Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Luận văn sư phạm Giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ hán Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.44 KB, 64 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
1.1 Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam. Nữ thi
sĩ Blaga Đimitrôva trong “ Tuyển tập thơ Việt Nam” xuất bản ở Bungari
(1973) có viết về Hồ Xuân Hương: “ Là một trong những hiện tượng độc đáo
nhất không chỉ ở Việt Nam mà ở trong toàn bộ cái nguồn thơ mà tôi đã được
biết của nền thơ thế giới qua tất cả các thời đại. Đó là nữ thi sĩ với cái tên
Hương mùa xuân. Khi tôi truyền đạt cái độc đáo trong thơ Việt Nam thì bạn
bè của tôi đã dừng lại trước cái tên này với một sự ngạc nhiên cao độ”. Có thể
nói, sức quyến rũ của thơ Hồ Xuân Hương chính là cá tính sáng tạo kết hợp
với tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người đặc biệt là người phụ nữ.
Điều này đã được khẳng định trong sự nghiệp thơ của bà. Có người nhận xét
rằng thơ Hồ Xuân Hương rất tinh quái thậm chí là “ thi trung hữu quỷ”.
Nhưng điều đó chỉ đúng với mảng thơ Nôm còn với thơ chữ Hán, Hồ Xuân
Hương lại bộc lộ một hồn thơ đằm thắm, trữ tình, vừa lạ vừa quen. Sức hấp
dẫn kì diệu của thơ Hồ Xuân Hương không chỉ dừng lại ở thơ Nôm mà còn ở
thơ chữ Hán. Tìm hiểu về Hồ Xuân Hương nếu chỉ dừng lại ở thơ Nôm thì
chưa đủ. Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm hòa quyện thống nhất, bổ sung cho
nhau để tạo nên diện mạo thơ ca của nữ sĩ.
1.2 Hơn hai thế kỉ trôi qua, con người và sự nghiệp văn học của Hồ Xuân
Hương trở thành vấn đề trung tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn
học. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về thơ chữ Nôm, việc sưu tầm và
nghiên cứu mảng thơ chữ Hán của bà cũng đã được quan tâm. Tuy nhiên sự
quan tâm ấy phần nhiều là giới thiệu văn bản. Giá trị nội dung và nghệ thuật
thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương ít được đề cập. Đặc biệt là chưa có công trình

1


riêng biệt khám phá mảng thơ ca này của thi sĩ. Đó là điều khích lệ tác giả
luận văn lựa chọn đề tài Giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Hồ Xuân


Hương. Qua đó giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về con người, sự
nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò,
đóng góp của tác giả đối với nền văn học dân tộc.
1.3 Hồ Xuân Hương là tác gia văn học được đưa vào giảng dạy từ bậc Trung
học cơ sở, Trung học phổ thông đến bậc Cao đẳng, Đại học. Lựa chọn và thực
hiện đề tài này giúp cho người viết làm quen với các thao tác tư duy trong
nghiên cứu khoa học. Mặt khác, đề tài còn gắn với ý nghĩa thực tiễn giảng
dạy, hữu ích đối với một sinh viên sau này làm công việc đứng trên bục giảng.
2. Lịch sử vấn đề
Một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân, thơ Hồ Xuân Hương hầu như
được xem là di sản tinh thần gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu và
thưởng thức. Khoảng thời gian gần đây, thơ của nữ sĩ được nhìn nhận, đánh
giá khách quan hơn và trở thành đối tượng nghiên cứu của khá nhiều chuyên
luận, công trình văn học sử, tiểu luận…
Cho đến nay về mặt văn bản, thơ ca Hồ Xuân Hương gồm hai bộ phận:
Văn bản thơ chữ Nôm và văn bản thơ chữ Hán. Đã có khá nhiều tác giả, nhà
nghiên cứu, nhà phê bình tiếp cận thơ Nôm Hỗ Xuân Hương dưới nhiều góc
độ khác nhau: Xuân Diệu, Nguyễn Lộc, Đỗ Đức Hiểu, Lã Nhâm Thìn…
Riêng về mảng thơ chữ Hán của nữ sĩ thường chỉ được giới thiệu phần văn
bản. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân. Có thể vì độc giả nhận thấy thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương quen thuộc. Chúng tiêu biểu cho
gương mặt thơ ca của nữ sĩ. Mặt khác, thơ chữ Hán có phần thua thiệt vì nó
được công nhận là sản phẩm của Hồ Xuân Hương khá muộn. Chúng cũng
không được phong phú về số lượng và chưa được độc giả biết đến nhiều như

2


sáng tác chữ Nôm.Qua sự hiểu biết hạn hẹp, chúng tôi nhận thấy có một số
công trình sau đã đề cập đến sáng tác bằng chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên

một số phương diện khác nhau:
Trên báo Văn học, số 242 và 243 ngày 15 và ngày 21/3/1963, nhà thư
tịch học Trần văn Giáp đã giới thiệu với bạn đọc về sự hoài nghi của ông
trong bài “ Đồ Sơn bát vịnh - thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương?” Đó là tám
bài thơ vịnh cảnh Đồ Sơn. Ông đã tự hỏi: “không biết có phải của Hồ Xuân
Hương không?”
Trên tuần báo Văn nghệ số 41(7/2/1964), Trần Văn Giáp và Cao Huy
Giu lại cho công bố bài “Phải chăng năm bài thơ sau đây cũng là thơ chữ
Hán của Hồ Xuân Hương?” Đó là năm bài “Chu thứ Hoa Phong tức cảnh”
chép trong sách “Phượng Sơn từ chí lược” có ghi rõ là “Hồ Xuân Hương
thảo”.
Trên tạp chí Văn học, 3/1963, Trần Thanh Mại đã đưa ra những tài liệu
khá thuyết phục. Tiểu luận đã chứng minh tên tuổi nữ sĩ Hồ Xuân Hương
được nhiều người trong và ngoài nước biết tới dưới thời Nguyễn.
Tháng 10 - 1964, trên tạp chí Văn học, Trần Thanh Mại đã cho công bố
“Bài tựa tập thơ Lưu hương kí” của Hồ Xuân Hương do Nham Giác Phu Tốn
Phong Thị viết.
Sau đó, Trần Thanh Mại lại tìm được bản Lưu hương kí do ông Nguyễn
văn Tú, cử nhân Hán học, người xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh
Nam Định cung cấp. Ông Trần Thanh Mại giới thiệu tập Lưu hương kí này
như sau: “Có phần chắc bản chép tập Lưu hương kí mà ông Nguyễn Văn Tú
đã trao cho chúng tôi là phần còn lại của tập thơ mà Nham Giác Phu đã đọc
và đã đề tựa, hay ít nhất nó cũng thiếu nhiều tờ. Bản này chỉ có 22 trang, giấy
viết hàng tám, tổng cộng 30 đầu đề với 52 bài. Trong 52 bài này có 24 bài thơ
chữ Hán và 28 bài thơ chữ Nôm. Trong đầu đề có ghi rõ: Lưu hương kí -

