Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.99 KB, 24 trang )

Xử lý hành vi xâm phạm quyền tác gia
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Sáng tạo của con người làm nên một xã hội hiện đại và cùng song hành
với một xã hội hiện đại, con người lại càng tỏ ra có sức sáng tạo không ngừng.
Con người luôn muốn chinh phục những giá trị mới, những giá trị thể hiện bản
ngã của bản thân, những giá trị chinh phục cảm xúc bằng con chữ, nghệ thuật và
đem đến những giá trị lĩnh hội mới bằng khoa học, kĩ thuật thông tin. Tất cả
những giá trị đó được thể hiện dưới hình thức và phương thức nhất định gọi là
tác phẩm. Nhưng khi một điều gì đó mang lại giá trị lớn, người ta thường có xu
hướng sao chép, sử dụng hay phân phối để đem lại lợi ích cho mình mà chưa
được phép của người tạo ra hay người có quyền hợp pháp, gây ảnh hưởng không
nhỏ về vật chất lẫn tinh thần cho những người có quyền hợp pháp đối với các tác
phẩm đó. Hiện nay, với sự ra đời của hàng loạt văn bản pháp luật, mà nổi bật
trong đó là Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 cùng một số nghị
định, thông tư hướng dẫn chi tiết các điều luật đã tạo ra một cơ chế bảo hộ tương
đối an toàn đối với các tác phẩm là sản phẩm của sự sáng tạo. Song sự bảo hộ
vẫn mang tính tương đối, những can thiệp trực tiếp đối với tác phẩm và xâm hại
đến quyền lợi của người có quyền ngày càng tăng lên về số lượng, tính chất và
quy mô.
Với những nhìn nhận đó, phần trình bày sau đây xin được trình bày về các
xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành, làm rõ nội dung xử lý và ưu nhược điểm của mỗi biện pháp được
dùng để xử lý, sau cùng tìm hiểu và làm rõ những tích cực mà pháp luật Việt
Nam đã kịp thời điều chỉnh vào trong thực tiễn, đưa ra hạn chế, tìm ra nguyên
nhân và đề xuất quan điểm cá nhân để hoàn thiện các chế định của pháp luật về
xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả cũng như kiến nghị nâng cao hiệu quả
bảo vệ quyền tác giả trên thực tế.
B/ NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1




1. Quyền tác gia
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 (Luật
SHTT): “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”
Như vậy, trước hết, ta có thể hiểu quyền tác giả là tập hợp các quyền mà
pháp luật thừa nhận cho tổ chức, cá nhân thông qua việc bảo hộ đối với tác
phẩm trong phạm vi nhất định. Trong đó, tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay
hình thức nào như bản vẽ thiết kế ngôi nhà, truyện ngắn, phim truyền hình,…
Tổ chức, cá nhân có quyền có thể là tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức
cá nhân nước ngoài; có thể là tác giả - người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm hoặc
chủ sở hữu quyền tác giả hợp pháp được quy định tại các điều từ Điều 37 đến
điều 43 Luật SHTT.
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm
quy định lần lượt tại Điều 19, Điều 20 Luật SHTT. Nếu như tác giả có đầy đủ
quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do mình tạo ra thì chủ sở hữu
quyền tác giả có thể có một, một số hoặc toàn bộ quyền tài sản.
2. Hành vi xâm phạm quyền tác gia
Không có một khái niệm chung nào chỉ rõ hành vi xâm phạm quyền tác
giả là gì? Nhưng sự xâm phạm được đề cập ở đây có thể hiểu là hành vi của
những người không có quyền đối với tác phẩm nhưng lại thực hiện các hành vi
tác động đến với tác phẩm có nội dung liên quan đến quyền tài sản, quyền nhân
thân của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được quy định tại Điều 19, Điều 20
Luật SHTT như đặt tên cho tác phẩm, phân phối, làm tác phẩm phái sinh,.. nhằm
mục đích kinh doanh, vụ lợi cá nhân.
Về điều này, tại khoản 2 Điều 20 Luật SHTT cũng nhấn mạnh: “ Các quyền
quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền
thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này”. Bởi

lẽ, tác phẩm là sự kết tinh của từ hoạt động lao động sáng tạo, đầu tư thời gian,
công sức và trí tuệ của tác giả và những người chủ sở hữu hợp pháp là những
người mà theo ý chí của tác giả hay nhà nước được thừa nhận hợp pháp các
quyền chính đáng với tác phẩm. Họ xứng đáng có quyền định đoạt đối với tác
2


phẩm của mình và ngược lại một người khác, một người không có quyền đối với
tác phẩm, vì lợi ích cá nhân của mình mà thực hiện một cách tự ý các quyền đó
hẳn nhiên là không được chấp nhận.
Để xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả thuộc trường hợp nào quy
định trong Luật SHTT Việt Nam, trước hết cần dựa vào những căn cứ nhất định
để xác định hành vi đó có đủ yếu tố để được xem là hành vi xâm phạm quyền
tác giả hay không.
2.1. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác gia
Căn cứ vào Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, chúng ta có các căn cứ để
bước đầu xác định một hành vi có xâm phạm quyền tác giả như sau:
Một là, Tác phẩm bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo
hộ quyền tác giả. Ở quền tác giả có một điểm đặc biệt là được phát sinh kể từ
khi tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định
mà không nhất thiết phải đăng ký. Như vậy, chỉ cần tác phẩm đó là do tác giả tạo
ra và thể hiện ở một hình thức nhất định thì việc tác động đến tác phẩm đã cần
phải cân nhắc đến yếu tố chủ thể có quyền và được xác định là dấu hiệu cơ bản
đầu tiên khi xem xét một hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Hai là, Có yếu tố xâm phạm trong tác phẩm bị xem xét. Sau khi xác định tác
phẩm đã thuộc diện được bảo hộ quyền tác giả, xác định yếu tố xâm phạm trong
tác phẩm bị xem xét được hiểu là việc đánh giá hành vi có thuộc hay không
thuộc một trong các dạng xâm phạm quyền tác giả sau: Bản sao tác phẩm được
tạo ra một cách trái phép; Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;
Tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền tác

