục nghiên cứu sự phân loại
độc giả và phân tích những điều kiện mà giao tiếp văn học xảy ra.

Tiếp nhận văn học có rất nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau. Theo
giáo trình “Lí luận văn học” (Nxb ĐHSP): tiếp nhận văn học là giai đoạn
hoàn tất quá trình sáng tác, giao tế của văn học. Người nghệ sĩ sáng tạo tác
phẩm văn học là truyền đạt những cảm nhận khái quát về cuộc đời cho người
đọc. Chỉ khi được bạn đọc tiếp nhận, quá trình sáng tạo mới được hoàn tất.
Thực chất của quá trình này là chuyển cảm xúc đến bạn đọc cộng hưởng cảm
xúc đó.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “tiếp nhận văn học là hoạt động
chiếm lĩnh giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự
cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan
niệm nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách
hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng của hoạt động sáng tạo, bản dịch,
chuyển thể,…” [5, 325].
Trong cuốn “Đọc và tiếp nhận văn chương”, GS. Nguyễn Thanh Hùng
quan niệm: “tiếp nhận văn học là quá trình đem lại cho người đọc sự hưởng


thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố và phát triển một cách
phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực cảm xúc của
con người trước đời sống” (tr.105).
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn trong một số công trình nghiên cứu cũng đã
đưa ra quan niệm của mình về tiếp nhận văn học. Nó được xem như là “Thi
pháp ứng dụng, từng bước chuyển chủ thể tiếp nhận và chủ thể văn học để
người đọc trực tiếp tham gia những tình huống văn học, tạo điều kiện để
người tiếp nhận được cắt nghĩa, thể nghiệm, nếm trải, sẻ chia và tạo nên sự
đồng cảm nghệ thuật, đồng thời tiếp nhận cũng bộc lộ một số phương diện về
thiên hướng, năng lực thẩm mĩ và phong cách của mình.
Như vậy, các quan niệm trên đã thâu tóm tương đối đầy đủ bản chất của
quá trình tiếp nhận. Có thể thấy rằng đó là quá trình giao tiếp giữa bạn đọc
với tư cách là “người nhận tin” và tác giả với tư cách là “người truyền tin”.

Thực chất của hoạt động này là sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa người đọc và hình
tượng văn học.
1.1.2.2. Tiếp nhận văn học là một quá trình.
Tiếp nhận văn học là một quá trình. Nhưng tiếp nhận văn học diễn ra như
thế nào? phạm vi của nó đến đâu là một vấn đề không đơn giản. Nếu “thực
chất của quá trình sáng tác văn học là quá trình chuyển cảm xúc đến bạn đọc”
thì thực chất của quá trình tiếp nhận văn học là quá trình bạn đọc “cộng
hưởng” được cảm xúc đó. Và nếu đặc thù của quá trình sáng tác văn học là
giai đoạn tồn tại của hình tượng nghệ thuật thì đặc thù của quá trình tiếp nhận
văn học là quá trình đi ngược lại quá trình sáng tác, ở đó “người đọc phải bắt
đầu từ việc đọc tác phẩm từ những yếu tố nhỏ nhất trong văn bản tới việc tiếp
nhận ý nghĩa của toàn bộ văn bản, chuyển nội dung văn bản thành thế giói
tinh thần mỗi con người, thành tác phẩm riêng của họ”. Trong quá trình này,
người đọc sẽ tìm ra những tình cảm thẩm mĩ quan trọng như: tính chân thực


