Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Một số giải pháp về tâm lý và phong cách lãnh đạo để nâng cao hiệu quả công tác quản lý hiện nay TL kỹ NĂNG LÃNH đaọ QUẢN lý hải 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.06 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Những thắng lợi to lớn mà nhân dân ta đã giành được sau cách mạng
tháng 8 năm 1945 và qua hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược cũng như
những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN
là bằng chứng khẳng định tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, đất nước ta tiếp tục đạt những thành tựu to lớn, tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhiều năm liên tục ở mức khá, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã
tạo được uy tín và thương hiệu trên thị trường trong nước và nước ngoài. Bên
cạnh đó, chúng ta gặp không ít những khó khăn, thách thức.
Việc củng cố, nâng cao uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta càng trở nên cấp thiết. Điều quan trọng nhất đối với nhà quản lý là phải
biết vận dụng một cách linh hoạt phong cách lãnh đạo của mình. Giống như một
đoàn tàu ra khơi, bao giờ chúng ta cũng kỳ vọng ở thuyền trưởng - người chèo
lái con tàu đất nước. Do đó, bản thân tôi mong những người cộng sản lãnh đạo
đất nước trong tương lai phải hiểu rõ truyền thống lịch sử, văn hoá và nhìn vào
bốn ngàn năm lịch sử để nhìn rõ con đường đi lên của đất nước.
Những yêu cầu trên đã đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu về tâm lý
của người lãnh đạo và các tổ chức. Bởi vì, mỗi con người, mỗi tổ chức xã hội là
một thế giới tâm lý rất phức tạp và phong phú. Thế giới tâm lý này là động lực
nội tâm chi phối từ nhận thức đến hành vi của các chủ thể.
Kỹ năng lãnh đạo là sự rất cần thiết, nhưng chưa đủ để nhà lãnh đạo nắm
chắc thành công. Cái không thể thiếu ở một người lãnh đạo là biết mình lãnh đạo
1


ai, trong môi trường kinh tế, xã hội, văn hoá nào, với những truyền thống, phong
tục, tập quán ra sao và quan trọng hơn hết cần đưa ra tầm nhìn như thế nào để


đem lại lợi ích lớn nhất cho người sẽ chịu ảnh hưởng từ tầm nhìn ấy.
Xuất phát từ nhận thức trên, người lãnh đạo tương lai phải có trách nhiệm
với dân tộc, với lịch sử, với trọng trách mà họ đang gánh vác nên em đã quyết
định chọn đề tài: “Một số giải pháp về tâm lý và phong cách lãnh đạo để nâng
cao hiệu quả công tác quản lý hiện nay”.
Cấu trúc đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về tâm lý và phong cách người lãnh đạo
Phần II: Thực trạng công tác lãnh đạo tại cơ quan
Phần III: Một số giải pháp về tâm lý – phong cách lãnh đạo để nâng cao
hiệu quả công tác quản lý hiện nay.

2


PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÂM LÝ VÀ PHONG CÁCH
NGƯỜI LÃNH ĐẠO

1. Khái niệm về lãnh đạo và các yếu tố cấu thành của lãnh đạo

Lãnh đạo là một chức năng quan trọng của quản lý, khả năng lãnh đạo là
tiêu chí đánh giá trình độ quản lý, hiệu quả lãnh đạo là chìa khoá để trở thành
nhà lãnh đạo giỏi.
1.1. Khái niệm về lãnh dạo
Lãnh đạo là sự tác động như một nghệ thuật hay một quá trình đến con
người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được mục tiêu của tổ
chức, mọi người cần được động viên để tự nguyện làm việc với sự sốt sắng, tin
tưởng, tận tuỵ tối đa khả năng của mình.
1.2. Các yếu tố cấu thành của lãnh đạo
- Khả năng nhận thức được con người, những động lực thúc đẩy khác

nhau ở những thời gian khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau.
- Khả năng khích lệ: Hãy hiểu rõ những biện pháp khích lệ mà mọi người
coi trọng bằng cách áp dụng kỹ năng xây dựng quan hệ và xác định kỳ vọng.
Hãy nghiên cứu những biện pháp khích lệ cụ thể mà mọi người muốn có và
những gì mà môi trường đã mang lại cho họ. Hãy sử dụng các biện pháp khuyến
khích “cứng” và “mềm” để khích lệ mọi người. Các khuyến khích cứng bao
gồm: tiền lương, phúc lợi, thăng chức, an ninh nghề nghiệp và điều kiện làm
việc. Đây là những công cụ thúc đẩy mạnh. Hãy chắc chắn là mọi người nhận
được đầy đủ những ưu đãi này.
- Khả năng hành động: Để tạo ra một bầu không khí hữu ích cho sự ảnh
hưởng các quyết định của nhóm hay tập thể.

3


* Muốn chi phối được môi trường, người lãnh đạo cần phải lưu ý 4 yếu
tố:
- Tầm nhìn: “Phần tinh quý thực sự của nhà lãnh đạo là có tầm nhìn”,
Rev. TheodoreM. Hesburgh, Hiệu trưởng Trường Đại học Notre Dame, Pháp
cho biết: Nhà lãnh đạo phải chỉ ra hướng đi cho những người dưới quyền. Các
nhà lãnh đạo thường là những người có tầm nhìn xa, những người có khả năng
dự báo trước xu thế lớn, họ là những nhà chiến lược. Người lãnh đạo phải xác
định được tương lai, nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của một tổ chức.
- Giao tiếp: Người lãnh đạo phải thành thạo giao tiếp bằng cả văn nói và
cả văn viết, phải biết cách gây ấn tượng bằng giọng nói, ngôn ngữ cơ thể, đôi
mắt và cách diễn đạt dễ hiểu, thuyết phục. Nhà lãnh đạo tài năng thường sử dụng
ngôn ngữ làm lay chuyển mọi người. Họ nói năng rất rõ ràng, chính xác, họ có
cách sử dụng từ vựng vô cùng hoàn hảo, phù hợp với từng đối tượng.
Người lãnh đạo giỏi phải biết bày tỏ cảm xúc của mình và tìm hiểu cảm
xúc của người khác. Hãy nói với các nhân viên rằng họ đang cảm thấy thế nào