giả; Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép; Sản phẩm có gắn
thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hoá trái phép,..
Ba là, Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền
cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26 Luật SHTT. Đây được xem là yếu tố
quan trọng nhất để xác định hành vi có xâm phạm đến quyền tác giả hay không.
Nếu người thực hiện chứng minh được mình là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
thì sự tác động đến tác phẩm là hợp pháp (không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội). Ngược lại nếu người thực hiện không phải là hai chủ
3


thể có quyền hợp pháp hay người được giao quyền, ủy quyền cũng không thuộc
diện được sử dụng tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép thì những hành
vi có liên quan đến tác phẩm như sao chép, làm tác phẩm phái sinh đã xâm
phạm đến quyền mà chỉ những người có quyền hợp pháp mới có thể thực hiện.
Bốn là, Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Chỉ áp dụng Luật SHTT
trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại
Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu
dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.
2.2. Các hành vi xâm phạm quyền tác gia cụ thể theo quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009
Điều 28 Luật SHTT quy định 16 trường hợp được xem là có hành vi xâm
phạm quyền tác giả. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, 16 trường hợp được
chia thành 3 nhóm chính, cụ thể như sau:
Một là, Xâm phạm quyền nhân thân không gắn liền với tài sản: Chiếm đoạt
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; mạo danh tác giả;
sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả; Cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền
dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm;

Hai là, Xâm phạm quyền nhân thân gắn với tài sản: công bố, phân phối tác
phẩm mà không được phép của tác giả; công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác
giả mà không được sự đồng ý của đồng tác giả đó.
Ba là, Xâm phạm quyền tài sản. Trừ trường hợp pháp luật cho phép, hành
vi xâm phạm là hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm gốc; Sử dụng tác phẩm mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi
vật chất khác; Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt
tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số
mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô
hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ
quyền tác giả đối với tác phẩm của mình;
Một trong số các hành vi xâm phạm, sao chép lậu là hành vi nghiêm trọng
và phổ biến nhất, bởi ra chúng tạo ra những bản sao tương tự như bản chính và

4


tạo nguồn lợi cho mình trên bản sao đó. Mặt khác, quyền quan trọng nhất trong
các quyền tác giả là quyền cho hay không người khác sử dụng tác phẩm của
mình. Chính vì vậy, mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không có sự đồng ý của
chủ thể quyền đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Xét về khía cạnh nhân
thân, người sao chép, ăn cắp thành quả lao động sáng tạo của người khác đã xúc
phạm đến uy tín của cá nhân, tổ chức. Xét về khía cạnh kinh tế, người sao chép
tác phẩm của người khác để kinh doanh không phải nộp thuế hay trả thù lao. Vì
vậy, họ đã được lợi bất chính từ thành quả lao động của người khác. Các hành vi
trên, một lần nữa được nhấn mạnh đã xâm phạm đến lợi ích chủ thể quyền,
những người trung gian (phát hành tác phẩm), người tiêu dùng và Nhà nước.
3. Xử lý hành vi xâm phạm quyền tác gia & Vai trò của xử lý hành vi xâm
phạm quyền tác gia

Pháp luật sở hữu trí tuệ được đặt ra nhằm điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình tạo ra, sử dụng và chuyển giao các sản phẩm
sáng tạo trí tuệ nói chung và các sản phẩm là đối tượng của quyền tác giả nói
riêng. Do đó bất cứ một hành vi nào xâm phạm đến quyền tác giả đều sẽ phải
chịu những chế tài xử lý thích đáng cho hành vi mà mình đã thực hiện. Xử lý
hành vi xâm phạm quyền tác giả, theo đó là việc cơ quan có nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp xử lý nhất định bao gồm hành chính, dân sự và
hình sự đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm quyền tác giả
nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi trái pháp luật, bảo vệ quyền lợi
của tác giả, chủ sở hữu hợp pháp quyền tác giả.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả, không chỉ gây thiệt hại cho tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa,
nghệ thuật của nước nhà và khả năng tiếp cận các tác phẩm của cộng đồng dân
cư. Xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện không chỉ
nhằm bảo vệ các quyền của chủ nhân sáng tạo hoặc chủ sở hữu tài sản trí tuệ,
mà cao hơn nữa là đảm bảo sự công bằng, thúc đấy hoạt động sáng tạo, tìm tòi
của con người, động viên hoạt động nghiên cứu, góp phần đảm bảo sự bình đẳng
dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nâng cao sự phát triển của xã hội; Đồng thời trừng phạt, điều chỉnh
5


hành vi vi phạm pháp luật về quyền tác giả nhằm tránh gây thiệt hại cho người
khác, nâng cao ý thức của người dân về quyền tác giả tại Việt Nam.
Riêng đối với từng biện pháp, nếu như việc áp dụng biện pháp này sẽ phản
ánh được bản chất của quyền tài sản, quyền nhân thân trong quan hệ dân sự, có
tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa các vi phạm đã và tiếp tục xảy ra, bù đắp phần
nào thiệt hại mà chủ sở hữu phải gánh chịu. Xử lý bằng biện pháp hành chính
thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với trật tự xã hội. Trong khi đó, biện pháp
hình sự trong bảo vệ quyền tác giả nhằm trừng trị, răn đe người phạm tội, giáo