3


Hoan trung Cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sử tập. Hoan Trung tức là tỉnh

Nghệ An, Cổ Nguyệt đường là tên nhà ở của Xuân Hương đồng thời là triết tự
chữ Hồ, chỉ họ của tác giả” [7, tr 32]
Cũng ở bài viết này, Trần Thanh Mại nhận xét: “Nhìn chung lại, thơ
chữ Hán và thơ Nôm của Hồ Xuân Hương như được ghi chép trong Lưu
hương kí không trực tiếp nêu lên được những vấn đề xã hội lớn lao và cấp
thiết. Dù thế nào mặc lòng, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong thơ nàynhững
giọng chân thành tha thiết để đấu tranh cho một tình yêu bình đẳng: Lưu
hương kí là tiếng kêu thất vọng để có một tình yêu thành thực, thủy
chung…”[7, tr 34]
Nham Giác Phu Tốn Phong Thị viết trong Bài tựa tập thơ Lưu hương
kí: “Tập kí Lưu hương tuy viết ra những gió mây trăng sương nhưng xuất phát
từ đáy lòng rồi hình thành ra ngôn ngữ. Cũng đúng như câu xuất phát từ tình
cảm, dừng ở lễ nghĩa”
Nguyễn Lộc nhận định: “ Trong Lưu hương kí[…] chúng ta thấy một
người phụ nữ giàu nhiệt tình, yêu đời, bất chấp tất cả lễ giáo phong kiến, lúc
nào cũng tha thiết muốn yêu, và không bao giờ có một tình yêu toại nguyện”
[6, tr 289]
Ông cũng cho rằng: “ Nhìn chung, những bài thơ chữ Nôm và chữ Hán
trong Lưu hương kí có nghệ thuật khá điêu luyện[…]. Có nhiều từ Hán Việt
được sử dụng với phong cách trang nhã. Giọng thơ lại hiền lành chứ không
góc cạnh, gân guốc” [6, tr 287 - 290]
Tóm lại, bên cạnh Hồ Xuân Hương - “Bà chúa thơ Nôm” còn có một
nữ sĩ Hồ Xuân Hương sáng tác thơ chữ Hán.
Qua những ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng tôi thấy thơ chữ Hán Hồ
Xuân Hương đặc biệt là tập Lưu hương kí là những vần thơ trữ tình đằm
thắm. Đó cũng là một phần tính cách của Hồ Xuân Hương mà đến nay chúng
ta mới được biết đến.

4



3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hướng tới mục đích tìm hiểu “ Giá trị nội dung và nghệ
thuật trong thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương” nhằm khẳng định tài năng toàn
diện của nhà thơ nữ tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam.
Đồng thời, chúng tôi mong muốn hình thành cái nhìn tương đối hệ
thống, khách quan và khoa học về giá trị mảng thơ chữ Hán của Hồ Xuân
Hương.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Triển khai đề tài này, tác giả khóa luận xác định những nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu về cuộc đời nhà thơ, những yếu tố thời đại có ảnh
hưởng đến phong cách, hồn thơ của nữ sĩ. Luận văn có nhiệm vụ tìm
hiểu về mảng thơ sáng tác bằng chữ Hán của Hồ Xuân Hương từ đó có
những so sánh nhận định với thơ Nôm để tìm ra sự tương đồng và khác
biệt của hai mảng.
Đề tài giúp cho người viết có dịp hiểu sâu sắc hơn thơ Hồ Xuân
Hương phục vụ tốt cho giảng dạy sau này.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Số lượng những bài thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương đến nay vẫn
chưa có con số thật chính xác( trong quan niệm của giới nghiên cứu), vấn đề
văn bản thơ Hồ Xuân Hương chưa có kết luận cuối cùng. Trước tình trạng đó,
với sự tương đối, chúng tôi chọn thơ Hồ Xuân Hương trong cuốn Hồ Xuân
Hương, thơ chữ Hán- chữ Nôm và giai thoại của tác giả Bùi Hạnh Cẩn biên
soạn, Nxb Văn hóa- thông tin, Hà Nội, 1999. Ngoài ra khóa luận còn tham
khảo một số tài liệu khác liên quan đến văn bản thơ chữ Hán Hồ Xuân
Hương.
5.2 Đề tài chỉ hướng tới khai thác “Giá trị nội dung và nghệ thuật thơ
chữ Hán Hồ Xuân Hương”

5



6. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:
+ Phương pháp phân loại
+ Phương pháp hệ thống
+ Phương pháp so sánh
Ngoài ra, để hoàn thành tốt khóa luận, người viết còn kết hợp các thao
tác như phân tích, bình giảng, chứng minh, miêu tả…
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tìm hiểu, phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ
Hán Hồ Xuân Hương. Từ đó, có cái nhìn toàn diện về con người và sự nghiệp
thơ ca của nữ sĩ.
Việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn giảng
dạy ở trường phổ thông, giúp người giáo viên Ngữ văn có thêm kiến thức bổ
sung khi nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm của Hồ Xuân Hương.
8. Bố cục khóa luận
Khóa luận được bố cục như sau:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung được tổ
chức theo 2 chương:
Chương 1. Khái quát về tác giả và tác phẩm Hồ Xuân Hương.
Chương 2. Giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Hồ Xuân
Hương.

