Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

PHÁP LUẬT xử LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.44 KB, 8 trang )

PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VIỆT NAM - XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN
TS. Vũ Trọng Hách
1. Những hạn chế của pháp luật xử lý vi phạm hành chính
Là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật hành chính Việt Nam -
pháp luật xử lý vi phạm hành chính
1
được hình thành và phát triển ngay từ
những ngày đầu thành lập nước. Qua từng giai đoạn phát triển của lịch sử cách
mạng Việt Nam pháp luật xử lý vi phạm hành chính được hình thành và phát
triển phù hợp với đặc điểm riêng của từng giai đoạn, phản ánh điều kiện kinh tế
- xã hội và thực tiễn quản lý xã hội của Nhà nước ta trong giai đoạn đó.
2
Pháp
luật xử lý vi phạm hành chính luôn giữ một vai trò rất quan trọng, bảo đảm
nguyên tắc pháp chế và trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật xử lý vi phạm hành chính - quy định một loại trách nhiệm pháp lý - trách
nhiệm hành chính ( ở nghĩa truyền thống - mặt tiêu cực), thì có thể thấy nó phát
triển chậm hơn so với pháp luật quy định về các loại trách nhiệm khác: hình sự,
dân sự, kỷ luật.
3

Hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành bao gồm: Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày
02/07/2002 và có hiệu lực từ ngày 01/10/2002 ( sửa đổi, bổ sung năm 2007,
2008); có khoảng 100 Nghị định quy định về xử phạt hành chính ( trong đó có
81 Nghị định quy định về xử phạt hành chính, 17 Nghị định khác có liên quan
đến quy định về xử lý vi phạm hành chính); 11 luật và pháp lệnh có quy định về
xử phạt vi phạm hành chính; các Bộ. Cơ quan ngang Bộ cũng đã ban hành hơn
100 Quyết định, Thông tư hướng dẫn thi hành.


Nghiên cứu hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành có thể
thấy những hạn chế cơ bản của nó:
Thứ nhất, về hình thức thể hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính chưa
được quy định bằng luật; có quá nhiều các quy định dưới luật quy định các hành
vi và các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ hai, việc ban hành văn bản hướng dẫn triển khai thi hành Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và hiện nay là Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
năm 2008 quá chậm, gây khó khăn cho công tác thi hành pháp luật, nhất là
những văn bản quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 được ban hành
1
Thuật ngữ " xử lý vi phạm hành chính" được sử dụng với nọi hàm bao gồm : xử phạt vi phạm hành chính và
các biện pháp hành chính
2
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam có thể chi
thành ba giai đoạn chính: giai đoạn từ ngyaf 2-9-1945 đến năm 1954; giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989; giai
đoạn từ năm 1989 đến nay.
3
Năm 1989 pháp luật xử lý vi phạm hành chính mới được ban hành dưới hình thức pháp lệnh - Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính và hiện nay hình thức thể hiện vẫn là pháp lệnh - Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002.
từ 2008 đã có hiệu lực, nhưng vẫn còn đến gần 30 nghị định trong số hơn 100
nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh
vực quản lý nhà nước vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới gây khó
khăn và ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành
thì những hành vi vi phạm hành chính và những hình thức xử phạt chủ yếu do
Chính phủ quy định; cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể hầu như duy nhất
thực hiện thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp hành chính khác
4