dục ý thức cộng đồng. Tùy theo từng mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm
mà có chế tài xử lý phù hợp.
II. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH (8tr)
1. Cơ sở pháp lý
 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 hiện đang là luật chuyên
ngành hiện hành về quyền sở hữu trí tuệ. Trong phần thứ năm về Bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, Luật SHTT đề cập đến 3 biện pháp có thể áp dụng để xử lý tổ
chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, trí tuệ tổ chức, cá nhân khác.
 Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền
tác giả, quyền liên quan. hướng dẫn chi tiết hơn so với Luật SHTT.
 Nghị định 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước
về sở hữu trí tuệ
 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017; Bộ luật tố tụng dân sự 2015
2. Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền tác gia theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành
2.1. Biện pháp hành chính
2.1.1 Thẩm quyền
Khoản 3 Điều 200 Luật SHTT quy định việc áp dụng biện pháp hành chính
thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải
quan, Uỷ ban nhân dân các cấp. Hướng dẫn về vấn đề này, từ điều 37 đến điều
40 Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định phạm vi thẩm quyền cụ thể mà những

6


người có thẩm quyền được thực hiện, đồng thời bổ sung thẩm quyền của Bộ đội
biên phòng, Cảnh sát biển. Chẳng hạn:
“Điều 37. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các

cấp
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền:
a) Phạt tiền đến 5.000.000 đồng;
b) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt quy định tại
Điểm a Khoản này;
c) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 28 của Luật Xử
lý vi phạm hành chính.”

2.1.2. Nội dung
Điểm a khoản 1 Điều 211 Luật SHTT quy định:
“ 1. Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
sau đây bị xử phạt hành chính:
a) Thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở
hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;”

Không phải là một quy định cho hành vi cụ thể, việc xác định xử phạt hành
chính cho người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu được
xem là cơ sở để xác định những hành vi phải chịu các chế tài xử lý của pháp
luật. Đó là: khi hành vi gây thiệt hại thì phải bị xử lý.
Về hình thức xử lý, Điều 214 quy định hai hình thức xử phạt chính là cảnh
cáo và phạt tiền. Tuy nhiên trong hầu hết các hình phạt cụ thể, chúng ta sẽ thấy
hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu với các mức phạt khác nhau. Song song với
hình phạt chính, tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, người xâm phạm còn có
thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung như tịch thu sản phẩm giả mạo,
đình chỉ hoạt động kinh doanh,… Đồng thời ngoài các hình thức xử phạt, các
chủ thể có thẩm quyền còn có thể áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục
hậu quả linh động với hậu quả trên thực tiễn như buộc sửa lại đúng tên tác giả,
tên tác phẩm; Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm; Buộc hoàn trả cho chủ sở hữu
quyền tác giả tiền nhuận bút,..thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Về mức hình phạt. Chúng ta có hai loại hình phạt, nếu như việc xử lý

bằng cảnh cáo được áp dụng tương tự với mỗi chủ thể thì hình phạt tiền đối với
mỗi loại hành vi, mỗi chủ thể là khác nhau. Một cách khái quát nhất, mức phạt
tiền tối đa đối với cá nhân là 250.000.000 đồng, đối với tổ chức là 500.000.000
7


đồng và tương tự như vậy đối với cùng một hành vi vi phạm, khung phạt tiền đối
với tổ chức gấp 02 lần khung phạt tiền đối với cá nhân. Bởi lẽ, một tổ chức
thường có khả năng chịu trách nhiệm bằng một khoản tiền lớn hơn và về bản
chất thì hậu quả mà tổ chức gây ra sẽ thường lớn hơn cá nhân trên thực tế.
Về hình thức và mức hình phạt cụ thể đối với mỗi hành vi. Tại Nghị định
131/2013/NĐ-CP đã cho chúng ta một loạt hình thức và mức xử phạt cụ thể,
biện pháp khắc phục hậu quả tương ứng với từng hành vi vi phạm tương ứng với
Điều 5, 8, 9, từ điều 10 đến điều 20. Có thể xét đến một vài hành vi điển hình.
Đối với hành vi xâm phạm quyền làm tác phẩm phái sinh, Điều 19 quy định hình
thức phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Kèm theo hình phạt là
biện pháp khắc phục: Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện
tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số. Hoặc đối với hành vi xâm phạm
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm thì nếu như tự ý sửa chữa, cắt xén tác
phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả sẽ chịu mức phạt từ 3
triệu đến 5 triệu đồng; hành vi xuyên tạc tác phẩm mang tính chất nghiêm trọng
hơn từ 5 triệu đến 10 triệu đồng kèm theo một số biện pháp khắc phục phù hợp.
 Như vậy, khi phát hiện có hành vi xâm phạm quyền tác giả, những chủ thể
có thẩm quyền căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ gây thiệt hại của hành vi
để áp dụng các điều, các khoản, mức tiền cụ thể và các biện pháp khắc phục hậu
quả phù hợp với thực tiễn.
Bên cạnh các hành vi xâm phạm được quy định trong Nghị định
131/2013/NĐ-CP, những hành vi vi phạm quyền tác giả khác quy định tại Điều
28 Luật SHTT nhưng chưa được đề cập tại Nghị định 131/2013/NĐ-CP cũng sẽ
được áp dụng theo quy định tại các Nghị định khác của Chính phủ về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước có liên quan.
Về biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hình chính. Nếu như việc
xử lý vi phạm hành chính thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với trật tự kinh
tế, xã hội thì ở trong đó, tổ chức, cá nhân vẫn có thể chủ động thực hiện sự quản
lý của mình thông qua việc quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp nhất
định tại khoản 1 Điều 215 Luật STT như khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả
8