và soi sáng của ngôn ngữ nghệ thuật, sự thống nhất nội tại trong kết cấu, tính
độc đáo của những phát hiện, chân lí của những sự phản ánh, trọng lượng của
những xung đột, đặc trưng thi pháp thể loại, quan niệm nghệ thuật về con
người ở tác giả.
Tác phẩm văn học được sáng tác ra để bạn đọc thưởng thức, tiếp nhận.
Quy luật của tiếp nhận tác phẩm văn học là cảm thụ tác phẩm trên tổng thể,
trên chỉnh thể. Tác phẩm văn học bằng mọi chi tiết của nó, sáng tạo ra một thế
giới riêng, một xã hội riêng, một nhân loại riêng với tính hệ thống và những
quy luật của nó. Vì vậy, tiếp nhận văn học chính là sự phân ra được những
quy luật ấy. Nó đòi hỏi người đọc trước hết phải tri giác, cảm thụ tác phẩm
phải hiểu ngôn ngữ, tình tiết, cốt truyện, thể loại để có thể cảm nhận hình
tượng trong sự toàn vẹn các chi tiết các liên hệ. Sau đó, người đọc tiếp xúc
với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập vào hệ thống hình tượng như là sự
kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của tác giả. Ở cấp độ tiếp theo, người

đọc phải đưa hình tượng vào văn cảnh đời sống và kinh nghiệm đời sống của
mình để thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng nâng cấp, lí giải tác phẩm trong
lịch sử, văn hóa tư tưởng, đời sống và truyền thống, hiểu được vị trí tác phẩm
trong lịch sử văn học, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật. Quá
trình tìm ra cách giải thích ý nghĩa tượng trưng của văn bản và ý định chủ
quan của tác giả chính là quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học.
Như vậy, sáng tác tác phẩm văn học là một quá trình. Tiếp nhận chân lí
nghệ thuật cũng là một quá trình. Tiếp nhận tác phẩm văn học vì thế thực sự
là một quá trình lâu dài có nhiều cấp độ, thực chất đó là một hoạt động tái tạo
và sáng tạo mới hình tượng nghệ thuật dựa theo đặc điểm cá nhân và cảm xúc
của từng người. Đó là quá trình tri giác tác phẩm cụ thể hóa, khái quát nghệ
thuật để hiểu được giá trị đích thực của tác phẩm.


Quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm văn chương mặc dù tồn tại độc
lập nhưng thống nhất và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Quá trình sáng
tạo chỉ kết thúc khi quá trình tiếp nhận được diễn ra và khi quá trình tiếp nhận
diễn ra lại nảy sinh một quá trình sáng tạo mới.
1.1.2.3. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết tiếp nhận.
1.1.2.3.1. Phương pháp sáng tác của nhà văn.
Văn chương là một hình thái ý thức đặc thù, là một loại hình nghệ thuật
đặc biệt, đó là nghệ thuật ngôn từ. Do vậy nhà văn – những người sáng tạo ra
các tác phẩm văn chương chính là những nghệ sĩ ngôn từ, họ chính là người
sáng tác và biểu diễn nghệ thuật, họ có năng lực nổi trội và sự sáng tác biểu
diễn của họ mang tính chất chuyên nghiệp. Người nghệ sĩ ngôn từ chuyên
sáng tác văn thơ, có tài năng và có tác phẩm có giá trị được mọi người công
nhận. Quá trình sáng tác của nhà văn thực chất là lịch sử xây dựng lại những
hình tượng tình cảm ở công chúng (Kuobakine). Nhà văn giữ vai trò vô cùng
quan trọng, đó là chủ thể sáng tạo nên các tác phẩm văn chương. Trong bốn
thành tố tạo nên quá trình sáng tác và thưởng thức văn học (thời đại – nhà văn

– tác phẩm – bạn đọc) thì nhà văn giữ vai trò quan trọng nhất.
Tác phẩm văn chương là đứa con tinh thần của nhà văn, nó là sản phẩm
của biết bao băn khoăn trăn trở. Đó là một quá trình dài có thể khái quát bằng
sơ đồ : hình thành ý đồ – thu thập tư liệu – lập sơ đồ, hồ sơ - viết – sửa chữa.
Muốn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật thực thụ, nhà văn phải quan sát. Sự
quan sát đó phải diễn ra song song trên hai bình diện đó là đối tượng thẩm mĩ
trong hiện thực khách quan nảy sinh trong thời đại mình, đồng thời quan sát
nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ của bạn đọc. Hoạt động đó vừa giúp nhà văn tóm
được đối tượng viết tác phẩm lại vừa cho ra đời những tác phẩm đáp ứng thị
hiếu của độc giả.