. Như
vậy, pháp luật xử lý vi phạm hành chính thể hiện nhiều nội dung tinh thần của
pháp luật tập trung không cho phép phân biệt giữa lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Tinh thần này, chưa thật sự phù hợp với chủ trương xây dựng nhà nước
pháp quyền, thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta.
Thứ tư, do tồn tại quá nhiều các văn bản dưới luật quy định về hành vi vi
phạm hành chính và hình thức xử phạt nên dẫn đến tình trạng các quy định xử
phạt vi phạm hành chính chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lắp giữa các văn bản.
Một số nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước có các quy định về hành vi tương tự nhau với khung
mức chế tài xử phạt khác nhau; thậm chí việc mô tả hành vi và kỹ thuật soạn
thảo văn bản về hành vi có tính chất tương tự nhau ở các nghị định lại khác nhau
dẫn đến gây lúng túng cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt.
5
Thứ năm, tình trạng văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành pháp lệnh hoặc văn bản có hiệu
lực pháp lý cao hơn nhưng lại không đúng với tinh thần, thậm chí mở rộng quy
định hoặc trái với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn đó
6
. Thậm chí có trường
hợp sử dụng cả hình thức công văn có chứa quy phạm để hướng dẫn pháp luật
xử lý vi phạm hành chính.
7
Thứ sáu, tình trạng " xé rào" của một số địa phương trong ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Điều 2 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính quy định chỉ có Chính phủ mới có quyền quy định hành vi và
chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước mà
không trao quyền này cho Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các tỉnh,
4

Có 74 chức danh có thẩm quyền xử phạt hành chính theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 và 14 loại chức danh theo quy định của những loại văn bản pháp luật khác nhưng chủ yếu là cơ quan
hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính.
5
Ví dụ, mức phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính là hàng hóa là thuốc bảo vệ thực vật giữa Nghị định số
26/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm
dịch thực vật với Nghị định số 175/2004/NĐ-CP ngày 10/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại chưa có sự thống nhất. Nghị định 175/2004/NĐ-CP ngày 10/10/2004 quy định các
hành vi liên quan đến sản xuất, kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật bị áp dụng mức xử phạt cao gấp 2 lần so với
mức phạt đối với các mặt hàng thông thường có hành vi vi phạm tương tự. Quy định này dẫn đến khó khăn trong
việc xác định và áp dụng thẩm quyền của thanh tra viên.
6
Nghị định quy định không đúng với tinh thần của Pháp lệnh, thông tư hướng dẫn không đúng với tinh thần của
nghị định.
7
Ví dụ, Công văn số 15242/TC/TCT ngày 24/1/2004 của Tổng cụ thuế hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính
về trốn thuế; Công văn số 31/TCT/PCCB ngày 05/01/2005 của Tổng cục thuế hướng dẫn việc quyết định xử phạt
nộp chậm tiền, tiền phạt…
thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, thời gian vừa qua nhiều tỉnh, thành
phố đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trái
thẩm quyền, tùy tiện, trái quy định của Pháp lệnh dẫn đến tình trạng hỗn loạn,
không kiểm soát, không những vi phạm về thẩm quyền mà còn xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
8
Thứ bảy, về các biện pháp xử lý hành chính khác, một trong những bất
cập đáng lưu ý là do việc phân cấp thẩm quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
nên xuất hiện tình trạng do muốn làm " trong sạch" địa bàn quản lý nên một số
nơi lạm dụng biện pháp này dẫn đến nhiều trường hợp áp dụng chưa đúng đối
tượng