về công việc và cường độ làm việc, công việc của họ tiến triển ra sao, có điều gì
đang cản trở thành công. Sau đó, hãy tỏ ra chân thành và nói cho họ biết bạn
đánh giá như thế nào về họ, phong cách và hiệu quae làm việc của họ. Khi
những giá trị chính là gì và điều này tạo ra một bầu không khí làm việc cởi mở
có hiệu quả cao.
- Sự tin cậy: Một nghiên cứu của Hay đã khảo sát trên 75 yếu tố tạo nên
sự hài lòng của nhân viên. Kết quả là:
+ Niềm tin và sự tin cậy, đây được coi là công cụ đo lường xác thực nhất
của nhân viên trong một tổ chức.
+ Truyền thống hiệu quả là lãnh đạo trong ba lĩnh vực dưới đây chính là
yếu tố then chốt để đạt được niềm tin và sự tin cậy trong tổ chức:
• Giúp nhân viên hiểu rõ việc làm của tổ chức.
4


• Giúp nhân viên hiểu được rằng: Họ cần đóng góp những gì để đạt
được các mục tiêu chung của tổ chức.
• Chia sẻ thông tin với các nhân viên về 2 vấn đề: Tổ chức đang hoạt
động thế nào và mỗi thành biên làm việc như thế nào trong mối
tương quan với các mục tiêu chiến lược của tổ chức.
* Nhà lãnh đạo sẽ được người khác tôn trọng khi chứng minh được khả
năng, kiến thức chuyên môn của mình bằng một thứ ngôn ngữ thích hợp, được
thể hiện một cách chuẩn xác và đúng thời điểm. Khi nhà lãnh đạo trả lời các thắc
mắc, quan tâm nhân viên một cách chính xác, thể hiện tài năng của mình một
cách khiêm tốn và làm cho các nhân viên cảm thấy tin tưởng khi làm theo những
đường lối do mình vạch ra, anh ta sẽ có một ảnh hưởng lớn đối với họ.
- Tự biết mình: Thành công trong nền kinh tế tri thức chỉ đến với những
người biết rõ bản thân, những mặt mạnh, những giá trị và cách tốt nhất mà con
người có thể làm. Các cơ quan trong thời đại ngày nay không quản lý công việc
nhân viên, những công nhân tri thức phải biết trở thành nhà quản lý của chính

mình một cách hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào bạn có tìm cho mình một vị trí,
có biết khi nào thì nên thay đổi công việc, làm việc tận tâm và năng suất trong
cuộc đời làm việc. Để làm tốt những việc trên, bạn cần có năng suất trong suốt
cuộc đời làm việc, bạn cần có sự hiểu biết sâu sắc về bản thân, không chỉ sở
trường và sở đoản mà cả cách học tập, cách làm việc với những người khác,
những giá trị của bạn và nơi mà bạn có thể đóng góp nhiều nhất. Khi bạn có thể
vận dụng những khả năng của mình, bạn mới có thể đạt được thành công xuất
sắc thật sự.
2. Đặc điểm tâm lý và những điều cần tránh của người lãnh đạo
2.1. Đặc tính tâm lý của người lãnh đạo
- Khả năng tác động về mặt tình cảm và ý chí như khả năng truyền cảm,
nghị lực của mình cho người khác bằng phong thái cá nhân, tính nghiêm khắc
trong truyền đạt, tính phê phán, ngay thẳng, dũng cảm, đúng lúc.
5


- Tính cởi mở cá nhân như sự khéo léo giao thiệp với người khác, tiếp xúc
nhanh chóng và không gượng gạo với bất kỳ người nào, khéo léo tác động đến
con người, biết phát biểu trước công chúng, đó là phẩm chất không thể tách rời
của bất kỳ người lãnh đạo nào.
- Tính chọn lọc tâm lý biểu hiện ở khả năng nhanh chóng, nắm bắt được
những đặc điểm và trạng thái tâm lý của người khác và muốn chan hoà với họ.
- Đặc tính phản ánh là một phẩm chất quan trọng của người lãnh đạo có ý
nghĩa tâm lý rộng rãi.
2.2. Kỹ năng lãnh đạo
- Sử dụng đúng uy quyền của mình về pháp lý.
- Uỷ quyền cho cấp dưới, khả năng quan trọng nhất mà người lãnh đạo
cần có là biết sử dụng người khác để đạt kết quả tốt.
- Phải biết tổ chức công việc của mình, vấn đề là ở chỗ phải chọn phương
pháp thực hiện công việc để công việc dồn mình hay tự mình dồn công việc.

- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo và người cấp dưới, việc thực
hiện quyền lực trong thực tế có liên quan đến yêu cầu và mong đợi của cả hai
bên từ phía tập thể đối với người lãnh đạo cũng như từ phía lãnh đạo đối với
người dưới quyền.
- Biết cách truyền đạt quyết định có hiệu quả.
2.3. Những điều cần tránh trong phong cách người lãnh đạo
Để đạt được hiệu quả trong quản lý, người lãnh đạo cần tránh một số điều
sau:
- Tính độc tôn.
- Tính cố chấp, không tiếp thu ý kiến của người khác.
- Tính đơn ý.
- Tính cực đoan, duy ý chí.
6


- Tính ôm đồn, bao biện, làm mọi việc không đúng thẩm quyền.
- Tính ua dua, không biết quyết định và không dám chịu trách nhiệm.
- Tính sổ sàng.
-

Tính duy ý chí, phải biết người dưới quyền của mình như thế nào để
giao nhiệm vụ hợp lý.
3. Một số vấn đề tâm lý liên quan đến lãnh đạo
3.1. Tâm lý học quản lý
- Giúp cho người lãnh đạo nghiên cứu những người dưới quyền mình, giải
thích những hành vi của những người dưới quyền, nhìn thấy trước những hành
vi của cấp dưới, từ đó sắp xếp cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với khả năng
của họ.
- Tác dụng thực tiễn của tâm lý học là ở chỗ nó giúp người lãnh đạo nắm
được quy luật của tâm lý và làm chủ nó nhằm phát huy khả năng chủ quan của

con người, tạo ra một sức mạnh quần chúng đem lại hiệu quả tổng hợp cao.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý công chức
- Giá trị của tổ chức: Là những tiêu chuẩn nguyên tắc hướng dẫn hoạt
động của tổ chứ và cùng vào khuôn khổ cho các hoạt động đó. Giá trị của tổ
chức bao gồm ba yếu tố là:
+ Mục tiêu của tổ chức hành chính là thi hành pháp luật bảo vệ an ninh
trật tự và thoả mãn nhu cầu công cộng.
+ Tiêu chuẩn hiệu suất là tiêu chuẩn đo lường khả năng làm việc của công
chức.
+ Nguyên tắc tôn trọng pháp luật: Nguyên tắc này có mục đích kiểm soát
và ngăn chặn lạm dụng công chức để bảo vệ quyền lợi của cơ quan nhất là của
nhân dân.
- Tương quan nhân sự trong tổ chức:
7


+ Cách cư xử giữa các công chức trong tổ chức, các công chức liên hệ với
nhau theo chính thức và phi chính thức.
+ Tinh thần phục vụ tập thể.
Áp lực của cấp trên và đồng nghiệp trong một số trường hợp cấp trên và
đồng nghiệp trở thành áp lực đối với công chức khiến cho con người này có
những thái độ hoạt động đặc biệt.
- Chức vụ công chức: Ảnh hưởng đến hành động của cá nhân và ảnh
hưởng đến hành động của người khác, chức vụ ảnh hưởng đến nhân cách của
người làm thay đổi tâm trạng và do đó biến đổi phong cách.
Nhiệm vụ của công chức cũng ảnh hưởng đến tâm lý và phong cách của
công chức.
Quyền lợi là động cơ mạnh thúc đẩy con người làm việc vì điều kiện tiên
quyết là con người phải được thoả mãn.
3.3. Cần khắc phục những hiện tượng tâm lý tiêu cực trong quản lý

- Tâm lý sản xuất nhỏ: Thích ổn định, ngại đổi mới, thích thoả mãn với
kết quả hiện tại, cầu an yên phận.
- Tâm lý tiêu xài hoang phí: Đang là vật cản lớn cho việc thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Tâm lý xin cho: Công chức trong bộ máy hành chính thường có tâm lý
ban ơn trong quan hệ với các tổ chức và nhân dân.
- Người lãnh đạo cần lưu ý đến tình khí cá nhân: Nó ảnh hưởng quan
trọng đến kết quả hoạt động. Vì vậy, lưu ý đến các đặc điểm của nó là điều kiện
tất yếu để lãnh đạo có hiệu quả.
4. Phong cách lãnh đạo
Những nhà lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay phải là người có những cái
nhìn thực tế hơn về giá trị của họ đối với tổ chức mà họ quản lý. Họ phải có một
phong cách quản lý mới, hợp lý. Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong cách mà ở
8


đó người lãnh đạo vừa đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của người lao động,
vừa phát huy được sức mạnh cá nhân và tập thể lao động trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Có thể khẳng định rằng, phong cạc lãm đapk sẽ là một yếu tố
quan trọng trong những yếu tổ làm nên sự thành công trong làm ăn của một
doanh nghiệp.
Được coi là nhân tố quan trọng của người quản lý, lãnh đạo, nó gắn liền
với nhiều người lãnh đạo và nghệ thaụat lãnh đạo, quản lý con người.
Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện về mặt khoa học và tổ chức lãnh
đạo, quản lý mà con người thể hiện tài năng, chí hướng, nghệ thuật điều khiển,
tác động người khác của người lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng của hoạt động và
hoạt động quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc điểm nhân cách
của họ.

Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện,
và được biểu hiện bằng công chức: Phong cách lãnh đạo bằng cá tính nhân với
môi trường.
Phong cách lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của người lãnh đạo được
hình thành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu
tố tâm lý chủ quan của người lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ
thống quản lý.
Phong cách lãnh đạo được coi như là một nhân tố quan trọng của quản lý,
trong đó thể hiện không chỉ mặt khoa học và tổ chức quản lý mà còn thể hiện tài
năng và chí hướng của con người, nghệ thuật chỉ huy của người lãnh đạo.
Phong cách làm việc của người lãnh đạo là tổng hợp những phương pháp,
biện pháp, cách thức riêng có, tiêu biểu, ổn định mà người lãnh đạo sử dụng
hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình.
9