6


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM

HỒ XUÂN HƯƠNG
1.1 Tác giả Hồ Xuân Hương
1.1.1 Thời đại
Theo giới nghiên cứu, Hồ Xuân Hương sống vào khoảng thời gian cuối
thế kỉ XVIII - đầu XIX. Đó là thời đại bể dâu, nhiều biến động để lại dấu ấn
trong lịch sử. Chế độ phong kiến suy tàn, sự xuống dốc của giai cấp thống trị
khiến xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, mâu thuẫn xã hội
ngày càng sâu sắc, quyết liệt.
Trong bối cảnh đó, quyền sống của con người bị chà đạp đặc biệt là
người phụ nữ. Họ phải chịu nhiều đâu khổ, bất hạnh bởi vì sự đau khổ của
người phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Họ vừa “gánh”
lấy sự bất hạnh của kiếp người vừa “cõng” thêm nỗi bất hạnh của “phận đàn
bà”. Đó là ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô”, thuyết “tam tòng tứ đức”… Vòng vây của lễ giáo, tư tưởng
phong kiến ngày càng xiết chặt số phận của những người phụ nữ, không cho
họ đến với tự do.
Cũng trong thời đại Hồ Xuân Hương, cao trào khởi nghĩa nông dân nổ
ra liên tiếp khắp nơi, nhân dân vùng lên đòi quyền sống. Trào lưu dân chủ
dâng lên mạnh mẽ, những ràng buộc “tam cương ngũ thường” trở nên lỏng
lẻo hơn trước. Nhân dân nhận thấy sự phá sản của hệ tư tưởng chính thống.
Đây chính là tiền đề, cơ sở nảy sinh và ra đời của trào lưu dân chủ nhân văn
chủ nghĩa trong xã hội.

7


Thời kì này kinh tế hàng hóa có sự phát triển đáng kể, thương nghiệp
có sự khởi sắc. Trong xã hội, xuất hiện tầng lớp thị dân đông đảo, góp phần
thay đổi lối sống cũ, tù đọng của môi trường văn hóa cổ truyền.
Tất cả thực trạng đó khiến con người bừng tỉnh, nảy sinh nhu cầu đòi

quyền sống. Nó tác động mạnh mẽ đến văn học. Hồ Xuân Hương sống trong
vòng xoáy của xã hội, thơ bà chính là sản phẩm của xã hội. Nói như Bêlinxki:
“ Văn thơ nào không có gốc rễ trong thực tế đương thời, văn thơ nào không
rọi sáng vào thực tế khi lý giải nó thì chỉ là một sự vô công rồi nghề, chỉ là
một lối đót thời gian một cách vô tội vạ nhưng hão huyền, chỉ là một trò chơi
trẻ con, chỉ là công việc của những người trống rỗng”
Trong thời đại này, tình hình văn học lại có những bước chuyển biến.
Hòa trong xu thế của lịch sử, nghệ thuật phản ánh một phần đời sống tinh thần
của xã hội. Hàng loạt những cây bút sáng giá xuất hiện trên thi đàn như:
Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương. Họ đều có những sáng tạo tìm
tòi riêng. Chiến tranh, đói khát, tham nhũng dường như trở thành “tư liệu”
quý giá khiến tác phẩm của họ sâu sắc hơn. Hồ Xuân Hương là một gương
mặt tiêu biểu trong số đó.
1.1.2 Cuộc đời và thân thế
Cuộc đời và con người Hồ Xuân Hương chủ yếu lưu truyền bằng các
giai thoại và sách ngoài sử. Chính vì vậy cho đến nay, giới nghiên cứu vẫn
chưa có kết luận thống nhất, chính xác về cuộc đời nữ sĩ. Năm sinh năm mất
của bà cũng chỉ là ước đoán theo phương pháp loại trừ hay so sánh với một số
tác giả, một số sự việc đương thời.
Theo giả thiết của Trần Thanh Mại, Hồ Xuân Hương sinh khoảng năm
1775 - 1780 trong gia đình của nhà nho Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783), là người
gốc Nghệ An.

8


Nguyễn Hữu Tiến trong cuốn Giai nhân dị mặc lại khẳng định Xuân
Hương là con ông Hồ Phi Diễn ở làng Quỳnh Đôi - Quỳnh Lưu - Nghệ An.
Thân phụ của nữ sĩ là một nhà nho ra bắc dạy học, kết duyên cùng
người đàn bà họ Hà( người Hải Dương hoặc Kinh Bắc). Tuy nhiên, thân phụ

mất sớm, hai mẹ con đưa nhau ra Kẻ Chợ( Thăng Long) sinh sống. Nguyễn
Hữu Tiến viết: “ Nhà trông xuống Hồ Tây” lại chú thêm: “Sau, Xuân Hương
có thiên ra ở thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là phố
Nhà Thờ, gần đền Lý Quốc Sư”.
Căn cứ vào các tài liệu và những sáng tác của Hồ Xuân Hương, có thể
bà sống vào nửa cuối thế kỉ XVIII - đầu XIX. Đó là một giai đọan lịch sử có
rất nhiều biến động. Hồ Xuân Hương lại sống giữa kinh thành Thăng Long,
nơi phồn hoa đô hội, trung tâm văn hóa kinh tế, người sống ở đó bao giờ cũng
thông minh, năng động. Qua các giai thoại, Hồ Xuân Hương là người phụ nữ
thông minh cá tính, có rất nhiều bè bạn. Trong tập thơ Lưu hương kí còn để
lại khá nhiều tên tuổi như : Thạch Đình, Cư Đình, Thanh Liên, Mai Sơn Phủ,
Nguyễn Du… Qua đó, hé lộ một phần cuộc đời tình duyên của nữ sĩ, có
những mối tình khá sâu nặng nhưng đều không đi tới hôn nhân. Có lẽ vì thế
trong cuộc đời văn chương của bà có một nỗi buồn ám ảnh về tình duyên.
Về chuyện hôn nhân, không có tài liệu chính xác nào ghi Hồ Xuân
Hương làm vợ ai nhưng theo giai thoại, người chồng đầu tiên là ông tổng
Cóc. Ông này đã có vợ và rất nhiều con nhưng vẫn yêu quý bà vợ lẽ là Hồ
Xuân Hương nên đã cho bà ở riêng trong một căn nhà tại hồ Thất Liễu.
Một người nữa mà Hồ Xuân Hương lấy tên là Trần Phúc Hiển ở đàng trong ra
ngoài Bắc làm quan. Một thời gian làm tri phủ Tam Đái - Sơn Tây. Đến năm
1822, phủ này sát nhập với một số vùng đất khác gọi là phủ Vĩnh Tường.
Theo Đào Thái Tôn trong cuốn Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục,
Hồ Xuân Hương lấy Trần Phúc Hiển khoảng năm 1814. Ông này có thời gian
làm quan ở Móng Cái - Quảng Ninh. Hồ Xuân Hương đã đi theo chồng nên
9


bà có khá nhiều bài thơ viết về vùng đất đó. Năm 1819, Trần Phúc Hiển bị
vua Gia Long kết án tử hình.
Ngoài ra các sách có chép lại những giai thoại giữa Xuân Hương và