Quá trình sáng tác của nhà văn là quá trình quan sát, nghiền ngẫm hiện
thực khách quan rồi phản ánh trong tác phẩm bằng những hình tượng nghệ
thuật đặc sắc. Hay như Banzăc đã nói : “Văn học là tấm gương phản ánh đời
sống” và nhà văn là “Người thư kí trung thành của mọi thời đại”. Nhưng cũng
cần phải nhận thức thật thấu đáo rằng hiện thực trong tác phẩm văn học không
phải bao giờ cũng trùng khít với hiện thực ngoài đời sống vì văn học là hình
bóng của cuộc đời chứ không phải bản thân cuộc sống. Bởi cuộc sống trong
tác phẩm văn chương là cuộc sống đã được chắt lọc qua lăng kính chủ quan
của người nghệ sĩ, đã được nhào nặn và sáng tạo lại. Nó vừa giống lại vừa
khác với cuộc đời thực. Hơn thế nữa, văn học cũng không chỉ là sự phản ánh
giản đơn của cấu trúc xã hội mà ở đó vai trò của nhà văn cùng cá tính sáng tạo
rất quan trọng. Theo TS. Nguyễn Trọng Hoàn đó là một quá trình tư duy ngôn
ngữ thầm lặng, là cả một quá trình gian khổ tìm tòi ý tưởng, thổi hồn vào từng
câu chữ ví như người lọc quặng Radium đầy khổ luyện và công phu thông
qua khả năng cảm thụ đời sống, sự hồi tưởng, óc tưởng tượng phong phú .
1.1.2.3.2. Cơ chế của hoạt động tiếp nhận .
Hoạt động sáng tạo của nhà văn là một quá trình, vì vậy hoạt động tiếp
nhận cũng phải theo một quy trình nhất định và theo các bước sau:

a) Đọc (văn bản).
Đọc là sự khởi đầu cho tiếp nhận văn học. Đọc được coi là con đường
đặc trưng không thể thay thế trong việc tiếp nhận văn học. Bởi tác phẩm văn
học tồn tại dưới dạng văn bản văn học, đó là tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ
trong đó chứa đựng thông tin. Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận các thông tin ẩn
chứa trong đó bằng phương pháp đọc. Đọc là con đường, là cách thức tiếp
nhận thông tin làm giàu sự hiểu biết, phục vụ cho học tập và cuộc sống. Đọc
chính là quá trình chuyển tải các kí hiệu ngôn ngữ ở dạng văn bản viết sang
những kí hiệu âm thanh. Đọc chính là quá trình khôi phục lớp vỏ âm thanh


trong tác phẩm. Đọc được coi là con đường đặc thù không thể thay thế. Với
mỗi bạn đọc khác nhau với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, thời đại, nghề
nghiệp khác nhau sẽ có cách hiểu khác nhau. Đó thực sự là quá trình độc giả
đồng sáng tạo với tác giả.
b) Phân tích.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất về nội dung và trọn vẹn
về hình thức. Phân tích tác phẩm được hiểu là chia nhỏ tác phẩm thành từng
phần để tìm hiểu và sau đó tích hợp lại. Với thao tác phân tích tác phẩm thì
người đọc mới hiểu được một cách cụ thể, chi tiết các tầng nghĩa, những hình
ảnh và ngôn từ gợi ra. Qua đó người đọc mới tìm hiểu được tác phẩm một
cách toàn diện, nhìn nhận tác phẩm ở nhiều góc độ, nhờ đó hiểu tác phẩm sâu
hơn.
Khi phân tích, chúng ta phải có phương pháp phù hợp bởi không phải chỗ nào
cũng chia nhỏ ra mà cần phải xác định đâu là trọng tâm, phải lựa chọn ra
những yếu tố bản sắc của tác phẩm, biết đi sâu vào cảm xúc mãnh liệt trung
thực nhất trong thế giới nội tâm, vượt qua sự đủ đầy, quen thuộc xáo mòn. Từ
đó tìm hiểu sự súc tích của ngôn ngữ nghệ thuật.
Thêm đó, khi phân tích tác phẩm thì người đọc cũng phải có những hiểu
biết nhất định về ngôn ngữ, kết cấu, thể lọai, hiểu biết về văn học. Đây chính