9
, dẫn đến không khuyến khích được các địa phương áp dụng biện pháp cai
nghiện tại cộng đồng và gia đình. Một số quy định về các biện pháp hành chính
khác mặc dù Chính phủ đã ban hành nghị định quy định chi tiết nhưng vẫn còn
nhiều điểm các địa phương chưa hiểu rõ nên áp dụng khác nhau, dẫn đến tình
trạng thực hiện không thống nhất.
10
Thứ tám, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ( sửa đổi, bổ
sung năm 2007, 2008) trong quá trình thực hiện đã có những hạn chế, bất cập:
Một là, những quy định tại Điều 14 về lĩnh vực và mức phạt tiền tối thiểu, tối đa
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước không còn phù hợp. Có rất nhiều Nghị định
xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực mà Pháp lệnh chưa dự liệu được
ban hành ( ví dụ, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước,
thể dục, thể thao…). Mức xử phạt trong một số lĩnh vực phù hợp với thời điểm
ban hành pháp lệnh, song đến thời điểm hiện nay và một số năm tới sẽ không
phù hợp ( ví dụ, lĩnh vực chứng khoán, kế toán, hải quan, thủy sản…). Mức xử
phạt tối đa quy định tại khoản 2 Điều 14 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành, tuy đã
được sửa đỏi, bổ sung năm 2008 nhưng hiện nay vẫn rất không phù hợp ( ví dụ,
lĩnh vực thuế, hải quan, việc xử phạt phải căn cứ vào giá trị hàng hóa…). Hai là,
có những bất hợp lý trong việc quy định về hình thức xử phạt và các biện pháp
khắc phục hậu quả. Điều 12 Pháp lệnh 2002 quy định hình thức xử phạt bổ sung
phải được áp dụng cùng hình thức xử phạt chính, song trong trường hợp người
vi phạm bỏ trốn, nếu chỉ ra quyết định áp dụng hình thức xử phạt bổ sung để tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm mà không có hình thức xử phạt chính là trái
với quy định này nhưng trên thực tế nếu không ra quyết định thì không biết xử
lý thế nào. Biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra trong nhiều lĩnh vực không khả thi.
Ví dụ, trong lĩnh vực bảo vệ rừng và quản lý lâm sản quy định biện pháp khắc
8
Các loại văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do các địa phương ban hành tập trung vào

các lĩnh vực trật tự an toàn giao thông, trật tự an toàn xã hội, quản lý và bảo vệ rừng, quản lý lâm sản,…và một
số lĩnh vực khác.
9
Chưa xác định rõ là người nghiện ma túy hay người có hành vi quậy phá vi phạm trật tự công cộng, đã có tiền
án, tiền sự hay chưa…
10
Ví dụ, khái niệm " người không có nơi cư trú nhất định", việc bắt lại đối tượng bor trốn khi đang thi hành
quyết định thì xử phạt như thế nào; việc phối hợp giữa các ngành trong làm thủ tục và thi hành biện pháp hành
chính khác như thế nào, có quy định riêng không; kinh phí dành cho việc đưa đối tượng vào cơ sở chữa bệnh
trong trường hợp cơ sở chữa bệnh ở rất xa thì lấy ở đâu…
phục hậu quả do phá rừng như buộc người vi phạm trồng lại rừng và chịu chi phí
trồng rừng nhưng rất khó thực hiện với người vi phạm sinh sống tại địa phương
có hoàn cảnh khó khăn hoặc người tạm trú, người có địa chỉ không rõ ràng,
người ngoài địa phương. Những bất hợp lý cũng xảy ra tương tự trong lĩnh vực
đất đai, xây dựng, đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa,
vật phẩm, phương tiện…các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định rất khó
trong tổ chức thực hiện. Ba là, việc quy định thẩm quyền trong xử phạt vi phạm
hành chính cũng chưa thật sự hợp lý. Quy định thẩm quyền xử phạt đối với các
chức danh trực tiếp xử phạt chưa hợp lý, dẫn đến vụ việc bị dồn lên cấp trên.
Pháp lệnh chưa quy định thẩm quyền của một số chức danh được quy định trong
các luật mới được ban hành, một số chức danh khác trong thực tiễn quản lý nhà
nước. Pháp lệnh 2002 quy định 74 chức danh có quyền xử phạt, Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung nắm 2008 bổ sung thêm 13 chức danh có thẩm quyền xử phạt đã
được một số luật, pháp lệnh quy định. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn một
số chức danh phát hiện ra vi phạm trong thi hành nhiệm vụ nhưng không có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ( ví dụ, Đồn trưởng Đồn công an); một
số thuộc thẩm quyền quản lý chuyên ngành nhưng người có thẩm quyền của
ngành lại không có thẩm quyền xử phạt nên có nhiều khó khăn về thủ tục cũng
như trách nhiệm giải quyết ( Ví dụ, thanh tra chuyên ngành giao thông công
chính không được xử phạt trong lĩnh vực chiếu sáng, cấp nước trong khi các lĩnh