Chiêu Hổ nhưng vẫn không rõ hai người làm “bạn thân” xướng họa với nhau
vào đoạn đời nào của Xuân Hương? Chiêu Hổ và Xuân Hương bình đẳng lạ
lùng, Xuân Hương không cho mình là “phận đàn bà” đào tơ liễu yếu, chịu
thua kém đàn ông như tư tưởng thông thường thời ấy. Xuân Hương đối chọi
từng chữ với Chiêu Hổ, đua ganh nhau từng vần thơ với giọng đùa giễu thể
hiện một người phụ nữ bản lĩnh, cá tính.
Hồ Xuân Hương là người phụ nữ không gặp may mắn trong tình yêu và
hôn nhân. Sự không may này có nhiều lý do cả về chủ quan và khách quan.
Có thể vì bà có cá tính mạnh mẽ, không an phận, không thích hợp lắm với xã
hội phong kiến xưa. Cũng có thể, những người bạn của bà chưa thành đạt nên
họ chưa tính đến chuyện hôn nhân. Khi họ đã thành đạt rồi thì dâu bể đổi dời,
con người khó bề sum họp. Số phận con người ly loạn muôn ngả!
Hồ Xuân Hương là người phụ nữ hay đi đây đi đó, từng du ngoạn nhiều
thắng cảnh ở Bắc, ở Trung và tiếp xúc với nhiều khách văn chương. Nữ sĩ đặt
chân mình đến nơi danh thắng nào là có thơ hay. Bước chân của Xuân Hương
in dấu thơ vào đất nước.Cuộc đời Xuân Hương gắn với tác phẩm của nữ sĩ.
Thơ Xuân Hương là đời, là cá tính, là số phận của bà.
Tóm lại, Hồ Xuân Hương là con người của một thời đại bể dâu. ở đó có
sự tàn phai thật nhiều của hào quang quân chủ, sự trỗi dậy của trào lưu tư
tưởng dân chủ, sự bừng tỉnh của con người trước quyền sống cá nhân… Hồ
Xuân Hương xuất thân trong một gia đình có học. Bản thân bà lại là người
thông minh , có cá tính nhưng lận đận trong duyên phận. Mặc dù vậy, bà vẫn
luôn yêu cuộc sống, thể hiện một bản lĩnh cứng cỏi, mạnh mẽ.

10


1.2 Sự nghiệp sáng tác
Mặc dù là tác giả văn học viết nhưng sáng tác của Hồ Xuân Hương
phần lớn được lưu truyền trong dân gian. Thơ Hồ Xuân Hương được in ấn

bằng văn bản khá muộn. Theo Đào Thái Tôn và giới nghiên cứu, bản in sớm
nhất bằng chữ quốc ngữ là năm 1893. Số lượng những bài thơ của Hồ Xuân
Hương cứ mỗi lần tái bản lại không trùng khớp nhau. Lần đầu tiên được in
trên dưới 60 bài. Đến thập kỉ 30 của thế kỉ XX lên tới hơn 100 bài. Thực trạng
hiện thời cũng khá phức tạp. Tùy theo người biên soạn mà thơ ca Hồ Xuân
Hương có số lượng không giống nhau. Trong sự nghiệp nghệ thuật, Hồ Xuân
Hương sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán.
1.2.1 Thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là vấn đề mà giới nghiên
cứu, phê bình văn học còn nhiều ý kiến tranh cãi và tiếp tục tìm hiểu. Theo
Đào Thái Tôn, văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương được thu thập
từ ba nguồn:
- Các văn bản chép tay
- Các văn bản khắc ván chữ Nôm
- Các văn bản in chữ quốc ngữ
Theo Nguyễn Lộc: “ Hồ Xuân Hương nổi tiếng với những sáng tác bằng
chữ Nôm. Về số thơ Nôm lâu nay nói là của bà, tổng cộng chừng 50 bài; tổng
số đó chắc chắn còn lẫn một số bài của người khác”
Nhà nghiên cứu văn học Trần Thanh Mại ước chừng số lượng thơ Nôm
truyền tụng của Hồ Xuân Hương cũng khoảng 50 bài.
Từ những nghiên cứu khảo sát của giới nghiên cứu, chúng tôi thấy số
lượng những bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương vẫn chưa có kết
luận thống nhất và chính xác cuối cùng. Song có thể con số khoảng gần 50 bài
là số lượng được đa số giới yêu thích thơ ca nữ sĩ chấp nhận.

11


1.2.2 Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương
Vấn đề Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán được đặt ra một

cách sôi nổi bắt đầu từ năm 1963 - 1964. Hơn bốn chục năm qua, bằng sự nỗ
lực của các nhà nghiên cứu đến nay, chúng ta có thể tự tin hơn và kết luận
rằng, Hồ Xuân Hương còn sáng tác thơ chữ Hán bên cạnh một “ Bà chúa thơ
Nôm”.
Năm 1963 - 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại công bố tập thơ Lưu
hương kí. Qua mấy thập kỉ, công lao của Trần Thanh Mại được giới nghiên
cứu khẳng định: Lưu hương kí là tập thơ của Hồ Xuân Hương.
Lưu hương kí tuy còn lẫn cả thơ của người khác xướng họa với Xuân
Hương nhưng người đọc vẫn nhận rõ đây là một tập thơ tình hiếm hoi vào
khoảng đầu thế kỉ XIX. Dù miêu tả ngoại cảnh hay xướng họa với bạn bè,
những câu thơ trong Lưu hương kí vẫn là những câu thơ có việc, có người, có
buồn vui, thương nhớ, có oán giận mong chờ. Tất cả được viết ra bởi một tấm
lòng tha thiết, ước mong có được mối tình chung thủy, niềm khát khao mong
ước chính đáng về một hạnh phúc bền lâu. Nhưng dường như tình cảm ấy
không được bền chặt, không đến được sum họp lứa đôi. Đọng lại trong tâm trí
người đọc là nỗi niềm khắc khoải, một giọng thơ trữ tình chân thực.
Sự chân thực đó bất chấp khuôn sáo lề thói đương thời đã tạo nên hồn thơ
đằm thắm, thể hiện khát khao trong tình cảm của nhân vật trữ tình.
Tập thơ này bao gồm 32 bài thơ chữ Hán, 28 bài thơ chữ Nôm (về số
lượng bài thơ trong Lưu hương kí giới nghiên cứu chưa thống nhất). Trong 32
bài thơ chữ Hán của Lưu hương kí, 20 bài còn ở dạng tồn nghi. Giáo sư Lê Trí
Viễn cho rằng: “10 bài đầu là của Hồ Xuân Hương. Còn lại những bài thơ sau
do gần với phong cách thơ của nữ sĩ nên có thể cho đó là những bài thơ của
Hồ Xuân Hương” [17, tr 38].