có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiệm trọng cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội,..
Các biện pháp ngăn chặn có thể là tạm giữ người, tạm giữ hàng hóa, tang vật,
khám người,…Cũng tương tự như biện pháp ngăn chặn như ngành luật hình sự,
các biện pháp ngăn chặn nên nhớ chỉ được áp dụng khi có căn cứ để xác định có
trường hợp thuộc một trong 3 trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 125.
2.2. Biện pháp hình sự
2.2.1 Thẩm quyền
Khi đã áp dụng biện pháp hình sự, hành vi xâm phạm thể hiện tính nguy hiểm
đáng kể cho xã hội. Giải quyết theo trình tự, thủ tục của một vụ án hình sự,
chúng ta có: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Ngoài ra,
trong trường hợp cần thiết, tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Nội dung
Luật SHTT quy định về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý
hình sự tại duy nhất một điều 212, quy định cụ thể như sau: “ Cá nhân thực
hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự”.
Như vậy khi xét thấy hành vi của cá nhân có đủ yếu tố của một cấu thành tội
phạm được quy định trong BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Truy cứu
trách nhiệm hình sự, theo đó là việc áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự qua

các giai đoạn từ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến điều tra, truy tố và xét xử để
buộc người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là
tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi ấy, tức là phải chịu hình phạt theo
quy định của Bộ luật hình sự.
Quay trở lại với biện pháp xử lý hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền
tác giả, điều luật duy nhất của Luật SHTT dường như đang dựa trên tinh thần
mới của pháp luật dân sự là những vấn đề đã được luật chuyên ngành quy định
thì không quy định nữa. Về điều này, Điều 225 BLHS 2015 quy định về tội xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan như sau:
“ Điều 225. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý
thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới
9


300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ
100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ
100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi
hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000
đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến
05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
………… .”

Nhìn vào điều luật, có thể thấy rõ dấu hiệu để phân biệt khi nào cần áp dụng
biện pháp hình sự, biện pháp hành chính. Cùng có hành vi sao chép tác phẩm,
cùng phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm tuy nhiên chỉ khi hành vi đó là
cố ý và thu lợi bất chính trên 50 triệu đồng, gây thiệt hại lớn hơn 100 triệu
đồng,.. thì mới áp dụng biện pháp hình sự. Đồng thời khi có thêm các tình tiết
định khung tăng nặng như phạm tội có tổ chức, phạm tội 02 lần trở lên,.. thì loại
hình phạt và mức hình phạt cũng được tăng lên. Ngược lại, nếu hành vi chỉ được
thực hiện với lỗi vô ý hay thiệt hại gây ra chưa lên đến 50 triệu đồng thì cũng
chưa bị xử lý bằng biện pháp hình sự mà lúc này sẽ tiến hành xử lý biện pháp
dân sự hoặc hành chính. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể phải chịu thêm các
hình phạt bổ sung như phạt tiền nếu như áp dụng hình phạt chính là phạt tiền;
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề. Điều này tỏ ra là phù hợp bởi ngoài
việc chịu hình phạt như một bản án thích đáng cho hành vi mình gây ra thì phạt
tiền là cách khắc phục hậu quả hữu hiệu nhất cho nguồn lợi bất chính nhờ hành
vi xâm phạm quyền tác giả của người phạm tội; đồng thời cấm đảm nhiệm chức
vụ, hành nghề để tránh xa môi trường cũ, dễ tái phạm.
Thêm vào đó, với các mức hình phạt được quy định tại Điều 225, căn cứ
vào Điều 9 BLHS, đã thể hiện quan điểm của các nhà làm luật đối với hành vi
10


xâm phạm đến quyền tác giả là tội phạm ít nghiêm trọng, tức là mức độ gây
nguy hiểm cho xã hội không quá lớn. Với đánh giá này, các nhà làm luật đang
dựa trên thực tế ở Việt Nam nhiều hơn khi từ trước đến nay chưa có một trường

hợp nào ở Việt Nam xử lý hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả cũng
như chưa có trường hợp nào sự xâm phạm mang đến một thiệt lại lớn. Tuy nhiên
với tình mạng hành vi xâm phạm quyền tác giả ngày một tăng về số lượng và
chất lượng thì việc đánh giá tội xâm phạm quyền tác giả là tội ít nghiệm trong
cần phải có những sự cân nhắc kĩ lưỡng giữ thực tế và dự đoán tương lai.
 Cấu thành tội phạm của của tội xâm phạm quyền tác giả: Từ những phân
tích trên, chúng ta có thể khái quát cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quyền
tác giả như sau:
- Khách thể: Tội phạm này xâm phạm đến quyền tác giả được pháp luật bảo vệ.
- Chủ thể: Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Mặt khách quan: Hai dấu hiệu bắt buộc: hành vi và hậu quả
* Hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt
Nam, dưới các dạng hành vi:
+ Hành vi sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình (như dùng tác phẩm
là cuốn sách đã được xuất bản phôtô ra thành nhiều bản khác…).
Trong đó, sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc
bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả
việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử.
+ Hành vi phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm,
bản sao bản ghi hình (như phân phối đĩa chương trình ca nhạc đã được in sao từ
đĩa chương trình ca nhạc đã được công bố ra công chúng).
* Hậu quả là dấu hiệu cấu thành tội phạm bắt buộc của tội này. Hành vi xâm
phạm đến quyền tác giả, quyền liên quan phải gây ra những thiệt hại nhất định
tức là ở một quy mô nhất định theo quy định của Luật thì mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Đồng thời, giữa hành vi và hậu quả phải có mối quan hệ nhân quả với nhau,
tức là hậu quả gây thiệt hại phải do hành vi của chính người đó gây ra.
- Mặt chủ quan: Cá nhân thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp
Như vậy, một hành vi có đủ các dấu hiệu thõa mãn cấu thành tội phạm này
thì sẽ bị truy tố về tội Xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.