vực này thuộc quản lý của giao thông công chính)…Bốn là, quy định về các
biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt chưa hợp lý. Điều 44 Pháp lệnh 2002
quy định thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính thời gian không được
quá 12 giờ, trường hợp cần thiết thì tối đa không quá 48 giờ, quy định này
không hợp lý vì không đủ thời gian xác minh các yếu tố nhân thân, lai lịch của
người vi phạm cũng như kết luận hành vi vi phạm ( vi phạm ở vùng sâu, vùng
xa, vùng biển, biên giới, hải đảo…). Chưa có những hướng dẫn cụ thể về nhà
tạm giữ hành chính. Trưởng công xã không có thẩm quyền giữ người theo thủ
tục hành chính nên khó khăn trong thi hành nhiệm vụ. Những quy định về tạm
giữ phương tiện vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 46 Pháp lệnh còn
phức tạp nên không kịp thời xử lý các trường hợp vi phạm ( ví dụ, để tạm giữ
phương tiện thì người tạm giữ phải ghi ba loại giấy tờ: biên bản vi phạm, biên
bản tạm giữ và quyết định tạm giữ phương tiện…). Điều 47 Pháp lệnh quy định
những người có thẩm quyền mới được khám người theo thủ tục hành chính
nhưng thực tế một số người đang thực thi công vụ mới là người thực hiện các
hoạt động tuần tra, kiểm soát trực tiếp nên nếu thời gian để họ trình lên cấp trên
là không kịp thời. Quy định về biện pháp khám nơi cất giấu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính ( Điều 49 Pháp lệnh) cũng không phù hợp với thực tế
gây khó khăn cho công tác đấu tranh của cơ quan có thẩm quyền…Năm là, các
quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng có những vấn
đề không hợp lý. Quy định về đình chỉ hành vi vi phạm hành chính cần phải có
thời gian để xác minh hoặc để xác định đúng mức độ vi phạm của cơ quan có
thẩm quyền nên quy định tại Điều 53 " Khi phát hiện hành vi vi phạm hành
chính, người có thẩm quyền xử lý phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm
hành chính" là khó khả thi. Quy định thời gian để ra quyết định xử phạt 10 ngày
là quá ngắn để hoàn chỉnh lập hồ sơ, chưa kể thời gian chuyển hồ sơ sang cơ
quan có thẩm quyền xem xét. Những quy định về thời gian nộp tiền phạt ( Điều
57, 58 Pháp lệnh), quy định về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
( Điều 61 Pháp lệnh), hoãn thi hành quyết định phạt tiền ( Điều 65 Pháp lệnh),
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt ( Điều 66 Pháp lệnh), thời hiệu thi hành

quyết định xử phạt ( Điều 69 Pháp lệnh), về công tác phối hợp giữa cơ quan có
thẩm quyền xử phạt và các cơ quan liên quan…cũng phát sinh những vấn đề
không phù hợp với thực tiễn hiện nay. Sáu là, các quy định của Pháp lệnh, nghị
định hướng dẫn thực hiện liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính khác cũng có nhiều điểm không thống nhất, không phù hợp. Ví dụ, có sự
không thống nhất giữa quy định tại khoản 2 Điều 23 về đối tượng bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và khoản 2 Điều 24 về đối tượng bị
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Điểm b khoản 2 Điều 24 Pháp
lệnh quy định đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao
gồm người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự
mà trước đó đã giáo dục tại xã, phường, thị trấn song tại khoản 2 Điều 23 Pháp
lệnh không có đối tượng này.
Quy định về thời hạn 5 ngày phải đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng
trên thực tế đối với những tỉnh ở xa trường giáo dưỡng là chưa phù hợp ( khoản
2 Điều 14 Nghị định số 76/2003/NĐ-CP). Chưa quy định vấn đề thay đổi thời
hạn trong quyết định hoặc hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Quy định
về người vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, vừa
thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh ( Điều 113 Pháp lệnh) gây vướng mắc,
khó khăn trong việc tổ chức thực hiện của các địa phương…Bảy là, những quy
định về chế độ khen thưởng ( Điều 120 Pháp lệnh), về giám sát của Hội đồng
nhân dân đối với công tác xử lý vi phạm hành chính tại địa phương ( Điều 115
Pháp lệnh)… cũng chưa phù hợp với thực tiễn…Tám là, một số vấn đề khác có
liên quan đến xử lý vi phạm hành chính cần được quy định và quy định mới cho
phù hợp. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành
chính đối với công dân Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật ở nước ngoài
( chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự), do vậy, các trường hợp vi phạm
do phía nước ngoài bàn giao không thể xử lý. Hoặc, trường hợp người nước
ngoài vi phạm bị áp dụng hình thức đánh dấu trên Giấy phép lái xe cũng không
có hiệu quả vì chưa có hướng xử lý như thế nào? Phương tiện phục vụ cho công