là vấn đề khó khăn đối với người đọc khi đi phân tích tác phẩm.
c) Cắt nghĩa tác phẩm.
Cắt nghĩa theo gốc Latinh có nghĩa là giải thích, suy nghĩ.
Khi phân tích tác phẩm, người ta chia tác phẩm thành những đơn vị nhỏ và để
hiểu được những đơn vị nhỏ đó thì phải cắt nghĩa. Hoạt động cắt nghĩa cũng
là cơ sở đánh giá mức độ hiểu tác phẩm. Bởi có hiểu tác phẩm ta mới cắt
nghĩa được.


Để có thể cắt nghĩa, người đọc không những phải có vốn hiểu biết về
ngôn ngữ, hiểu biết về đời sống mà đòi hỏi cả ở sự cảm nhận của bản thân.
Bởi mỗi đối tượng cắt nghĩa đều được xem xét ở hai phạm trù: ý và nghĩa.
Nghĩa là bản chất của đối tượng còn ý thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể và
đối tượng.
Dạy tác phẩm văn chương làm rõ nghĩa và sự phong phú của ý. Nó được
bắt đầu từ dạy ý nghĩa của chi tiết, hình ảnh để tiến tới việc cắt nghĩa hình
tượng và cao hơn là cắt nghĩa tác phẩm. Mỗi tác phẩm văn chương có ý nghĩa
nhất định. Nhưng mỗi cá nhân đọc hiểu về tác phẩm lại có một cách cắt nghĩa
riêng. Chính điều đó tạo ra cái nhìn đa chiều của tác phẩm.
d) Bình giá tác phẩm.
Đây là bước cuối cùng trong tiếp nhận tác phẩm. Bình là công việc mang
tính chủ quan của người đọc đưa ra ý kiến đánh giá, bày tỏ thái độ của mình
đối với tác phẩm .
Lời bình phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận, thái độ, quan hệ của người đọc
đối với tác phẩm và nhà văn.
Khái quát lại bình chính là đi giải quyết các câu hỏi được đặt ra xung
quanh tác tác phẩm: Tác phẩm có đóng góp gì đặc sắc? Vị trí của tác phẩm
trong nền văn học dân tộc thời đại? Tác phẩm còn hạn chế ở phương diện
nào?
1.1.2.3.3. Những khó khăn khi tiếp nhận tác phẩm văn học.

Tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng văn bản, đó là tập hợp các kí hiệu
ngôn ngữ. Việc tiếp nhận tác phẩm trước hết là tiếp xúc với tập hợp ngôn ngữ
đó. Chính vì vậy việc tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm văn học gặp không ít khó
khăn mà người ta gọi là khoảng cách chuyên chế. Bao gồm các khoảng cách:
- Khoảng cách về ngôn ngữ: trong tác phẩm văn học dù là lời kể chuyện
hay của nhân vật thì đó đều là ngôn ngữ của tác giả. Giữa ngôn ngữ độc giả