Phong cách làm việc là cái đời thường dung dị nhưng lại phản ảnh các
phẩm chất bên trong của con người, phẩm chất tuy là cái sâu kín bên trong của
con người song nó không phải là cái trừu tượng mà được biểu hiện trong hành
động, cử chỉ, hành vi, cử chỉ, hành vi, trong việc thực hiện nhiệm vụ, trong cách
đối nhân xử thế, giải quyết các mối quan hệ cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, với
quần chúng, đó là phong cách làm việc của cán bộ hoặc nói một cách khác,
phong cách làm việc là phẩm chất của con người, bản thân con người.
4.1. Phong cách lãnh đạo cơ bản
4.1.1. Sự lãnh đạo chuyên quyền
Nhà lãnh đạo đòi hỏi cấp dưới phải tuân phục mọi mệnh lệnh của mình.
Họ thể hiện những phẩm chất mạnh mẽ của người lãnh đạo vì quyết tâm biết về
những mối quan tâm của nhân viên, duy trì sự thảo luận và thúc đẩy mọi người
về thảo luận nhiều hơn. Họ thường lãnh trách nhiệm khởi đầu, điều hành và kết
thúc mọi việc. Tuy nhiên, nếu thể hiện những đặc điểm của nhà lãnh đạo chuyên

quyền một cách thái quá thì nguy cơ cũng rất rõ ràng. Khi biểu hiện một cách
thái qúa, nhà lãnh đạo độc đoán lập kế hoạch trước một cách tỉ mỉ, bởi vì mục
đích của họ là buộc nhân viên đạt được mục tiêu của họ đề ra, và họ quyết tâm
tác động đến hoàn cảnh để làm cho điều đó được khả thi.
* Ưu điểm: Nó cho phép giải quyết một cách nhanh chóng kịp thời các
nhiệm vụ. Song người lãnh đạo không quan tâm tới ý kiến của người dưới quyền
và ra quyết định trên cơ sở những thông tin sẵn có.
* Nhược điểm: Là chủ quan không tập trung và phát huy được sáng tạo,
kinh nghiệm của người dưới quyền.
4.1.2. Sự lãnh đạo dân chủ
Nhà lãnh đạo thu thập ý kiến của nhân viên, tạo ra sự đồng lòng, nhất trí
tuyệt đối quá trình tham gia đóng góp ý kiến của nhiều người. Khả năng tư duy
và xúc cảm của nhà lãnh đạo đi kèm là tinh thần lãnh đạo đồng đội và giao tiếp
trong công sở. Nhà lãnh đạo dân chủ chấp nhận quan niệm lãnh đạo là chức
10


năng của cả nhóm chứ không phải của riêng một cá nhân nào. Tập thể được coi
là một đơn vị, một cơ thể với nhiều chức năng. Nhiệm vụ lãnh đạo do nhiều
người cùng chia sẻ tuỳ theo khả năng và năng khiếu riêng của họ. Nói một cách
khác, cương vị lãnh đạo tập trung vào nhóm chứ không phải cá nhân nhà lãnh
đạo. Điều đó không có nghĩa vai trò của người lãnh đạo là không cần thiết.
Ngược lại, để nhóm hoạt động hiệu quả, rất cần một người đi đầu, giúp cả nhóm
xác lập mục tiêu, tổ chức và xây dựng các quy định chung hiệu quả cho hoạt
động của nhóm.
Ưu điểm là nó cho phép khai thác những kiến thức, kinh nghiệm của
người dưới quyền của tập thể. Do đó, nó tạo ra sự thoả mãn lớn cho người dưới
quyền vì họ cảm thấy được chấp nhận và được tham gia. Người dưới quyền cảm
thấy thoả mãn vì họ được thực hiện những công việc do chính họ đề ra, thậm chí
được tham gia đánh giá kết quả công việc.

Nhược điểm của phong cách dân chủ là quá trình dân chủ tốn kém nhiều
thời gian. Trong rất nhiều trường hợp, việc bàn bạc kéo dài mà không đi tới
được quyết định trong khi thời gian giải quyết nhiệm vụ không cho phép kéo
dài.
4.1.3. Sự lãnh đạo tự do
Nhà lãnh đạo cung cấp thông tin cho tập thể, từ đó xem thông tin đó có
nhận được sự ủng hộ đồng tình không và đưa ra ý kiến của mình.
Người lãnh đạo tham gia ít nhất vào công việc của nhóm, giao hết quyền
hạn và trách nhiệm cho mọi người. Các thành viên trong nhóm được cung cấp
tối đa các thông tin được phép tự do hành động theo điều họ nghĩ, theo cách
chức mà họ cho là tốt nhất. Theo phong cách này, các thông tin được thực hiện
chủ yếu theo chiều ngang. Nếu xét về lượng thông tin là người dưới quyền được
biết thì phong cách của sự lãnh đạo chuyên quyền độc đoán ít nhất, tiếp đến là
sự lãnh đạo dân chủ và phong cách tự do là nhiều nhất.

11


Ưu điểm của sự lãnh đạo này là nó cho phép phát huy tối đa năng lực sáng
tạo của người dưới quyền. Tuy nhiên, sự lãnh đạo này dễ dẫn đến tình trạng hỗn
loạn, vô chính phủ trong tổ chức do thiếu vắng chỉ dẫn của người lãnh đạo.
Từ việc so sánh hiệu quả của 3 phong cách lãnh đạo trên, K. Lewin kết
luận rằng sự lãnh đạo dân chủ là phong cách mang lại hiệu quả cao nhất và coi
đây là phong cách của người lãnh đạo thành công.
Tốt nhất là phong cách dân chủ kết hợp với một ít độc đoán. Người dưới
quyền tin tưởng vào sự lãnh đạo và cảm thấy mình được tôn trọng.
4.2. Phong cách cách mạng và khoa học
- Các đặc trưng quan trọng nhất thuộc bản chất của phong cách cách mạng
và khoa học:
+ Tính tư tưởng: Thể hiện sự trung thành tuyệt đối sự nghiệp cách mạng