tác xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực như môi trường, vệ sinh thực
phẩm, giống cây trồng …không có để kiểm tra, thử nghiệm nên không đủ căn cứ
để ra quyết định xử phạt. Pháp lệnh quy định xử lý các trường hợp tái phạm còn
nhẹ, mới dừng ở mức phạt tiền, chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm khắc
phòng ngừa tái phạm. Một số khái niệm trong Pháp lệnh và Nghị định hướng
dẫn còn gây khó hiểu, khó khăn cho việc thực hiện. Ví dụ, các quy định như: "
điểm giao thông tĩnh", " chưa đến mức truy cứu hình sự", " trì hoãn trốn tránh",
" trộm cắp vặt", " lừa đảo nhỏ"…
2. Định hướng hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
Hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính theo chúng tôi cần phải
dựa vào những quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc chủ yếu như sau:
Một là, phải đặt việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương tiến
hành xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nước và xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, từng bước đưa đất
nước hội nhập quốc tế.
Hai là, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính phải được tiến hành theo phương pháp pháp điển hóa cao, xây dựng luật
về xử lý vi phạm hành chính để thay thế Pháp lệnh hiện hành. Dự án luật phải
nhằm giải quyết được cơ bản những vấn đề bất cập, hạn chế hiện nay của Pháp
lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời phải tạo được cơ sở pháp lý
về những vấn đề cơ bản nhất, mang tính nguyên tắc trong xử lý vi phạm hành
chính trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm xây dựng pháp luật những năm qua, bảo
đảm phù hợp và đáp ứng yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước và đáp ứng chiến
lược phát triển của pháp luật Việt Nam trong thời gian tới, tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng, phát triển pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính.
Ba là, tăng cường bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm
quyền con người, đề cao tính dân chủ, công khai, công bằng và minh bạch trong

việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm và văn bản áp dụng pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính. Đồng thời bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà
nước, xử lý nghiêm minh, triệt để, nhanh chóng, đúng pháp luật các vi phạm
hành chính, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, thể hiện rõ tinh thần cải cách hành chính trong xử lý vi phạm hành
chính theo hướng đơn giản, rõ ràng, tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức những
không làm bó tay các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; bảo
đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, các quyền tự do dân chủ
của công dân, đồng thời có cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm ngăn chặn và phòng
ngừa vi phạm từ phía các cơ quan, công chức nhà nước trong thi hành công vụ
và xử lý vi phạm hành chính.
Hiện nay, trong các hội thảo, báo cáo khoa học ở nước ta đang tồn tại một
số phương án về hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính như sau:
Phương án 1: hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính một cách
cơ bản. Theo tinh thần phương án này là bỏ hẳn tất cả các biện pháp xử phạt
cũng như xử lý vi phạm hành chính. Tất cả đều chuyển sang các biện pháp tư
pháp như ở các nước hiện đại.
11
Sử dụng tòa vi cảnh đối với những tội phạm
nhỏ, mà chúng ta vẫn gọi là vi phạm hành chính theo thủ tục rút gọn một thẩm
phán.
12
Phương án 2: hoàn thiện một bước Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002. Tinh thần của phương án này là sửa đổi Pháp lệnh thành Luật xử phạt
vi phạm hành chính, tập trung vào quy định thủ tục với các loại vi phạm hành
chính thuộc loại vi cảnh ( loại vi phạm hành chính về trật tự an toàn xã hội, trật
tự an toàn giao thông…) giao cho cơ quan hành chính ( chủ yếu là lực lượng
cảnh sát nhân dân) tiến hành xử phạt, người bị xử phạt có quyền khiếu nại, giải
trình. Còn các loại vi phạm hành chính, kể cả biện pháp xử lý hành chính khác