12


Ngoài Lưu hương kí, chúng ta còn may mắn tìm được tập thơ Hương
Đình Cổ Nguyệt thi tập do Bùi Hạnh Cẩn biên soạn và giới thiệu in trong

tuyển tập Hồ Xuân Hương - Thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại, Nxb Văn
hóa - thông tin, Hà Nội, 1999. Tập thơ này bao gồm 23 bài thơ chữ Hán của
Hồ Xuân Hương. Những bài thơ này chủ yếu là thơ vịnh cảnh đặc biệt là các
danh lam thắng cảnh như Đồ Sơn, Hạ Long và thơ vãn cảnh chùa chiền.
Như vậy, giống như văn bản thơ chữ Nôm, văn bản thơ chữ Hán Hồ
Xuân Hương cũng chưa có kết luận cuối cùng về số lượng. Khóa luận của
chúng tôi tìm hiểu 23 bài thơ chữ Hán trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập
và 10 bài thơ chữ Hán được khẳng định của Hồ Xuân Hương trong Lưu
hương kí. Tất cả được in trong tập Hồ Xuân Hương - Thơ chữ Hán, chữ Nôm
và giai thoại của Bùi Hạnh Cẩn biên soạn, Nxb Văn hóa- thông tin, Hà Nội,
1999.

13


Chương 2
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT THƠ CHỮ HÁN
HỒ XUÂN HƯƠNG
2.1 Nội dung thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một hiên tượng lạ trong suốt chiều dài lịch sử văn
học Việt Nam. Những vần thơ của bà là một sự pha trộn đầy mê hoặc giữa
tính dân tộc và sự nổi loạn, giữa sự trào phúng lên đến cực điểm, cái nhìn mỉa
mai, chế giễu đầy ngạo mạn mà cũng lắm đắng cay với cái ý, cái tình nồng
nàn, đằm thắm. Thơ của Hồ Xuân Hương in đậm dấu ấn cá nhân của bà, một
cá tính mạnh mẽ, đặc sắc, một chuyện đời đầy long đong. Trong văn học Việt
Nam ít có tác giả nào mà đời gắn liền khăng khít với thơ như Hồ Xuân
Hương: Mỗi đoạn đời lại có thơ, trước mỗi cảnh vật lại có thơ, đời với thơ là
một hay nói cách khác, lần theo thơ ta có thể dựng lại cuộc đời, con người của
nữ sĩ. Xuân Diệu đã nhận định về Hồ Xuân Hương “Văn tức là đời”[3, tr 265]
Có thể nói, thi sĩ đi khá nhiều nơi và những nơi ấy để lại dấu ấn trong

thơ. Thơ chữ Hán của bà viết khá nhiều về thiên nhiên cảnh vật, ở đó bộc lộ
một hồn thơ chân thành, tràn đầy cảm xúc. Thiên nhiên cảnh vật và đời sống
con người cuộc đời nữ sĩ đã làm nên những nội dung chính trong sáng tác
nghệ thuật thơ ca Hồ Xuân Hương.
2.1.1 Thiên nhiên cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương
Nếu như trong thơ Nôm, thiên nhiên cảnh vật thường mang tính tượng
trưng thì trong thơ chữ Hán, thiên nhiên cảnh vật lại là chính nó. Thế giới tự
nhiên thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương nổi bật là cảnh vật do con người kiến tạo
và cảnh các danh lam thắng cảnh thiên nhiên.

14


2.1.1.1 Cảnh vật do con người kiến tạo
Viết về cảnh vật do con người kiến tạo, thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương
chủ yếu miêu tả cảnh chùa chiền và đền miếu.
Về cảnh chùa chiền, Hồ Xuân Hương đã miêu tả cảnh đẹp hư không
của chốn tu hành. Đó là vẻ đẹp của sự thanh tĩnh, đắc đạo với hàng loạt sáng
tác như: Đề Trấn Quốc tự (Đề chùa Trấn Quốc), Phật động tầm u ( Thăm
động Phật thâm u), Đăng Đông sơn tự kiến ký ( Lên chơi chùa núi Đông).
Trong thơ Nôm, cảnh đẹp nơi chùa chiền không gây xúc động cho nhà
thơ mà điều nữ sĩ quan tâm là chân dung độc đáo, kì dị của sư sãi:
Chẳng phải Ngô chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
( Sư hổ mang)
Hay những cảnh tượng ngược đời của bọn sùng đạo:
Người quen cõi Phật quen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên ghé mắt dòm
( Động Hương Tích)
Trong những bài thơ chữ Hán dường như Hồ Xuân Hương có cái nhìn

trìu mến hơn. Bà tập trung miêu tả khung cảnh chùa với vẻ đẹp giản dị nhưng
lung linh huyền ảo của chốn thiền không:
Thủy nguyệt ba lung liên quải choát
Hương yên bảo thoại lộ liên vân
(Trăng nước sóng lồng sen nẩy nõn
Khói hương tàn báu sương móc liền với mây giáng)
(Đề Trấn Quốc tự - Đề chùa Trấn Quốc)
Cảnh chùa có gió mát, trăng nước cùng với hương sen hòa quyện tạo nên vẻ
đẹp hữu tình. Đến vãn cảnh chùa dường như con người có cảm giác thoát tục,
cũng như lạc vào chốn Bồng Lai tiên cảnh:

15


Tẩy không trần lự hoa hàm thoại
(Niềm tục rửa sạch lâng, hoa đằm màu vẻ)
(Đề Trấn Quốc tự - Đề chùa Trấn Quốc)
ở chốn tịnh đường, có khi là vẻ đẹp cổ kính, nghiêm trang. Dù thời gian có để
lại những dấu vết thì nơi cửa không vẫn luôn được coi là chốn linh thiêng,
thâm u, huyền bí:
Động khẩu thiển thâm hoang thảo kính
Tư ngân nồng đậm ấn đài ban
(Cửa động nông sâu lối cỏ rậm
Nét chữ nhạt mà in làn rêu)
(Phật động tầm u - Thăm động Phật thâm u)
Chắc hẳn động Phật này đã bị bỏ hoang từ lâu. Giờ đây nơi này đã trở nên
“sâu lối cỏ rậm”, “nét chữ nhạt mờ” nhưng với nữ sĩ, nơi đây vẫn là chốn siêu
phàm. Nhà thơ cũng muốn nêu lên cái lẽ vô thường theo quan niệm Phật:
Sắc tức thị không không thị sắc
Thiền gia đương tác như thị quan