của Đảng, của dân tộc, thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa, phải cần kiệm,
liêm chính, chí công vô tư.
+ Tính nguyên tắc Đảng và Pháp luật Nhà nước trong việc giải quyết
những vấn đề lợi ích.
+ Tính nghiêm khắc trong việc tự phê bình và thái độ công minh trong
việc tự phê bình và đánh giá người khác.
+ Tính thiết thực cụ thể linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề của
đời sống xã hội.
+ Nhạy cảm trước cái mới.
- Cần chống chủ nghĩa quan liêu trong quản lý, quan liêu là những người,
những cơ quan lãnh đạo từ trên xuống dưới xa rời thực tế, việc gì cũng không
sâu xa chỉ đại khái. Đối với công việc thì trọng hình thức chỉ khai hội, xem báo
cáo trên giấy không kiểm tra đến nơi đến chốn. Phong cách làm việc quan liêu
đem lại những tệ hại sau đây đối với quan hệ người lãnh đạo cấp dưới:
+ Ngăn cản cá nhân con người phát triển toàn diện.
+ Đề ra chủ nghĩa thủ cựu và nếp suy nghĩ theo đuôi.
12


+ Một trong những biểu hiện nổi bật của bệnh quan liêu là khoảng cách
ngày càng mở rộng giữa điều mà thủ trưởng có quyền làm và điều mà thủ trưởng
có thể làm.
• Với quan điểm: Quan liêu là xa rời quần chúng, không lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Sợ phê bình và tự phê bình, thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên
tắc, nên việc chống quan liêu ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách, bởi quan
liêu là nguồn gốc nảy sinh của nạn tham ô, lãng phí. Lãnh đạo mắc bệnh quan
liêu nên cơ quan mới dễ xuất hiện người xấu.
• Suy nghĩ kỹ trước khi làm việc gì, lời nói phải đi đôi với việc làm, thống nhất
giữ lý luận với thực tiễn.
- Phong cách làm việc tập thể dân chủ quyết đoán dựa trên nguyên tắc tập

trung dân chủ, đề cao tính tập thể trong lãnh đạo đi đôi với tăng cường trách
nhiệm cá nhân.
- Phong cách sâu sát thực tế vào quần chúng, thường xuyên liên hệ mật
thiết với nhân dân.
- Phong cách khiêm tốn cởi mở, tiếp thu phê bình và tự phê bình.
- Phong cách cần cù, tiết kiếm, tỉ mỉ trong chất lượng.
- Phong cách kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với linh hoạt mềm trong
xử lý công việc.
Nhu cầu áp dụng những cách lãnh đạo này là rất khác nhau, tuỳ theo hoàn
cảnh của mỗi tổ chức. Người lãnh đạo phải thuần thục từ bốn phong cách trở
lên, đặc biệt là phong cách làm việc tập thể dân chủ quyết đoán, điều đó sẽ giúp
họ đạt được sự thành công như ý trong việc kinh doanh.
4.3. Những yếu tố hình thành và con đường rèn luyện, xây dựng phong
cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo
4.3.1. Những yếu tố hình thành phong cách làm việc khoa học
Phong cách làm việc khoa học của người lãnh đạo là sản phẩm tổng hợp
của nhiều yếu tố:
13


- Phẩm chất chính trị đạo đức: Đây là cái “gốc” để hình thành và phát
triển phong cách làm việc khoa học. Là đức tính đoàn kết, khiêm tốn, có tinh
thần cầu thị, có lòng vị tha, niềm tin yêu đồng sự, cấp dưới và quần chúng.
- Tri thức: Người cán bộ lãnh đạo mà thiếu tri thức, không am hiểu, thành
thạo công việc thì thường dựa vào kinh nghiệm áp đặt, giáo điều.
- Cơ chế chính sách: Là yếu tố bên ngoài nhưng tác động rất quan trọng
đến việc hình thành phong cách làm việc của người lãnh đạo.
- Khí chất cá nhân.
4.3.2. Con đường rèn luyện phong cách làm việc của người lãnh đạo
- Thường xuyên giáo dục lý luận Mác-Lenin, xây dựng cho mình phong

cách làm việc khoa học. Phải rèn luyện trong công tác, trong học tập, trong
phong trào cách mạng quần chúng và rèn luyện ngay trong cuộc sống đời
thướng.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và hoạch định đường
lối chủ trương, chính sách, chủ động sáng tạo trong tổ chức thực hiện các chủ
trương đường lối vào cuộc sống.
- Tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo, đảm bảo và nâng cao vai trò
lãnh đạo nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của
người lãnh đạo.

14


PHẦN II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO TẠI CƠ QUAN
1. Đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội của huyện ĐỨC THỌ
ĐỨC THỌ là một huyện ngoại thành của thành phố HÀ TĨNH.
Có thể nói sau ngày giải phóng, ĐỨC THỌ là một huyện thuần nông, có
hơn 60% hộ dân thiếu đói. Thêm vào đó là thiên tai, bão lũ liên tục xảy ra gây
rất nhiều tổn thất về tính mạng và tài sản cho nhân dân. Ba mươi năm qua, Đảng
bộ và nhân dân ĐỨC THỌ đã đoàn kết một lòng, gắn sức phấn đấu xây dựng
quê hương ngày một giàu mạnh, đến nay đã đạt được một số kết quả đáng tự
hào:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân (1997 - 2000) là 11%, (2001 - 2005)
là 14%.
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến rõ nét theo hướng giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Định hướng
cơ cấu nền kinh tế của huyện đến năm 2010 như sau: công nghiệp - xây dựng
chiếm 36%, dịch vụ chiếm 33%, nông nghiệp chiếm 31%.
Thu nhập đầu người từ 3 triệu đồng năm 1997 lên trên 7,5 triệu đồng cuối

năm 2006 và đến năm 2010 phất đấu đạt 12,04 triệu đồng/người/năm.
Cơ bản thâm nhập nhựa và bê tông ximăng đường giao thông nông thôn,
kiệt xóm gần 700 km, xe ô tô vào được tận khu dân cư.
Hệ thống trường cấp 1- 2- 3 và các thôn vùng lũ được kiên cố hoá và tầng
hoá.
Đã xoá được 4.831 nhà tạm cho các hộ gia đình chính sách và xã hội; đã
xoá hết hộ đói.