11


So với BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2009, BLHS 2015 đã có những điểm
mới tiến bộ hơn, đầu tiên phải kể đến là việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ
xảy ra với lỗi cố ý, tiếp đó là sự cụ thể hóa hậu quả thay vì cụm từ “Quy mô
thương mại” như trước đâu, tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3
năm, tăng mức phạt tiền, bổ sung thêm các trường hợp trở thành tình tiết định
khung tăng nặng tại khoản 2. Điều này đã thể hiện sự quan tâm của nhà làm luật
hơn đối với quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng ở Việt
Nam, cũng như có những đánh giá nhìn nhận khách quan dựa trên thực tiễn. Đặc
biệt, một điểm mới không thể không đề cập đến đó là hành vi xâm phạm quyền
tác giả của Pháp nhân thương mại. Chủ thể là Pháp nhân thương mại cũng là
một điểm mới nổi bật của BLHS 2015 và do vậy, tại thời điểm Luật SHTT được
sửa đổi lần cuối năm 2009, BLHS hiện hành vẫn chưa có quy định này và vì thế
vẫn chỉ đang dừng ở việc áp dụng đối với cá nhân. Do đó với sự thay đổi của
BLHDS 2015, cần có thêm nghị định mới quy định hoặc sự thay đổi kịp thời
Luật SHTT để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật về sau.
Ngoài ra nếu như trước đây, tội xâm phạm quyền tác giả chỉ được truy cứu
trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu thì hiện nay cơ quan tiến hành tố tụng có thể
truy cứu khi có tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố mà không cần có yêu cầu của
chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm.
2.3. Biện pháp dân sự
2.3.1. Thẩm quyền
Tương tự như biện pháp hình sự, việc áp dụng biện pháp dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Trong BLTTDS 2015, nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần túy
là tranh chấp dân sự thì thuộc thẩm quyền tòa án nhân dân cấp huyện; nếu tranh
chấp sở hữu trí tuệ là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng sở
hữu trí tuệ ở nước ngoài hoặc một số tranh chấp sở hữu trí tuệ giữa các cá nhân,

tổ chức có cùng mục đích lợi nhuận thì được coi là tranh chấp thương mại, kinh
doanh và thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời như: thu giữ, kê biên, niêm phong,.. hàng hóa khi nghi ngờ hàng hóa xâm

12


phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 207 Luật SHTT và Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015.
Ví dụ: Trong hai ngày 11 và 12.8.2015, Cục An ninh Văn hóa Thông tin Truyền
thông (A87), Bộ Công an đã tổ chức kiểm tra đột xuất kho sách của Công ty Cổ phần
đầu tư và tư vấn giáo dục Văn Hiến tại phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, Hà Nội
và phát hiện Công ty này tàng trữ và chuẩn bị đưa ra thị trường hàng chục ngàn cuốn
sách lậu của nhiều nhà xuất bản (không hợp pháp, không có hóa đơn chứng từ chứng
minh nguồn gốc sách). Trong đó, số lượng nhiều nhất là 50.000 cuốn thuộc về Nhà
Xuất bản Giáo dục Việt Nam.

2.3.2. Nội dung
Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu
của chủ sở hữu quyền tác giả, tác giả hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do
hành vi xâm phạm quyền tác giả gây ra, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử
lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng
biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp dân sự thuân
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Các tranh chấp sở hữu trí tuệ là loại tranh chấp dân sự, bởi vậy về nguyên
tắc tranh chấp sở hữu trí tuệ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự do Bộ
luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên,
xuất phát từ nhiều đặc thù của vi phạm, tranh chấp sở hữu trí tuệ, Luật SHTT
quy định nhiều nội dung cụ thể hơn so với BLTTDS nhằm giải quyết tốt loại vi

phạm này với những quy định về các biện pháp dân sự, quyền và nghĩa vụ
chứng minh của đương sự, nguyên tắc xác định thiệt hại, …
Theo quy đinh tại Điều 202 Luật SHTT, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp
dân sự sau để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:
Một là, Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm. Đây được xem là biện pháp cơ
bản và đầu tiên để xử lý chủ thể có hành vi xâm phạm, cũng như ngăn chặn kịp
thời hậu quả mà hành vi xâm hại gây ra.
Hai là, Buộc xin lỗi, cải chính công khai. Việc sao chép, phân phối một
tác phẩm hay mạo danh tác giả đều hướng tới công chúng và nhằm mục đích vụ
lợi, do đó chính người thực hiện hành vi phải đứng ra xin lỗi và cải chính công
khai để mọi người được biết và hiểu đâu là tác phẩm gốc của tác giả.

13


Ba là, Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Các nghĩa vụ dân sự có thể phát
sinh từ hợp đồng, từ việc chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật hoặc gây
thiệt hại do hành vi trái pháp luật,.. được quy định trong BLDS 2015. Khi đã
tham gia vào một trong các quan hệ nghĩa vụ được pháp luật quy định thì chủ
thể buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bốn là, Buộc bồi thường thiệt hại. Việc xâm phạm đến quyền tác giả
thông qua sử dụng, phân phối, cắt xén, sao chép tác phẩm,.. mà không được tác
giả cho phép gây nên thiệt hại lớn cho chủ thể có quyền. Cụ thể Điều 204 Luật
SHTT quy định thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất(tổn thất về tài sản, chi
phí hợp lý để khắc phục thiệt hại..); Thiệt hại về tinh thần gây ra cho tác giả của
tác phẩm văn học (tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín…)
Về mức bồi thường thiệt hại cụ thể, Điều 205 Luật SHTT chỉ rõ trường hợp
nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây
thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi
thường theo các căn cứ nhất định, chẳng hạn: tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền

cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính
vào tổng thiệt hại vật chất. Trong trường hợp không thể xác định được cụ thể thì

mức bồi thường do Toà án ấn định nhưng không quá 500 triệu đồng. Trường hợp
nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền tác giả đã gây thiệt hại
về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường
trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Ngoài chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tác
giả phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Năm là, Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không
nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương
tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền
của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Để có thể hướng tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình, không những bị đơn cần
phải đưa ra bằng chứng để minh oan, giảm nhẹ trách nhiệm mà phía đương sự

