Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Luận văn sư phạm Đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn 1930 - 1945 trong nhà trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.27 KB, 65 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

LờI cảm ơn

Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới Th.S
Vũ Ngọc Doanh, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa
luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học
Ngữ văn, khoa Ngữ Văn, trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn thầy cô, bạn bè đã động viên, giúp đỡ em hoàn thành khoá
luận.
Hà Nội, tháng 5 năm 2007
Sinh viên

Vũ Thị Hạnh

1


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong khóa luận là kết
quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của các thầy cô
giáo (đặc biệt là thầy Vũ Ngọc Doanh). Những nội dung này không trùng với


kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2007
Sinh viên

Vũ Thị Hạnh

2


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

mục lục
lời cảm ơn .................................................................................................. 1
Lời cam đoan ............................................................................................ 2
A. Phần mở đầu ......................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 5
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 6
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 8
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
B. phần nội dung ..................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: Những vấn đề chung ........................................................ 9
1.1 Vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học......................................................... 9
1.1.1 Phương thức sáng tạo của nhà văn .................................................. 9
1.1.2 Cơ chế hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn học .............................. 10
1.1.3 Những khó khăn về khoảng cách khi tiếp nhận tác phẩm văn học 12
1.2 Thể loại với vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học .................................. 14
1.2.1 Vấn đề thể loại ............................................................................... 14

1.2.2 Thể loại tự sự ................................................................................. 17
1.3 Đọc hiểu là con đường đặc trưng tiếp nhận tác phẩm văn học............. 18
1.3.1 Quan niệm về đọc hiểu ................................................................. 18
1.3.2 Đọc hiểu là con đường đặc trưng tiếp nhận tác phẩm văn học .. 19
CHƯƠNG 2: Đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn
1930-1945 Trong trường trung học phổ thông ...................... 21
2.1 Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại ......................................................... 21
2.1.1 Cốt truyện ...................................................................................... 21
2.1.2 Nhân vật ........................................................................................ 23

3


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

2.1.3 Ngôn ngữ ....................................................................................... 25
2.2 Đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn 1930 1945 ................... 27
2.2.1 Khái quát về đọc hiểu.................................................................... 27
2.2.2 Đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn 1930-1945 ............... 28
CHƯƠNG 3. thiết kế giáo án thực nghiệm.................................. 40
3.1 Cơ sở thiết kế giáo án ............................................................................ 40
3.2 Giáo án thực nghiệm ............................................................................. 40
c. Phần kết luận .................................................................................. 64
Tài liệu tham khảo ............................................................................ 65

Danh mục những từ viết tắt
Gv: Giáo viên
Hs: Học sinh

Sgk: Sách giáo khoa

4


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

A. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Văn học là một trong bẩy hình thức nghệ thuật. Nếu con người biết đến
âm nhạc bằng âm thanh nhịp điệu, hội họa bằng đường nét màu sắc, điêu khắc
bằng hình khốiThì văn học là tổng hợp của các loại hình nghệ thuật trên.
Đặc điểm cơ bản của văn học là phản ánh đời sống bằng hình tượng thông qua
ngôn ngữ.
Vấn đề giảng dạy môn Văn có vị trí quan trọng trong nhà trường phổ
thông. Theo GS. Trần Thanh Đạm trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm
văn học theo loại thể NXBGD. 1971 viết : Mục đích, ý nghĩa của môn giảng
văn trong nhà trường là giúp học sinh cảm thụ đầy đủ nhất, lĩnh hội được sâu
sắc nhất mọi giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong hình tượng văn học của tác
phẩm từ đó mà giáo dục cho các em về nhận thức, về tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, thẩm mỹ, về cả tư duy và ngôn ngữ nữa. Đọc, phân tích, giảng giải tác
phẩm là nhằm vào mục đích đó: làm cho học sinh cảm và hiểu. Để thực hiện
được điều đó với người giáo viên hoàn toàn không phải việc dễ dàng. Đặc biệt,
trong hoàn cảnh xã hội hiện nay_ thời kì bùng nổ thông tin và công nghệ đã
ảnh hưởng lớn đến việc giảng dạy môn văn. Do đó cần có phương pháp phù
hợp và đúng đắn để việc dạy văn đạt mục đích và hiệu quả.
Có nhiều phương pháp dạy văn nhưng hiện nay các phương pháp truyền
thống đã bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế. Theo Phúc Nguyên trong báo Văn

nghệ số 36 ( 9/9/2006 ) thực trạng việc dạy học văn hiện nay: Theo một lối
mòn quá cũ: giáo viên chỉ làm nhiệm vụ rót kiến thức vào bình chứa học
sinh mà không cần biết các em có tiêu hóa được kiến thức đó không, còn
học sinh thì tiếp thu kiến thức một cách thụ động để rồi trả bài cho thầy
nguyên si như thế và làm theo những ý tưởng của thầy học theo những bài mẫu
có sẵn. Cách dạy học theo kiểu này đã thủ tiêu vai trò chủ động sáng tạo của