15


Đời sống nhân dân được nâng lên đáng kể: 99% hộ có điện, 95% hộ có
nhà xây, 70% có xe gắn máy, 80% hộ có phương tiện nghe nhìn. 11/11 xã đạt
chuẩn quốc gia về y tế.
Quốc phòng và an ninh trên địa bàn huyện được giữ vững, trật tự xã hội
có nhiều tiến bộ.
Trong 7 năm liền được UBND thành phố đánh giá và công nhận là đơn vị
dẫn đầu khối quận, huyện, 6 năm liền được Thủ tướng tặng cờ thi đua xuất sắc,
Chủ tịch Nước tặng Huân chương lao động hạng ba. Đặc biệt tháng 10 năm
2004 Chủ tịch nước đã ký quyết định phong tặng cho nhân dân, cán bộ huyện
ĐỨC THỌ danh hiệu “Anh Hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”.
Để có được những thành tựu như trên là nhờ vào công tác tuyên truyền,
phổ biến và giáo dục pháp luật của huyện trong thời gian qua; qua công tác này
nhân dân trên địa bàn huyện đã nắm rõ được chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước cũng như chủ trương của huyện, góp phần vào thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng lãnh đạo
Lúc sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ
vững mạnh. Người đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muốn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc yếu”. Người đã chỉ ra nhiều chỉ

dẫn có ý nghĩa phương pháp luận học để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh.
Điều này quan trọng trước tiên, theo Bác là phải biết đúng cán bộ. Muốn
vậy, phải chí công vô tư trong việc xem xét cán bộ.
Người nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là
dễ. Đã không tự biết mình thì khó mà biết người. Vì vậy, muốn biết đúng sự phải
– trái ở người ta, thì phải biết đúng sự phải – trái của mình. Nếu không biết sự
phải – trái ở mình, thì chắc chắn không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu.
Bác thấy rằng, người lãnh đạo thường phạm bốn bệnh khi xem xét cán bộ:
Tự cao, tự đại; ưa nịnh hót, do yêu ghét mà xét con người; đem một khuôn cứng
16


mắc để đánh giá cán bộ. Bác ví người lãnh đạo nếu mắc một trong bốn bệnh ấy
cũng như một người mang kính màu, không bao giờ thấy được màu sắc thật của
sự vật. Bác khuyên người lãnh đạo phải bỏ kính màu đó, sửa chữa những bệnh
ấy, mới có thể hiểu biết đúng cán bộ.
Người dạy chúng ta phải có phương pháp khách quan toàn diện trong việc
xem xét đánh giá cán bộ. Chống lối “Duy ngã” siêu cứng nhắc, hời hợt. Khi
xem xét cán bộ, không nên chỉ nhìn bề ngoài, xem trong một lúc, một việc mà
phải xem xét một cách toàn diện, cả quá trình phát triển của họ, những lúc gặp
khó khăn, cũng như lúc thuận lợi.
Theo Bác, cách tốt nhất để đánh giá đúng cán bộ, tránh thiên vị, là để cho
quần chúng nhận xét cán bộ. Người nói: “Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán
bộ nào có lỗi lầm mà có thể sửa đổi, ai làm việc hay hay, việc gì quậy, dân
chúng cũng do cách so sánh đó mà họ biết rõ ràng. Vì vậy, để cho dân chúng
phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cân nhắc cán bộ, nhất định không xảy
ra, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng”.
Người chỉ rõ, sử dụng cán bộ, cũng như khi đánh giá cán bộ phải rất “vô
tư”. Người phê phán gay gắt những bệnh hám dùng người bà con, anh em quen
biết, hám dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, hám dùng những người

hợp tính với mình, tránh những người không hợp ý mình.
Bác căn dặn: “Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một
cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho người cán bộ khỏi bị bỏ rơi.
Phải chiuk khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho
họ tiến bộ. Phải vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.
* Bác đã nêu rõ 4 tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ lãnh đạo:
- Những người đã tỏ ra rất trung thành, hăng hái trong công việc, trong lúc
chiến tranh.

17


- Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng, luôn
luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ
và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
- Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn
cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh
đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi
thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết thì kiên quyết, gan góc,
không sợ khó khăn.
- Những người luôn giữ đúng kỷ luật.
Đó là khuôn khổ lựa chọn cán bộ lãnh đạo, chúng ta phải theo đúng.
Trong công tác cán bộ, Người luôn luôn coi trọng cả đức và tài của người cán
bộ. Người nói: “Có tài phải có đức. Có tài mà không có đức, tham ô, hủ hoá có
hại cho nước. Có đức không có tài như “Ông bụt” ngồi trong chùa không giúp
ích gì được cho ai”. Trong công tác cán bộ, Bác chỉ rõ những khuyết điểm cần
phải sửa: “Có những nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng
không phải làm được việc, không ra tranh đấu. Mà những đồng chí làm việc tốt
mà nói thông thạo, nhưng rất trung thành, hăng hái, rất gần gủi quần chúng, thì
bị dìm xuống. Chúng ta phải sửa chữa ngay những khuyết điểm đó”. Bác còn chỉ

rõ: Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, phải làm sao họ yên tâm công tác, hứng thú
trong công việc. Muốn thế, người lãnh đạo phải làm sao cho cán bộ “Cả gan
nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan phụ trách, cả gan làm việc”. Người căn dặn:
Người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải có thái độ và cách làm việc thật
sự dân chủ, để mọi người xung quanh mạnh dạn, thắng thắn nói những ưu,
khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thật sự dân chủ, ý kiến của cán bộ được
sự tôn trọng, thì khối đại đoàn kết nội bộ được củng cố, những sáng kiến được
nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp.
Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với
nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những
sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người
18


khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì
những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Người cho rằng: Điều
mấu chốt trong cách lãnh đạo là làm sao cho cấp dưới có tinh thần chủ động,
sáng tạo trong công việc, có tinh thần trách nhiệm cao, dám tìm tòi, suy nghĩ và
dám quyết định.
Bác căn dặn: “Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, cần phải chỉ rõ ràng, sắp
đặt đầy đủ”. Vạch ra những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra. Những
vấn đề đã được quyết định rồi giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm.
Cũng như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi, thì Tổng
tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Thà để cho các cấp chỉ huy
có quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp
trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ lệnh, sinh
ra ỷ lại, mất hết sáng kiến.
Bác còn chỉ rõ: “Muốn chống lệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết
các Nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không, muốn biết ai ra
sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát, kiểm soát

khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết
điểm nhất định mới bớt đi”.
Kiểm tra, kiểm soát có tác dụng đánh giá không ngừng những hoạt động
của các cơ quan, mà còn đánh giá cả những chủ trương, chính sách, quyết định
đã đề ra.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trên đây, Đảng ta luôn quan tâm đến
công tác cán bộ. Đến Đại hội Đảng lần thứ X, trong phần báo cáo về công tác
xây dựng Đảng, Đảng ta đã nêu lên những nội dung, phương hướng tiếp tục
“Đổi mới công tác cán bộ” như sau:
- “Mục tiêu chúng ta là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, lãng
phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi
19


mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết hợp tác, ý thức
tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó
với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải
đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu phù hợp”.
- “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước
hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các
ngành của hệ thống chính trị. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ
nữm cán bộ dân tộc thiểu số, các bộ xuất thân từ công nhânm con em những gia
đình có công với cách mạng ”.
- “Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời trách nhiêmh của các tổ chức
trong hệ thống chính trị và chịu trách nhiệm về công tác tổ chưc cán bộ theo
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách nhiệm
của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đúng đầu

trong công tác cán bộ. Các chính sách, quy chế tôn vinh những người có công,
bố trí sử dụng đúng những người có năng lực, sáng tạo, có sáng kiến, có ý
tưởng mới”.
- “Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong
công tác cán bộ”.
- “Thực hiện tốt các cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quản lý,
giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm”.
3. Thực trạng công tác lãnh đạo tại cơ quan
Bộ máy hoạt động của Văn phòng gồm 01 Chánh Văn phòng, 02 Phó
Chánh Văn phòng, và cán bộ chuyên viên được phân công phụ trách từng lĩnh
vực cụ thể, hoạt động của cán bộ chuyên viên luôn gắn với nhiệm vụ chính trị và
chương trình công tác đề ra. Các quan hệ công tác với các ngành, các địa
phương và cấp trên để triển khai thực hiện nhiệm vụ đều tôn trọng các nguyên
20


tắc tập trung dân chủ, bàn bạc thảo luận nhất trí, luôn tôn trọng quy chế dân chủ
trong cơ quan, công khai minh bạch tài chính, thực hành tiết kiệm, quản lý tốt tài
sản của cơ quan.
3.1. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị giao
Với nhiệm vụ được giao hết sức nặng nề vừa làm tham mưu cho Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Thường vụ lãnh đạo thực hiện các
nhiệm vụ phát triển KT-XH, QP-AN. Xây dựng chính quyền, đoàn thể, xây
dựng Đảng trên phạm vi toàn huyện, khối lượng công việc nhiều, khó khăn
không ít. Lãnh đạo Văn phòng đã phân công nhiệm vụ cho từng chuyên viên,
phụ trách theo dõi từng lĩnh vực cụ thể và tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực
hiện, vừa lãnh đạo tốt chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng cấp uỷ cấp huyện.
Đã có nhiều cố gắng trong việc chủ động tham mưu xây dựng và triển khai thực
hiện có kết quả chương trình công tác hoạt động toàn khoá, chương trình công
tác hằng năm, quý, tháng, tuần cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ đảm bảo sự

lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, cân đối của cấp uỷ.
Trong lãnh đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ Văn phòng cấp uỷ, đội
ngũ tuy có mỏng, chưa kinh qua thực tiễn nhiều nhưng các đồng chí đã có cố
gắng hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn được phân công. Lãnh đạo Văn phòng
đã mối quan hệ làm việc thường xuyên với các cơ quan có liên quan trong việc
tập hợp thông tin, báo cáo, phối hợp chuẩn bị có chất lượng, đúng thời gian các
đề án, kế hoạch, Chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương khóa X. Qua đó đã giúp cho cấp uỷ, Ban Thường vụ và
Thường trực chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm các nội dung quan trọng nhằm
tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi trong nông nghiệp,
đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ, phát triển cơ sở
hạ tầng, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế
nông nghiệp và nông thôn, củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở,
thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, ứng dụng các tiến bộ khoa học
21


kỹ thuật công nghệ, thông tin, đẩy nhanh các tiến độ xây dựng các công trình
trọng điểm.
Lãnh đạo Văn phòng tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc
họp, phục vụ tốt các cuộc Hội nghị cho Ban Chấp hành – Ban Thường vụ phục
vụ cho lãnh đạo đi công tác, tiếp khách chu đáo, các chế độ chính sách, lương
chi cho cán bộ kịp thời. Công tác tài chính Đảng không chỉ là công tác chuyên
môn nghiệp vụ mà còn là một bộ phận quan trọng của công tác Xây dựng Đảng
Hoạt động của công tác Văn thư Lưu trữ, được Lãnh đạo Văn phòng chỉ
đạo quản lý chặt chẽ, công tác xây dựng danh mục, lập hồ sơ lưu trữ được đầy
đủ, chế độ làm biên bản và quản lý biên bản các Hội nghị Ban Chấp hành –Ban
Thường vụ và Thường trực Thường vụ được thực hiện nghiêm túc, có chất
lượng, đã thực hiện tốt pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước trong cơ quan.
Công tác quản trị mạng cũng đáp ứng được nhiệm vụ được giao cho