14


khi đưa ra yêu cầu cũng cần phải đưa ra những bằng chứng cho thấy mình có
quyền yêu cầu và yêu cầu của mình đối với bên bị đơn là chính đáng. Các bằng
chứng mà nguyên đơn dùng để chứng minh mình là chủ thể quyền tác giả như
Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả; bản trích lục Sổ đăng ký quốc
gia về quyền tác giả..; Bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong
trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.
Ngoài ra, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ cũng có quyền yêu cầu Toà án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong những trường hợp nhất định được quy
định cụ thể tại Điều 206, 207, 208, 209, 210 Luật SHTT.

III. ƯU ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ
Biện pháp

Hành chính

Dân sự

Ưu điểm

– Thủ tục đơn giản, tiết kiệm
được thời gian và chi phí cho
chủ thể bị xâm phạm khi thực
hiện yêu cầu.
– Sử dụng biện pháp hiệu quả
này sẽ chấm dứt được ngay
hành vi xâm phạm của chủ thể
xâm phạm

Nhược điểm
– Chủ thể bị xâm phạm sẽ không có được bồi
thường thiệt hại, muốn được bồi thường phải
khởi kiện dân sự đối với chủ thể xâm phạm.
– Không bảo mật được thông tin; Chỉ có tác
dụng giáo dục, răn đe quy mô nhỏ
– Hình thức phạt tiền nhẹ và không mang tính
răn đe cao

Chủ thể bị xâm phạm nhờ đến thẩm quyền
của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý
thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các

– Đảm bảo lợi ích của người
tiêu dùng, đảm bảo trật tự kinh cấp. Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan
tế, xã hội một cách lành mạnh. này có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định
của pháp luật.
– Thể hiện bản chất dân sự của
quan hệ liên quan đến SHTT.
– Trình tự thủ tục phức tạp, tốn thời gian và
– Là biện pháp xử lý triệt để
hành vi xâm phạm, khắc phục chi phí cho việc yêu cầu thực hiện biện pháp.
được những thiệt hại về vật chất – Chủ thể bị xâm phạm phải thực hiện nghĩa
vụ chứng minh sự xâm phạm quyền SHTT
và tinh thần, đặc biệt là đòi
của chủ thể xâm phạm. Trong một số trường
được bồi thường thiệt hại.
hợp thì việc chứng minh này là không hề đơn
– Có thể áp dụng đồng thời cả giản.
biện pháp hành chính hoặc hình
sự

15


Hình sự

– Xử lý một cách triệt để hành
vi xâm phạm của chủ thể xâm
phạm.
– Tác dụng giáo dục, răn đe
mạnh mẽ nhất. Tránh tình trạng

xử lý rồi mà vẫn cố tình tái
phạm.

– Trình tự thủ tục rườm rà, phức tạp. Tốn
nhiều thời gian và chi phí.
– Không bảo mật được thông tin vì có sự
tham gia của khá nhiều bên.

Mỗi biện pháp lại có điểm mạnh và yếu của mình nên phải tùy vào mục đích
của chủ thể bị xâm phạm để lựa chọn. Ví dụ, nếu chỉ cần đòi bồi thường thiệt hại
thì nên sử dụng biện pháp dân sự; nếu muốn giữ được giải quyết triệt để, tránh
tái phạm thì có thể cân nhắc đến sử dụng biện pháp hình sự…
Và trong nhiều trường hợp, chủ thể bị xâm phạm có thể sử dụng đồng thời
một vài biện pháp như ban đầu sử dụng biện pháp tự bảo vệ, nếu không thấy
hiệu quả thì sử dụng đến biện pháp hình sự và hành chính; và nếu muốn đòi bồi
thường thì chủ thể đó vẫn có thể tiếp tục sử dụng biện pháp dân sự.
IV. TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
Thời gian vừa qua, dư luận xôn xao trước thông tin bộ phim Cô Ba Sài Gòn
bị livestream tại một rạp chiếu phim ở Vũng Tàu. Cô Ba Sài Gòn là một bộ phim
điện ảnh về đề tài thời trang do Trần Bửu Lộc và Kay Nguyễn làm đạo diễn.
Ngay sau khi công chiếu, vào ngày 13/11 một fanpage trên Facebook đã quay
lén toàn bộ nội dung phim. Đoạn livestream ngay sau khi phát trực tiếp đã thu
hút hàng nghìn người xem. Sự việc được phát hiện và ngay sau đó đã tìm ra đối
tượng quay lén là một thanh niên sinh năm 1998 sống tại Vũng Tàu.
Dưới góc độ pháp lý, hành vi livestream của thanh niên này đã vi phạm luật
sở hữu trí tuệ, cụ thể là khoản 10 điều 28 Luật sở hữu trí tuệ về hành vi xâm
phạm quyền tác giả, theo đó nam thanh niên này đã có hành vi truyền đạt tác
phẩm đến công chúng bằng mạng thông tin điện tử mà không được phép của chủ
sở hữu quyền tác giả là Ngô Thanh Vân. Hành vi này được quy định tại Điều 17
Nghị định 131/NĐ-CP năm 2013 của Chính phủ, có mức phạt hành chính từ 15