5


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

học sinh trong học văn không khơi dậy được những tiềm năng văn học của học
sinh. Cơ chế dạy học của các phương pháp này là: Giáo viên là nhân vật
trung tâm, giáo viên là người truyền thụ kiến thức, học sinh tiếp thu, tiếp xúc
tri thức văn thông qua lăng kính chủ quan của giáo viên, phụ thuộc hoàn toàn
vào người giáo viên. Do đó, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn là việc
làm quan trọng cần giải quyết để đảm bảo yêu cầu học sinh phải là chủ thể
sáng tạo trong việc học văn.
Đọc hiểu tác phẩm văn học theo loại thể là kiểu dạy học mới có thể
khắc phục hạn chế đó. Cơ chế kiểu dạy học này vận hành theo nguyên tắc:
Tác phẩm văn học là đối tượng chiếm lĩnh của cả giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên giữ vai trò chỉ đạo, hướng dẫn học sinh trong quá trình tìm hiểu,
khám phá tác phẩm.
Mặt khác, trong tương quan giữa các thể loại văn học: trữ tình, kịch, tự
sự, thể loại tự sự chiếm khối lượng kiến thức lớn trong chương trình giáo dục
phổ thông.
Tự sự là khái niệm rộng, trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận tác giả

chỉ tập trung tìm hiểu về tự sự hiện đại giai đoạn 1930-1945. Do vậy, tôi chọn
đề tài nghiên cứu trong khóa luận là: Đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai
đoạn 1930-1945 trong nhà trường trung học phổ thông. Trong đó, tác giả
tập trung tìm hiểu 2 tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và Chí Phèo (Nam
Cao).
Qua đề tài, bản thân người viết muốn có dịp nâng cao kiến thức tự rèn
luyện năng lực sư phạm của người giáo viên dạy văn tương lai. Đồng thời,
muốn góp một phần tìm tòi, sáng tạo vào con đường đổi mới phương pháp dạy
học văn.
2. Lịch sử vấn đề
Từ cổ đại khi xuất hiện chữ viết đã có hình thức đọc để hiểu. Hiện nay
viết về vấn đề đọc hiểu chưa có công trình nghiên cứu nào hoàn chỉnh nhưng
đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực nghiên cứu này.

6


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Trên thế giới, A. Nhicônxki (Nga) trong Phương pháp dạy tác phẩm
trong nhà trường phổ thông đã chú ý đến hoạt động đọc, đặc biệt là đọc diễn
cảm.
I. A Rez trong phương pháp luận dạy văn học đã trình bày một cách
có hệ thống các phương pháp, biện pháp dạy học. Trong đó, tác giả cũng chú ý
đến đọc sáng tạo và coi đây là phương pháp đặc biệt, đặc thù nhằm phát triển
cảm thụ nghệ thuật, hình thành những thể nghiệm nghệ thuật: Giáo viên đọc
diễn cảm, giáo viên gọi học sinh đọc diễn cảm, giáo viên đọc diễn cảm và
giảng bình.

Việt Nam có một số công trình nghiên cứu sau:
GS. Nguyễn Thanh Hùng có một số bài viết tiêu biểu sau:
Trong cuốn Văn học và nhân cách NXBVH. 1994 : Tác giả có bài
viết về mối liên hệ giữa liên tưởng và tưởng tượng với đọc văn sự phát triển
của quá trình đọc được vận động trong hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và
giải thích nghệ thuật.
Trong bài viết Dạy đọc hiểu là tạo nền tảng văn hóa cho người đọc,
tác giả cũng chỉ ra việc đọc hiểu sẽ góp phần hình thành củng cố và phát triển
năng lực nắm vững và sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo. Từ bình diện
văn hóa ấy bài viết cũng xác định: Đọc là một năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ
bản với việc phát triển nhân cách.
Trong chuyên đề Đọc và tiếp nhận văn chương, tác giả đã trả đọc về
vị trí xứng đáng của nó và khẳng định: Tiếp nhận văn học là một quá trình vì
nó chỉ thực sự diễn ra một hoạt động duy nhất là đọc văn.
GS. Trần Đình Sử trong cuốn Đọc văn học văn quan niệm rõ ràng về
đọc hiểu văn và xem đây là việc đầu tiên không thể thiếu trong quá trình học
văn.
Trong bài viết trên báo Văn Nghệ (14/02/1998) Môn văn thực trạng và
giải pháp tác giả nhấn mạnh đến một trong ba mục tiêu của việc dạy học văn,