và ngôn ngữ tác giả không bao giờ trùng khớp, đó là khoảng cách bạn đọc
phải phá bỏ để đến với tác phẩm.
- Khoảng cách tâm lý: Phụ thuộc vào tâm lý của tác giả, tâm lý của người
tiếp nhận và tâm lý thời đại. Tác phẩm thuộc thời đại nào sẽ phải phụ thuộc
vào tâm lý thời đại đó, đồng thời còn phụ thuộc vào thời đại mà bạn đọc đang
sống .
- Khoảng cách lịch sử: Lịch sử phản ánh trong tác phẩm phần lớn thuộc
về quá khứ và ngay cả những tác phẩm văn chương đương đại bản thân nó
cũng gây khó khăn cho học sinh trong quá trình tiếp nhận. Lịch sử được phản
ánh trong tác phẩm với lịch sử ra đời trong tác phẩm đương đại bản thân nó
cũng gây khó khăn cho học sinh trong quá trình tiếp nhận. Lịch sử được phản
ánh trong tác phẩm với lịch sử ra đời trong tác phẩm không phải bao giờ cũng
giống nhau. Tác phẩm ra đời ngày hôm nay nhưng lại có thể viết về thời kì
trước.
Để khắc phục những khó khăn đó, đọc và tiếp nhận tác phẩm ấy trên cơ
sở đặc trưng thể loại là biện pháp hữu hiệu nhất.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Dạy văn theo đặc trưng thể loại được đặt ra từ lâu song việc áp dụng vào
giảng dạy và giảng dạy đạt hiệu quả còn chưa rộng rãi và phổ biến, nhiều khi
còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Giảng dạy văn hiện nay vẫn coi trọng
phương pháp truyền thống - giáo viên thuyết giảng mà còn chưa mạnh dạn
thay đổi phương pháp. Giáo viên vẫn chủ yếu áp đặt sự cảm nhận về tác phẩm

của mình cho học sinh. Cách dạy đó đi ngược lại với bản chất của văn
chương, đi ngược lại nguyên tắc dạy học là phương pháp cách li tốt nhất
người đọc (học sinh) khỏi tác phẩm, làm cho học sinh không có dịp trực tiếp
đối diện với văn bản và tất nhiên đánh mất luôn năng lực của họ.


Trong thực tế chia văn học thành 3 loại chính: tự sự, trữ tình, kịch.
Nhưng có những tác phẩm có giá trị tồn tại nhiều yếu tố của nhiều thể loại.
Chính vì vậy, nếu quy chung về một thể loại nào đó để dạy cũng là không
chuẩn xác và người học sẽ không hiểu hết và đầy đủ, toàn diện tác phẩm văn
học.
Chẳng hạn “Truyện kiều” của Nguyễn Du, ngay nhan đề đã cho biết tác
phẩm này thuộc thể loại tự sự. Nhưng khi tìm hiểu tác phẩm này nếu chỉ dừng
lại ở việc tìm hiểu nhân vật, cốt truyện, các chi tiết biến cố trong cuộc đời
nhân vật Kiều thì sẽ không thấy hết giá trị của tác phẩm. Mà bên cạnh tìm
hiểu những đặc trưng đó của thể loại, chúng ta phải tìm hiểu nghệ thuật sử
dụng ngôn từ của tác phẩm, phân tích những hình ảnh do ngôn ngữ gợi ra.
Tuy nhiên cùng một loại thể nhưng với những tác phẩm khác nhau lại có
những cách giảng dạy và kết hợp những phương pháp khác nhau. Có như vậy
việc giảng dạy mới đạt kết quả. Và để nói về vấn đề này, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã kêu gọi: “Phải xem xét lại cách dạy văn của chúng ta, chúng ta
phải suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ, rất sâu để tìm ra cách dạy tốt hơn”. Thủ tướng
cụ thể: phải xem cần phải dạy như thế nào? dạy cái gì ? gợi cho học sinh cái
gì ? nhằm mục đích gì? ở đây chúng ta bàn đến vấn đề dạy tác phẩm theo đặc
trưng thể loại, lẽ dĩ nhiên phải nắm chắc các đặc trưng của từng thể loại xem
nó là cái gì? ở thời kì nào? dân tộc nào?.
Để góp phần vào đổi mới phương pháp dạy học, đáp ứng yêu cầu và mục
đích dạy văn trong thời đại hiện nay: Thầy giữ vai trò định hướng, điều khiển
lấy học sinh làm trung tâm và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh,
người viết đưa ra một hướng tiếp cận theo đặc trưnng thể loại.