đến 30 triệu đồng. Theo đó, ngày 28/12 Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho
biết đã ký quyết định xử phạt hành chính đối với N.V.Tr. (19 tuổi, ngụ Bà Rịa Vũng Tàu) với số tiền 15 triệu đồng về hành vi livestream phim Cô Ba Sài Gòn
16


trên mạng xã hội Facebook. Ngoài ra, pháp luật quy định người này phải dỡ bỏ
bản sao bản ghi âm, ghi hình dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và
kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Đây là mức thấp nhất so với
hành vi mà thanh niên này gây ra, mang tính cảnh cáo, răn đe đối với N.V.Tr
cũng như đối với các hành vi xâm hại bản quyền điện ảnh đã và đang manh nha
diễn ra.
Từ vụ việc trên cho thấy những hạn chế trong nhận thức của thanh niên hiện
nay về sở hữu trí tuệ. Việc trang bị những kiến thức về sở hữu trí tuệ trong thanh
niên còn chưa được chú trọng quan tâm. Điều này đã vô tình gây nên những hậu
quả đáng tiếc. Việc phổ biến, nâng cao kiến thức về sở hữu trí tuệ cho thanh niên
là vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và xây dựng nền kinh
tế tri thức như hiện nay.
IV. THỰC TRẠNG XỬ LÝ XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ, NGUYÊN
NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
1. Thực trạng xử lý xâm phạm quyền tác gia tại Việt Nam
1.1. Tích cực
Một là, cùng với những sửa đổi, bổ sung Luật SHTT 2005, cho đến nay
hàng loạt các nghị định, thông tư quy định chi tiết các vấn đề trong Luật SHTT
ra đời như mới nhất là Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan; NGHỊ ĐỊNH
131/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên
quan thay thế cho Nghị định số 47/2009/NĐ-CP và Nghị định số 109/2011/NĐ đã đáp

ứng phần nào yêu cầu xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm về quyền tác

giả, thể hiện quyết tâm cao của nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt động bảo hộ
quyền tác giả, tạo ra một cơ chế pháp lý rõ ràng hơn để các nhà làm luật có thể
áp dụng khi xử lý các trường hợp có tranh chấp.
Hai là, Các hệ thống tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả bao gồm: Trung
tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc, trung tâm quyền tác giả văn học,..đã được
thành lập và hoạt động rất có hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc tự bảo vệ
quyền, tạo niềm tin cho các văn sĩ, trí thức và nhà đầu tư trong các lĩnh vực này.

17


Bốn là, Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đã có những kế hoạch hợp
tác phòng chống, ngăn chặn việc xâm phạm quyền tác giả. Việc ráo riết kiểm tra,
xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền tác giả đã thu được nhiều
thành tựu khả quan: tình trạng băng đĩa lậu đã giảm hẳn, việc các nhà sản xuất
bản tự ý xuất bản các cuốn sách chưa mua bản quyền của tác giả đã bị hạn chế…
1.2. Hạn chế
Một là, Quyền tác giả đang bị xâm phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực
photocopy. Mặc dù pháp luật Việt Nam đã có các văn bản pháp luật để bảo vệ
quyền lợi cho tác giả, tuy nhiên hiện tượng các cá nhân, tập thể vô tình hoặc cố
ý lợi dụng những kẽ hở trong luật để chuộc lợi vẫn diễn ra phổ biến. Từ trước
đến nay, chúng ta hầu như chỉ để tâm đến người sao chép tác phẩm để sử dụng
mà quên đi rằng chính những cửa hàng kinh doanh dịch vụ photocopy mới là
những người vi phạm bản quyền tác giả một cách chuyên nghiệp. Song, từ trước
đến nay, ngoài những vụ xử phạt in ấn, sao chép giấy tờ giả, văn bằng giả thì hầu
như chúng ta chưa thấy một tổ chức, cá nhân nào kinh doanh dịch vụ photocopy
bị xử phạt về hành vi xâm phạm bản quyền tác giả.
Hai là, việc xử lý tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó
khăn và bất cập. Các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra ngày một gia tăng
nhiều hơn nhưng khó bị phát hiện và khi bị phát hiện thì thường chỉ bị xử lý

bằng các biện pháp dân sự hoặc hành chính.
Ba là, công tác đấu tranh phòng chống tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hiện còn
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quyền sở hữu trí tuệ một cách
hiệu quả trước các hành vi xâm phạm ngày một gia tăng và phức tạp, cũng như
trước các yêu cầu cấp thiết khi Việt Nam tham gia vào các điều ước quốc tế về
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế.
Bốn là, tình trạng vi phạm luật quyền tác giả và xâm phạm quyền tác giả
thường xảy ra ở các lĩnh vực sau: xuất bản; sản xuất, kinh doanh băng, đĩa; phần
mềm máy tính; biểu diễn nghệ thuật; âm nhạc; ngoài ra còn có một số lĩnh vực
như điện ảnh, hội họa với mức độ nghiêm trọng của tình trạng vi phạm quyền
tác giả ngày càng tăng. Thực tế, nhiều người buôn bán, nhiều cửa hàng băng đĩa
ở các thành phố lớn đều bán băng đĩa sao chép lậu, thậm chí tỷ lệ còn lớn hơn
băng đĩa có bản quyền.
18