chuyển giải quyết bằng con đường tư pháp.
Phương án 3: hoàn thiện một cách toàn diện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính hiện hành. Theo tinh thần phương án này, sửa đổi Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 thành Luật xử lý vi phạm hành chính. Đổi mới một
số nội dung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra; tiếp tục quy định cụ thể chi tiết
hơn về thẩm quyền xử phạt của các chức danh trong cơ quan hành chính nhà
nước và phân định rõ ràng, cụ thể hơn về thẩm quyền đối với loại hành vi vi
phạm. Quy định rõ thủ tục xử phạt theo hướng mở rộng hơn tính minh bạch,
công khai, công bằng và dân chủ, cho phép người bị xử phạt có quyền trình bày,
giải trình, có quyền khiếu nại, có quyền mời luật sư trong trường hợp cần thiết,
để có thể tiến hành bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của họ…Bỏ các biện pháp
xử lý hành chính khác, chuyển các biện pháp bắt buộc chữa bệnh cho sở y tế
quản lý.
Theo chúng tôi, hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở nước ta
nên tiến hành theo tinh thần phương án 3 sẽ có tính khả thi hơn, phù hợp hơn với
nội dung các quan điểm mang tính nguyên tắc đã nêu ở trên. Vì, như đã phân
tích, nhận xét trên đây pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành còn nhiều
quy định thể hiện sự tập trung của cơ chế cũ, chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc sửa đổi hệ thống pháp luật xử lý
vi phạm hành chính cũng cần phải thể hiện cụ thể hơn nguyên tắc phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên,
lộ trình hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cũng phải tính đến yếu
tố thống nhất và đồng bộ với lộ trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách
bộ máy nhà nước ở nước ta trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và thời gian
tới. Nên trước mắt, chúng ta cần tập trung tìm giải pháp khắc phục những tồn
tại, hạn chế, bất cập của pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành; tổng kết
11
Ở Vương quốc Anh và Mỹ không phân biệt " tội phạm" và " vi phạm hành chính". " Vi phạm hành chính "
được xem là một dạng " tội phạm nhỏ". Ở các nước này vấn đề " vi phạm hành chính" thuộc phạm vi của luật
hình sự. Thủ tục xử lý một" tội phạm nhỏ" được áp dụng với thủ tục tố tụng hình sự ngắn gọn: không bắt buộc

có sự tham gia của luật sư; không áp dụng thủ tục bắt người; không áp dung thủ tục điều tra. ( Bùi Tiến Đạt
giảng viên Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, pháp luật xử lý vi phạm hành chính của Mỹ, Hội thảo khoa học
" xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam" - Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển, Đồ Sơn, Hải
Phòng tháng 12/2010).
12
Ở nước ta thời kỳ đầu lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chúng ta có tòa vi cảnh phán xét việc vi phạm
hành chính, nhất là những việc hạn chế quyền tự do của người dân.
hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính; nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm,
mô hình pháp luật xử lý vi phạm hành chính của các quốc gia khác để hoàn thiện
pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở nước ta theo hướng phù hợp, khả thi và
từng bước hiện đại hơn.

×