1.3. VẤN ĐỀ ĐỌC - HIỂU
1.3.1. Khái niệm đọc - hiểu.
1.3.1.1. Đọc.


Theo “Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc”, quyển “Giáo dục” cho biết:
“Đọc là một quá trình hoạt động tâm lý nhằm tiếp nhận ý nghĩa từ kí hiệu
ngôn ngữ được in hay viết” (SGK Ngữ văn 12(thí điểm) (2004), Nxb GD, H).
Xét về mặt triết học, đọc có bốn nội dung sau:
Một, đọc là một quá trình tiếp nhận ý nghĩa từ văn bản, tất nhiên phải
hiểu ngôn ngữ của văn bản (ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ thể loại, ngôn ngữ
nghệ thuật của văn bản), phải dựa vào tính tích cực của chủ thể (hứng thú,
nhu cầu, năng lực) và tác động qua lại giữa chủ thể và văn bản .
Hai, đọc là quá trình giao tiếp và đối thoại với người tạo ra văn bản (tác
giả, xã hội, văn hóa).
Ba, đọc là quá trình tiêu dùng văn hóa văn bản (hưởng thụ, giải trí, học
tập).
Bốn, đọc là quá trình tạo ra các năng lực người (năng lực hiểu mình, hiểu
văn hóa và hiểu thế giới).
Theo “Từ điển tiếng việt” đọc là: “Tiếp nhận nội dung của một tập hợp
kí hiệu bằng cách nhìn vào các kí hiệu” [4, 333].
Như vậy đọc là một hoạt động văn hóa có tầm nhân loại và có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc.
1.3.1.2. Hiểu .
Hiểu là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Theo “Từ điển tiếng việt”
hiểu là: “nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của cái gì, bằng sự vận dụng trí tuệ”
[4, 439].
Theo M.Bakhtin, trong sách “Con người và thế giới ngôn từ” (M.1995),
hiểu trong đọc - hiểu bao gồm nhiều hành động gắn với nhau: 1- Cảm thụ
(tiếp nhận) kí hiệu chất (màu sắc, con chữ…); 2- Nhận ra kí hiệu quen hay lạ,

hiểu kí hiệu của nó được lặp lại trong ngôn ngữ; 3- Hiểu ý nghĩa của nó trong


ngữ cảnh; 4 - Đối thoại với ý nghĩa đó (tán thành, phản đối), trong nhận thức
bao gồm cả đánh giá về chiều sâu và chiều rộng. Bản chất tâm lý của sự hiểu
là biến cái tự hiểu thành kiến thức, quan điểm, niềm tin của mình. Theo
M.Bakhtin, hiểu khác nhận thức và giải thích ở chỗ hiểu không một chiều mà
mang tính đối thoại. Nhà thơ Nga Mandenshtam có nói: “Pasternac là người
hiểu, tôi là người rất hiểu, còn Gớt thì cái gì cũng hiểu”. Hiểu là sáng tạo, như
thế đọc luôn gắn với mức độ hiểu, do vậy, “Hiểu” không bao giờ chỉ giản đơn
là hiểu nghĩa.
1.3.2. Mối quan hệ giữa đọc- hiểu.
Giữa đọc và hiểu có mối quan hệ khăng khít qua lại. Đọc luôn gắn liền
với hiểu. Theo Nguyễn Trọng Hoàn, đó là mối quan hệ nhân quả. Đọc hiểu
văn học là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc, cảm xúc, nghiền ngẫm,
tưởng tượng, liên tưởng.
Khái niệm đọc hiểu mang những định hướng dạy học cụ thể, tích cực
hơn so với khái niệm phân tích hay tìm hiểu. Nó đòi hỏi sự tích cực, chủ
động, sáng tạo của người đọc.
1.3.3. Đọc hiểu là con đường đặc trưng trong tiếp nhận văn học.
Lí luận dạy văn học hiện đại đặt vấn đề đọc hiểu văn bản lên hàng đầu.
Trước khi có hình tượng, người đọc phải làm việc với văn bản, tức là phải đọc
với ba phương diện: đọc theo dòng chữ, đọc giữa dòng chữ và đọc ngoài dòng
chữ. Ba cấp độ đó tương ứng với ba cấp độ trong cấu trúc văn bản : ngôn ngữ,
hình tượng, ý nghĩa.
Đọc là hoạt động giao tiếp giữa bạn đọc và nhà văn qua văn bản. Đọc là
hoạt động văn hóa đặc trưng của con người văn minh. Đọc để tiếp nhận thông
tin và làm giàu vốn sống. Đọc để thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ và giao tiếp. Đọc
là phương pháp lĩnh hội tri thức với các môn học, các khoa học. Đọc có vai
trò đặc biệt, nó là phương pháp đặc trưng trong dạy tác phẩm văn học vì tác