Năm là, các vi phạm quyền tác giả chủ yếu được giải quyết bằng thủ tục
hành chính, ít được giải quyết tại Tòa án, trong khi ở các nước khác, tòa án mới
là cơ quan có quyền lực tối cao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hầu hết các tranh
chấp và vi phạm quyền tác giả ở nước ta hiện nay được giải quyết theo thủ tục
xử lý vi phạm hành chính có mức xử phạt thấp, tính răn không cao nên nhiều tổ
chứ, cá nhân bất chấp thực hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả rồi nộp tiền xử
phạt vi phạm hành chính vì khoản lợi nhuận thu được còn lớn hơn rất nhiều.
2. Nguyên nhân hạn chế trong xử lý xâm phạm quyền tác gia tại Việt Nam
Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ
luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng
tham gia, kể cả những người lao động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều lĩnh
vực khác nhau.
Thứ hai, Các mặt hàng nội địa tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho người tiêu dùng, nhất là trong điều

kiện thu nhập bình quân thấp. Vì vậy, nhiều người tiêu dùng ưa lựa chọn những
sản phẩm giả nhưng lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh
nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì
mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có
uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng.
Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ
quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá, trong khi trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ
đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế.
Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ
còn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản trong khi đó, những quy
định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ lại chưa thật đầy đủ,
chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý mới
chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình hình thực
tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm.
Thứ năm, Hiện có tới 6 loại cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học và
công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan)
cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm dẫn đến hoạt động chồng chéo. Chưa kể,
19


trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo
vệ pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí
tuệ, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, công nghệ máy tính…
3. Một số giai pháp
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ và
xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ cho phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực tế hiện
nay. Hiện nay, các quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn
các điểm yếu, dẫn đến hiệu quả thực thi còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu
cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ.

Đối với pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ, cần tiếp
tục tổng kết thực tiễn thi hành những năm qua để bổ sung các quy định đầy đủ
và cụ thể hơn, pháp điển hoá các quy định, các văn bản pháp luật về sở hữu trí
tuệ, đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tham gia bảo hộ
quyền sở hữu của mình đối với tài sản sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan chức năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để
phát hiện tội phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng để toàn dân được biết. Nâng cao hơn nữa vai trò của tòa
án trong việc xét xử nghiêm minh các hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền sở
hữu trí tuệ.
Thứ ba, cần chú trọng áp dụng biện pháp dân sự để đưa ra mức bồi thường
thỏa đáng khi có thiệt hại xảy ra, đồng thời cũng như cần có mức xử phạt đủ
nặng về mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền
tác giả trong xử lý vi phạm hành chính và hình sự để tăng tính nghiêm minh và
thực thi có hiệu quả các quy định của Luật sở hữu trí tuệ.
Thứ tư, các cơ quan có thẩm quyền cần cân nhắc trên cơ sở tính chất, mức
độ hành vi nguy hiểm của xã hội cũng như yêu cầu của bên bị thiệt hại để áp
dụng biện pháp xử lý hợp lý trong số ba biện pháp cùng với các biện pháp khắc
phục, ngăn chặn phù hợp, tránh đánh nhanh bằng biện pháp hành chính mà bỏ
quên biện pháp dân sự hay hình sự như thực tiễn hiện nay.

20


C. KẾT LUẬN
Quyền tác giả là yếu tố cấu thành quan trọng điều ước quốc tế đa phương
mang tính trụ cột trong bảo hộ quyền tác giả, là công cụ hữu hiệu trong việc phát
huy khả năng sáng tạo của con người, thúc đẩy sự giao lưu, phổ biến các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học trên phạm vi toàn cầu. Việt nam gia nhập

Công ước Berne là một bước đi tất yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta còn tồn tại những hạn chế trong việc
áp dụng, chúng ta cần có những giải pháp hoàn thiện trong việc bảo hộ quyền
tác giả. Vì vậy, Việt Nam cần phải chủ động, tích cực hơn nữa trong việc đưa
các cam kết quốc tế vào trong thực tiễn áp dụng.

MỤC LỤC
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
B/ NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. KHÁI QUÁT CHUNG...................................................................................2
1. Quyền tác giả..............................................................................................2
2. Hành vi xâm phạm quyền tác giả................................................................2
2.1. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả...................................3

21


2.2. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả cụ thể theo quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009...........................................................4
3. Xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả & Vai trò của xử lý hành vi xâm
phạm quyền tác giả.........................................................................................5
II. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH (8tr)........6
1. Cơ sở pháp lý..............................................................................................6
2. Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành.........................................................................7
2.1. Biện pháp hành chính...............................................................................7
2.1.1 Thẩm quyền............................................................................................7
2.1.2. Nội dung................................................................................................7
2.2. Biện pháp hình sự.....................................................................................9

2.2.1 Thẩm quyền............................................................................................9
2.2.2. Nội dung..............................................................................................10
2.3. Biện pháp dân sự....................................................................................13
2.3.1. Thẩm quyền.........................................................................................13
2.3.2. Nội dung..............................................................................................14
III. ƯU ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ...........................16
IV. TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN.....................................................................17
IV. THỰC TRẠNG XỬ LÝ XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ, NGUYÊN
NHÂN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.........................................................18
C. KẾT LUẬN....................................................................................................22
22


DANH MỤC THAM KHẢO

DANH MỤC THAM KHẢO
 Sách giáo trình
- Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam , Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2017;
 Văn ban pháp luật
- Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009;
- Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về
quyền tác giả, quyền liên quan;

23


-

Nghị định 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý

nhà nước về sở hữu trí tuệ;
- Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017;
 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
 Link tham khao trên Internet
/>%E1%BA%A3o-quy%E1%BB%81n-t225c-gi%E1%BA%A3-trong-l
%C4%A9nh-v%E1%BB%B1c-xu%E1%BA%A5t-b%E1%BA%A3n
/> /> />
24



×