(Sắc tức là không không là sắc
Nhà thiền nên hiểu mọi sự vật như thế)
Miêu tả cảnh đẹp của chốn tu hành, Hồ Xuân Hương cho chúng ta có cái nhìn
toàn diện hơn về con người nữ sĩ. Đó là tiếng nói của tâm hồn yêu cuộc sống,
yêu cái đẹp tự nhiên, trân trọng giá trị linh thiêng của nơi cửa Phật.
Bên cạnh những bài thơ vịnh cảnh, Hồ Xuân Hương cũng thể hiện cảm
xúc của mình khi chứng kiến những chùa chiền đang tàn phai vì thời gian:
Khánh hữu cơ duyên quy biệt viện
Chung vô cự nghiệp trệ không giai
Đồi lương bại ngõa sào ma tước
Phá kệ tàn bi yểm lục đài

16


(Khánh đá có cơ duyên chyển đi viện khác
Chuông không giá treo nằm xó dài suông
Xà mọt ngói vỡ chim sẻ làm tổ
Bia mòn bệ vỡ rêu xanh phủ khắp)
(Bộ Khánh Minh tự cảm hứng - Dạo
chùa Khánh Minh cảm hứng)
Đi dạo ở chùa Khánh Minh, nữ sĩ nhận thấy sự xuống cấp của ngôi chùa này:
chuông không giá, nằm xó dài suông, xà mọt ngói vỡ, bia mòn, phủ rêu
xanh…Cảnh chùa trở nên hoang tàn đổ nát. Điều đó chứng tỏ rằng đã lâu rồi
không có ai ghé tới. Nó bị lãng quên và Hồ Xuân Hương đã có ước nguyện
được tu tạo:
An đắc Như Lai thiên thủ Phật
Hư không nhất dạ khởi lâu đài
(Sao được như Phật ngàn tay
Một đêm từ hư không dựng lên lâu đài)

(Bộ Khánh Minh tự cảm hứng - Dạo
chùa Khánh Minh cảm hứng)
Sự xuống cấp và tình trạng bị rơi vào quên lãng của ngôi chùa là điều rất đáng
tiếc. Viết bài thơ này, Hồ Xuân Hương mong muốn mọi người hãy biết quý
trọng và gìn giữ những di sản văn hóa của dân tộc.
Nếu như chùa Khánh Minh bị lãng quên và trở nên hoang phế thì Chùa
Cốc tuy vẫn có tăng ni sư sãi nhưng cũng chung tình trạng ấy:
ốc bất ngõa từ giai bất thế
Nham như tường bích thạch như điên
(Mái chẳng ngói, tranh; thềm chẳng xây trát
Vách núi như tường lát, thành đá như keo, dùi)
(Cốc tự tham thiền - Thiền định ở chùa Cốc)

17


Miêu tả cảnh chùa với cái nhìn khách quan, Hồ Xuân Hương cũng phê phán
những kẻ đội lốt tu hành mà không thành tâm khấn Phật. ở đây, ta lại gặp
thoáng chốc “Bà chúa thơ Nôm” trong cảm hứng trào lộng giới tăng ni:
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
(Chùa Quán Sứ)
Ngoài ra, trong các bài thơ viết về đền chùa, Hồ Xuân Hương còn thể
hiện tâm trạng hoài cổ, nhớ về thời đại huy hoàng của những vị tướng cầm
quân đánh đuổi giặc xâm lược:
Đình tiền tượng mã ngân song tỏa
Cung lý y quan ngọc nhất đôi
Thảo mộc ám tùy đông tuyết lão

Giang sơn hoàn vị tích nhân ai
(Trước sân voi ngựa đôi vòng khóa bạc
Trong cung, áo mũ như ngọc chất đầy đống
Cỏ cây âm thầm cằn giá theo tuyết mùa đông
Núi sông vẫn còn buồn thương cho người xưa)
(Quá Khinh Dao từ hoài cổ - Qua đền Khinh
Dao nhớ chuyện xưa)
Nếu như trước đây, ngựa voi áo mũ vòng bạc sáng ngời thì nay chỉ còn cỏ cây
cằn giá. Ngôi đền ấy lưu giữ những giá trị văn hóa thời đại, của dân tộc.Quá
khứ hào hùng, chiến công đánh đuổi giặc ngoại xâm, nỗi buồn cho hiện tại
khi đất nước đang rơi vào tình cảnh loạn lạc toát lên từ những vần thơ của Hồ
Xuân Hương.
Trong bài Tháp sơn hoài cổ (Lên núi Tháp nhớ về xưa), nhà thơ cũng
bộc lộ tâm trạng và cái nhìn mỉa mai về những cuộc chiến vô nghĩa trong lịch
sử. Tháp cổ giờ đây đã trở nên hoang phế, tiêu điều do những tranh chấp của

18


giới vua chúa. Tất cả những “vật báu ngàn cân” hay “phù đồ chín cấp” đều
tan biến và “hóa thành tro bụi”. Nhịp sống đời thường của nhân sinh mới là
bức tranh vĩnh hằng:
Tiểu tư y kha miên thạch đắng
Mục nhi sư độc há sơn ôi
(Chú nhỏ tựa rìu bên vách đá
Trẻ chăn xua nghé xuống dưới đồi núi)
Nhà thơ còn muốn giãi bày khát vọng chân thành. Một cuộc sống thái
bình yên ổn cho tất cả mọi người là điều nhà thơ ước nguyện. Nỗi niềm đó
được thổ lộ qua bài Đăng Đông sơn tự kiến ký (Lên chơi chùa núi Đông)
Đế bà hương hỏa phương lân cận

Trịnh chúa xa luân cựu tích truyền
Phổ độ từ hàng siêu khổ hải
Thuần âu than hạ túc ngư thuyền
(Đèn bà Đế lửa hương thơm quanh xóm
Đường xe chúa Trịnh vết cũ còn in
Bè từ giúp mọi người vượt bể khổ
Dưới bãi những cò vịt quen nghỉ đứng bên đò chài)
Rõ ràng thi nhân mong muốn tất cả khổ đau ngang trái, ly biệt mà nhân dân
lao động phải gánh chịu sẽ chôn vùi vào quá khứ. Giờ đây, cảnh thanh bình
đã trở lại.
Tả về cảnh chùa chiền hay đền miếu, Hồ Xuân Hương không chỉ có cái
nhìn tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên cảnh vật chốn tu hành, nơi thờ phụng
mà còn lồng vào đó cảm xúc hoài cổ của một thi nhân. Bên cạnh đó, bà cũng
xót xa cho những ngôi chùa đang dần rơi vào quên lãng và tàn phai theo thời
gian.