phẩm văn học là nghệ thuật ngôn từ.


CHƯƠNG 2:
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRỮ TÌNH HIỆN ĐẠI VỚI VIỆC ĐỌC HIỂU THƠ TRỮ TÌNH TỐ HỮU TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT
2.1- ĐẶC TRƯNG THƠ TRỮ TÌNH HIỆN ĐẠI
2.1.1. Khái niệm thơ trữ tình hiện đại
2.1.1.1. Thơ trữ tình là gì ?
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thể loại trữ tình.
Người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ này là Aristot. Ông cho rằng đó là
phương thức mô phỏng hiện thực “Cái mà người ta mô phỏng vẫn là cái mà
bản thân anh ta không thay đổi bộ mặt của mình” [1,45].
Kế thừa quan điểm ấy, Biêlinxki đã khẳng định, loại trữ tình gồm các tác
phẩm thông qua sự bộc lộ tình cảm của tác giả mà phản ánh hiện thực. Tác
giả trực tiếp bộc lộ những tình cảm yêu ghét của mình trước cuộc sống (Sự
phân chia thơ ra loại và kiểu, tập 5, NXB Viện hàn lâm khoa học Liên Xô,
M).
Theo “Từ điển văn học”: “Trữ tình là một trong ba phương thức thể hiện
(bên cạnh tự sự và kịch) làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn học. Nếu tự sự
thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện lại một cách
khách quan các hiện tượng đời sống thì trữ tình lại phản ánh đời sống bằng
cách bộc lộ trực tiếp ý thức con người”.
Theo “Từ điển Hán - Việt”: Trữ tình là bày tỏ tình cảm. Như vậy tác
phẩm trữ tình là tác phẩm bày tỏ tình cảm.
Về sau, có nhiều quan niệm khác nhau định nghĩa về trữ tình mà cụ thể
nhất là ở thơ trữ tình.
Trong cuốn “Thơ”, Sóng Hồng khẳng định “thơ là một hình thái nghệ
thuật cao quý và tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự



nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần
nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm ấy được diễn đạt bằng những hình tượng
đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên khác thường” (tr. 13).
Bước sang thế kỉ XX, cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa cấu trúc đã
đem lại cho phê bình nghệ thuật thế giới những thành tựu mới có ý nghĩa.
Jacôpsơn khi nghiên cứu về trữ tình đã cho rằng: “Thơ là gì ? đó là sự lắp đặt
đều đặn các đơn vị tương đương trên chuỗi kế cận hay thơ là sự chiếu nguyên
lí của trục lựa chọn lên trục phối hợp. Các đơn vị tương đương có thể thuộc
về một bình diện ngôn ngữ : âm vị, âm tiết, ngữ âm,…” (Trịnh Bá Đĩnh
(2002), Chủ nghĩa cấu trúc văn học, NXBHN).
Trong cuốn “Thi pháp hiện đại”, GS Đỗ Đức Hiểu đã đưa ra một quan
điểm rất mới mẻ và trữ tình: “Trên trang giấy thơ có nhiều khoảng trắng trên
không gian trong thơ. Lâu đài thơ là một khối kiến trúc đầy âm vang và mang
trong mình chất nhạc tràn đầy”. Theo ông, đặc trưng của thơ trữ tình là sự
trùng điệp, nhịp điệu, ngữ nghĩa.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Thơ trữ tình là thuật ngữ cho chung
các thể thơ thuộc loại trữ tình trong đó cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc
nhân vật trữ tình trước các hiện tượng được thể hiện ra một cách trực tiếp
[5,317].
2.1.1.2. Thơ trữ tình hiện đại là gì?
Thuật ngữ “hiện đại” xét trong phạm vi văn học: nó chính là quá trình
hiện đại hóa của văn học Việt Nam kéo dài từ năm 1932 cho đến nay và trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Thơ trữ tình hiện đại là thể loại trữ tình gắn liền với sự phát triển của nó
là “hiện đại”. Nó được viết dưới hình thức tự do, nằm trong hệ thống từ thế kỉ
XX cho đến nay.


Thơ trữ tình Việt Nam hiện đại được giới hạn bởi tác phẩm thơ trữ tình
thuộc quá trình văn học Việt Nam hiện đại như thơ mới, thơ kháng chiến và

các tác phẩm trữ tình sau khi kết thúc kháng chiến chống Mĩ (1975) đến nay.
2.1.2 - Đặc trưng của thơ trữ tình hiện đại.
Thể loại trữ tình gồm 3 đặc trưng cơ bản: nội dung trữ tình, nhân vật trữ
tình, ngôn ngữ trữ tình. Đây là cơ sở lý luận, là lý thuyết chung để soi chiếu
vào các tác phẩm trữ tình. Căn cứ vào những đặc trưng thể loại nói chung
được các nhà lí luận đúc kết, thể loại trữ tình Việt Nam hiện đại cũng mang
đặc trưng của thể loại trữ tình nói chung.Bởi vì cùng một phương thức phản
ánh và biểu hiện thì dù có ở thời đại nào, cảm xúc và nhu cầu thể hiện của con
người cũng có. Tất nhiên, sự bộc lộ diễn tả nó ra là không giống nhau.
Sự xuất hiện của thể loại là không đồng thời và không đồng nhất ở các
thời kì văn học. Dù cùng là thể loại trữ tình nhưng trữ tình ở thời kì hiện đại
mang những đặc điểm riêng, khác biệt với trữ tình ở thời kì trung đại. Chính
những đặc điểm riêng này làm nên giá trị độc đáo, diện mạo văn học một thời.
Nhưng cũng chính nó gây cho ta những khó khăn trong việc tiếp nhận và
giảng dạy. Bởi bất kì một tác phẩm nào khi tiếp nhận cũng bị chi phối bởi
khoảng cách (không gian, thời gian, tâm lý, thời đại, ngôn ngữ, …) tác phẩm
nào càng xa lạ chúng ta, càng uyên bác khúc triết thì càng khó hiểu. Mỗi tác
phẩm gắn liền với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nó phản ánh tinh thần thời
đại, ước mơ, hoài vọng, tình cảm của con người thời đại họ sống, dưới một
hình thức phù hợp.
Có thể nói, thơ ca hiện đại Việt Nam phát triển khá nhanh chóng, mạnh
mẽ với nhiều thành tựu rực rỡ. Trong đó đáng nói nhất là thơ trữ tình. Tác
phẩm trữ tình không chỉ có thơ nhưng thơ là đại diện tiêu biểu và nó có đầy
đủ các đặc trưng của thể loại.
Đặc trưng của thơ trữ tình và thơ trữ tình hiện đại Việt Nam:


×