Thường trực và các Ban Đảng.
* Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế nhất định, nhất là vấn đề công
tác cán bộ cán bộ lãnh đạo.
- Một số cán bộ không chịu khó học tập để nâng cao trình độ cho phù hợp
với yêu cầu mới của công việc, an phận, không cầu tiến.
- Việc đề bạt bố trí cán bộ vẫn theo kiểu “Sống lâu lên lão làng”, chưa
mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ, có năng lực.
- Vẫn còn tình trạng người làm không hết việc, còn người thì không biết
làm gì cho hết thời gian.
- Tổ chức bộ máy chưa thật sự tinh gọn, cán bộ còn kiêm nhiệm nhiều
việc, dẫn đến hiệu quả chưa cao.
- Lãnh đạo có lúc chưa quyết đoán làm cho người lãnh đạo chưa thật sự
có uy quyền đối với cấp dưới.

22


- Việc nắm bắt thông tin, tổng hợp tình hình để đề xuất cho Thường trực,
Ban Thường vụ giải quyết một số tình hình xảy ra ở địa phương còn chậm, chưa
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nặng về công tác chuyên môn. Lãnh đạo có lúc có
nơi thiếu sự bàn bạc thống nhất cao.

23


PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ – PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ
Lãnh đạo là quá trình tác động và gây ảnh hưởng đến người khác làm cho

nhân viên tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ
chức. Vì lãnh đạo hiệu quả được xem là hết sức quan trọng đối với việc thành
đạt mục tiêu của tổ chức. Do vậy, để nâng cao hiệu quả trong quản lý, đòi hỏi
người lãnh đạo cần áp dụng một số nhân tố về tâm lý và phong cách lãnh đạo
như sau:
1. Nhân tố tạo khả năng được ưa thích đưa ra nhiều thông tin trọng
yếu, lời khuyên.
+ Thiếu thân thiện là một điểm không tốt. Mỗi lần bạn không thân thiện
với ai đó, bạn đã trãi qua một thất bại trong việc kiểm soát bản thân. Do đó, dù ở
cương vị nào đi chăng nữa chúng ta phải đối xử thân thiện với mọi người.
+ Quản lý con người, chứ không phải quản lý đồ vật và thư điện tử. Hãy
ghi nhớ rằng các kênh thông tin kỹ thuật số, thư điện tử, là những hình thức
không thiện cảm nhất trong giao tiếp. Các hình thức này đưa ra ít gợi ý nhất,
giao tiếp ít cảm xúc nhất và tạo ra chất lượng các mối liên hệ kém nhất.
2. Người lãnh đạo đất nước thời kỳ đổi mới phải có các điều kiện tiên
quyết
- Người lãnh đạo phải có Tâm, biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên
quyền lợi của bản thân, biết hy sinh vì đất nước, vì nhân dân. Điều này rất quan
trọng.
- Yếu tố quan trọng của người lãnh đạo là sự sáng suốt để có thể phát hiện
và hiểu các quy luật phát triển và điều chỉnh mọi quyết định cho phù hợp với
24


thực tiễn. Người lãnh đạo phải có năng lực cảm nhận, phát hiện và sáng tạo
những quy luật biến động và bất trắc của cuộc sống, chứ không phải theo những
khuôn phép của quá khứ.
- Phải có nhận thức về trách nhiệm và phương pháp lãnh đạo mới. Biết
mềm dẻo để phù hợp với sự phát triển và đòi hỏi cải cách luôn xuất hiện trong
đời sống xã hội. Nhu cầu đổi mới và cải cách của xã hội nào cũng như nhau là

để đến một xã hội, một thế giới phát triển bền vững, họ phải hiểu được bản thân
sự phát triển bền vững, phải dựa trên nhận thức của từng người và sự đồng thuận
của cả xã hội.
- Nhà lãnh đạo chính trị cần giải quyết được các vấn đề:
+ Xác định được rõ ràng địa vị của Việt Nam trong tiến trình phát triển thế
giới.
+ Biết cảm nhận và xác định các yếu tố, điều kiện để bảo vệ sự an toàn
của đất nước, của nhân dân.
+ Xây dựng một hệ tư tưởng, triết lý về kinh tế, quân sự Việt Nam.
+ Xây dựng chương trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá.
+ Xây dựng đội ngũ trí thức trong xã hội Việt Nam và thừa nhận các giá
trị phương Tây và văn hoá phương Đông.
- Nhà lãnh đạo phải có đức dũng cảm vì người lãnh đạo là linh hồn của
nhân dân, chỗ dựa của nhân dân, là người cầm lái của con tàu đất nước đưa dân
tộc đến con đường hạnh phúc. Do đó người lãnh đạo phải định được tư tưởng
của mình như Napoleon Bonapart đã xác định rằng “Ta có thể mất tiền, vì như
vậy là không mất gì cả. Ta có thể mất niềm tin, vì như vậy mới là mất một nửa.
Nhưng nếu mất lòng dũng cảm, điều đó có nghĩa là mất tất cả”. Một người lãnh
đạo như một vị tướng phải là một người dũng cảm.
Lịch sử nước ta ở nửa thế kỷ trước có Hồ Chí Minh đã lãnh đạo đất nước
và nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Bước sang
25


×