19


2.1.1.2 Các danh lam thắng cảnh
Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương còn có khá nhiều bài viết về các danh
lam thắng cảnh của đất nước, ngoài những ngôi chùa và những ngôi đền cổ
kính. Là người ưa tự do, phóng khoáng, thích ngao du đây đó, nhiều danh lam
thắng cảnh trở thành cảm hứng cho ngòi bút thi nhân. Trong Hương Đình Cổ
Nguyệt thi tập, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp khá nhiều những bài thơ vịnh
về cảnh Đồ Sơn hay vịnh Hạ Long. Có thuyết cho rằng, sau khi Hồ Xuân
Hương lấy Trần Phúc Hiển đã có một thời gian bà theo chồng ra Quảng Ninh.
Có lẽ vì thế mà cảnh trí trời mây non nước đất Quảng Ninh tươi đẹp đã thành
nguồn thi hứng cho nữ sĩ. Hãy xem nhà thơ tả cảnh Hạ Long:
Phiếm phàm vô cấp độ Hoa Phong

Tiễu bích đan nhai xuất thủy trung
Thủy thế mỗi húy sơn diện chuyển
Sơn hình tà khạo thủy môn thông
Ngư long tạp xứ thu yên bạc
âu lộ tề phi chiếu tịch hồng
Ngọc động vân phòng tam bách lục
Bất tri thùy thị Thủy tinh cung
(Lá buồm thong thả vượt vịnh Hạ Long
Vách dựng sườn non nổi lên giữa mặt nước
Hình thế nước lượn uốn theo mặt núi
Cá rồng ở lẫn lộn khói thu mơ màng
Cò sếu cùng bay ánh chiều đỏ
Hang ngọc phòng mây ba trăm sáu
Chả biết ai ở chốn cung Thủy Tinh)
(Độ Hoa Phong - Vượt Hoa Phong)

20


Là một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất của nước ta từ xưa đến nay,
vịnh Hạ Long trong con mắt của thi nhân càng được tôn thêm vẻ hùng vĩ mà
cũng rất nên thơ. Hoa Phong chính là tên gọi cũ của Hạ Long( và nó còn một
số tên khác như Nghiêu Phong hay An Bang). Trong bài thơ này, tác giả miêu
tả vịnh Hạ Long với những “vách dựng sườn non”, “núi nghiêng”, “nước lượn
uốn theo mặt núi”. Từ đó, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của vịnh nước:
có núi non đan cài vào cảnh biển tạo nên nét vẽ chấm phá như trong bức tranh
thủy mặc.
Từ điểm nhìn xa bao quát, nữ sĩ dần thu hẹp khoảng cách và miêu tả những sự
vật cụ thể:
Cá rồng ở lẫn lộn khói thu mơ màng

Cò sếu cùng bay ánh chiều đỏ
Đó là vẻ đẹp rất thơ mộng thần tiên với “khói thu mơ màng”, hòa lẫn “ánh
chiều đỏ”, điểm suyết trong không gian đó là “cá rồng”, “cò sếu”. Hai câu
cuối nhà thơ nói về vẻ huyền bí tựa như trong Thủy Tinh cung của những
hang động ở Hạ Long:
Hang ngọc phòng mây ba trăm sáu
Chả hay đâu chốn Thủy tinh cung
Trong bài thơ Nhãn phóng thanh (Buông tầm mắt xanh), Hồ Xuân
Hương miêu tả cảnh đẹp của vịnh Hạ Long với tầm nhìn bao quát. Người làm
thơ phải có cái nhìn rộng mở thì mới thấy được vẻ đẹp kì diệu mà tạo hóa đã
ban cho nơi đây:
Vi mang loa địa sáp thương minh
Đáo thử tu giao nhãn phóng thanh
Bạch thủy ma thành thiên nhận kiếm
Hàn đàm phi lạc nhất thiên tinh
(Mờ mờ màu xanh đen điểm cắm vào mặt biển rộng

21


Tới đây nên buông tầm mắt xanh
Nước bạc mài thanh gươm ngàn nhận
Đầm lạnh làm rụng cả trời sao)
Nước bạc lung linh huyền ảo, trong vắt tạo cho con người có cảm giác như
nhìn thấy bầu trời đầy sao thứ hai ở dưới đáy hồ.
Và với những cảnh đẹp như vậy, nữ thi sĩ đã ví Hạ Long như “Mái nhà
tiên”(Hải ốc trù):
Phùng Di điệp tác kình thiên trụ
Long Nữ thiên vi hải ốc trù
Đại đế Thủy Hoàng chiên vị cập

Cô lưu nam diện củng kim âu
(Phùng Di chồng chất dựng cột chống trời
Long Nữ làm thêm những thẻ mái nhà ở biển
Đại khái là Tần Thủy Hoàng chưa với roi tới
Nên lưu lại cõi nam để củng cố âu vàng)
Vịnh Hạ Long không chỉ nổi tiếng bởi cảnh biển mà còn có những vách núi
hùng vĩ tựa như mái nhà tiên. Đó là những ngọn núi đã được hình thành từ
thuở xa xưa, trải qua thời gian nó vẫn đứng sừng sững, trở thành biểu tượng
của sự lâu bền. Khám phá những ngọn núi ấy, Hồ Xuân Hương thích thú với
vẻ thẳm u của chúng. Dường như đó chính là những “cột chống trời” hay “thẻ
mái nhà” do Hà Bá hay Long Nữ tạo dựng. Bài thơ là tiếng nói ca ngợi cảnh
đẹp của Hạ Long nói riêng và của nước Nam nói chung.
Ngoài Hạ Long, nhà thơ còn du ngoạn nhiều nơi. Chùm thơ chữ Hán
viết về Đồ Sơn, Sầm Sơn cũng là thắng cảnh biển nổi tiếng. ở bài Vịnh thạch
phu phụ (Vịnh vợ chồng đá), Hồ Xuân Hương viết về hòn Trống Mái ở Sầm
Sơn. Nhà thơ muốn nói về tình cảm chung thủy của vợ chồng. Họ nguyện hóa
thành đá giữa biển để được bên nhau muôn đời:

22


Đề đính nghĩa trường thiên địa tinh
Xướng tùy thanh động hải sơn thu
(Gắn bó nghĩa dài trời đất sánh
Xướng tùy lời động biển non chờ)
Qua đó, ta có thể đọc được tâm tình người làm thơ, thể hiện ước mong có
được hạnh phúc thủy chung của bà.
Hồ Xuân Hương còn có tám bài vịnh cảnh Đồ Sơn hay còn gọi là “Đồ
Sơn bát vịnh” nói về cảnh đẹp nơi đây. Với nghệ thuật tả từ xa đến gần kết
hợp biện pháp so sánh, khung cảnh của Đồ Sơn được hiện lên cụ thể và sinh

động:
Đồ Sơn chi đông viết Đông san
Dao vọng sơn hình tự mã an
Cổ tự môn tòng lâm lộc xuất
Giang phi động tại thạch bình gian
(Phía đông Đồ Sơn gọi là núi Đông
Từ xa nhìn hình núi như chiếc yên ngựa
Cổng chùa cổ nhô ra trong đám miễu rú
Hang Giang Phi ở giữa nới thành đá dựng)
(Đông sơn thừa lương - Hóng mát núi Đông)
Điểm nhìn của tác giả thu hẹp dần. Trông xa ngọn núi như “chiếc yên ngựa”
tạo cho người đọc có hình dung rõ ràng hơn về hình dáng và thế đứng của núi.
Lại gần hơn nữa là ngôi chùa cổ và hang Giang Phi. Tất cả tạo nên một tổng
thể kiến trúc vừa cổ kính, vừa hùng vĩ.
Theo chân nữ sĩ, người đọc sẽ bắt gặp giếng Rồng:
Ngọc sơn sơn hạ tiểu khê biên
Xuyên thạch quyên quyên chú bách xuyên
Nhuận hoạt hồn như hòa ngọc dịch
Thanh hương sai khả thắng long diên
(Ở dưới núi ngọc bên khe nhỏ
Giọt nước chan chan xuyên kẽ đá rót vào trăm sông

23


Loáng sáng như hòa nước ngọc
Thơm trong tưởng có thể hơn rãi Rồng)
(Long tỉnh quá trạc - Qua chơi giếng Rồng)
Cùng tả về giếng nước nhưng trong thơ Nôm không chỉ đề cập đến vẻ đẹp tự
nhiên mà còn hàm ẩn để nói về con người:

Giếng tốt thanh thơi giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá giếc le te lách giữa dòng
(Giếng nước)
Từ chiếc cầu trắng đến dòng nước trong đều “thanh thơi”; “cỏ gà” hay “cá
giếc” đều có gì đó non tơ mới mẻ. Mượn hình ảnh giếng nước, Hồ Xuân
Hương nói về sức sống và vẻ đẹp thanh tân của những cô tố nữ.
Khác với bài thơ trên, Giếng Rồng trong thơ chữ Hán của nữ sĩ lại là vẻ
đẹp tự nó, dường như không có hàm ý sâu xa nào khác: rỉ đá chan chan, loáng
sáng, trong thơm. Với phép so sánh nước giếng như nước ngọc, trong hơn cả
rãi Rồng thiêng, chúng ta có thể nhận thấy vẻ đẹp tinh khiết xen lẫn sự linh
thiêng của giếng.
Tóm lại, qua những bài thơ vịnh cảnh vật được kiến tạo từ bàn tay và trí
tuệ, tình cảm con người hay danh lam thắng cảnh thiên nhiên tạo hóa ban cho,
chúng ta có thể biết thêm về Hồ Xuân Hương với hồn thơ đằm thắm, dịu
dàng. Khác với thơ Nôm, nữ sĩ không miêu tả cảnh bằng cái nhìn đầy “ẩn ý”
mà bộc lộ một cái nhìn chân thành, tha thiết. Niềm tự hào của thi nhân đối với
cảnh đẹp của non sông gấm vóc nước Nam là nét đẹp trong thế giới tâm hồn
nhà thơ. Hồ Xuân Hương cũng xót xa nuối tiếc mãi giá trị cái đẹp tạo hóa, cái
đẹp do con người tạo nên bị tàn phai, bị thời gian xóa mờ, con người vô tình
quên lãng.

24


2.1.2 Đời sống con người trong thơ Hồ Xuân Hương
2.1.2.1 Tình bạn và tình yêu trong thơ Hồ Xuân Hương
Bên cạnh những vần thơ viết về thiên nhiên, thơ chữ Hán Hồ Xuân

Hương còn viết về đời sống con người trong đó thơ nói về tình bạn, tình yêu
của bản thân nữ sĩ chiếm một phần khá quan trọng. Từ bao lâu nay, Hồ Xuân
Hương được biết đến qua thơ Nôm bởi sự táo bạo, nồng nhiệt. ở đây, với thơ
chữ Hán lại hiện lên một Xuân Hương sâu sắc, đằm thắm, trăn trở nhưng cũng
không kém phần nóng bỏng, phóng khoáng. Trong thơ Nôm truyền tụng cùng
với tiếng cười nhạo của nhà thơ với nhiều hạng người trong xã hội cũng thể
hiện sự xót thương cho thân phận, tình duyên của bản thân nhưng vẫn bộc lộ
sự phản kháng, thách thức: “Trơ cái hồng nhan với nước non” hay “ Ngán nỗi
xuân đi xuân lại lại / Mảnh tình san sẻ tý con con”. ở thơ chữ Hán, Hồ Xuân
Hương cũng đau cho mình, cho những mối duyên không thành nhưng với
giọng thơ dịu dàng, chân thành, tha thiết. Đây cũng là những bài thơ của hoài
niệm nhung nhớ, những tình cảm nhân sinh đẹp đẽ khôn cùng.
Trước hết, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ có ý thức cá nhân rất rõ. Bà
thể hiện ý thức về nữ nhi, luôn đấu tranh và lên án sự bất công của xã hội, của
nho giáo. Nhưng khác với thơ Nôm, thơ chữ Hán không “đánh thẳng, đánh
mạnh” mà thể hiện qua nỗi cô đơn rợn ngợp của một người phụ nữ không
may mắn trong tình yêu:
Đài hoang thần nữ miếu
Vân tán Sở vương đài
Minh nguyệt quang như hử
Ngã tư chi nhân hề an tại tai
(Miếu hoang thần nữ rêu rầu
Đài cao vua Sở mây tản
Bốn bề trăng sáng mênh mang
Người ta mong nhớ giờ đang nơi nào)
(Nguyệt hạ ca 1 - Bài ca dưới trăng 1)

25



×