7


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

rèn luyện khả năng đọc hiểu các văn bản đặc biệt là các văn bản nghệ thuật là
tạo cho học sinh khả năng biết đọc văn một cách có văn hóa, có phương pháp,
không suy diễn, tùy tiện.

GS. Phan Trọng Luận trong chuyên luận Cảm thụ văn học, giảng dạy
văn học phân tích tầm quan trọng của hoạt động đọc: Đọc từ chữ đầu đến chữ
cuối, đọc để âm vang, đọc để tri giác cảm giác được bằng mắt, tai tất cả những
hình ảnh, chi tiết, từ ngữ. Quá trình đọc ở đây là quá trình tiếp cận văn học,
từng bước thâm nhập vào nội dung, ý nghĩa tác phẩm.
Như vậy, tất cả các nhà nghiên cứu trong các bài viết của mình đều cho
rằng đọc là hoạt động đầu tiên của tiếp nhận văn chương. Dựa vào thành quả
nghiên cứu trên, trong khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ chức các bước đọc
hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn 1930-1945.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Với khuôn khổ phạm vi đề tài, trong khóa luận chúng tôi tập trung tìm
hiểu các vấn đề lí luận về đọc hiểu tác phẩm vận dụng vào thể loại tự sự hiện
đại. Từ đó, tổ chức các bước đọc hiểu một số tác phẩm tiêu biểu trong tự sự
hiện đại giai đoạn 1930-1945.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khóa luận chúng tôi tập trung tìm hiểu các vấn đề sau:
- Tập hợp các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
- Vận dụng các bước đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại giai đoạn 1930-1945.
- Thiết kế giáo án thực nghiệm.
+ Hai đứa trẻ ( Thạch Lam )
+ Chí Phèo ( Nam Cao )
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thực nghiệm

8


Khóa luận tốt nghiệp


Vũ Thị Hạnh

B. phần nội dung
CHƯƠNG 1: Những vấn đề chung
1.1 Vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học
Tiếp nhận tác phẩm văn học là gì?
Theo từ điển tiếng Việt, tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, nơi
khác chuyển giao cho.
Theo Nguyễn Thanh Hùng trong Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn
chương cho rằng: Tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem lại cho
người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố và
phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và
năng lực cảm xúc của con người trước đời sống
Về thực chất, tiếp nhận văn học là cuộc giao tiếp giữa người đọc và tác
giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc tham gia với tất cả tâm hồn và trí tuệ,
hứng thú và nhân cách, tri thức và sức sáng tạo. Người đọc vừa nhập thân để
thể nghiệm nội dung tác phẩm vừa phải phân thân duy trì khoảng cách thẩm
mỹ để nhìn nhận tác phẩm từ bên ngoài, để thưởng thức tài nghệ hoặc nhận ra
điều bất cập hay cắt nghĩa khác với tác giả.
Mỗi tác phẩm được sáng tạo bởi một phương thức nhất định, phương
thức ấy quy định cách thức tiếp nhận tác phẩm. Mục đích cuối cùng của dạy
học tác phẩm văn học là: Giúp cho người học hiểu, cảm tác phẩm từ đó góp
phần làm giàu hiểu biết và hoàn thiện nhân cách. Muốn vậy cần hiểu tác phẩm
đó làm ra bằng cách nào?
1.1.1 Phương thức sáng tạo của nhà văn
Bốn thành tố tạo nên chu kỳ quá trình sáng tác và thưởng thức văn học:
thời đại, nhà văn, tác phẩm, bạn đọc. Trong đó, nhà văn với tư cách chủ thể
sáng tạo giữ vai trò quan trọng nhất. Hoạt động của nhà văn bắt đầu bằng sự


9


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

quan sát: quan sát đối tượng thẩm mỹ khách quan trong thời đại và quan sát
nhu cầu thị hiếu của người đọc. Mục đích hoạt động sáng tạo của nhà văn là
biến đối tượng thẩm mỹ khách quan thành nhu cầu thẩm mỹ xã hội. Quá trình
biến đổi đó là quá trình sáng tác. Nhưng trong quá trình sáng tác nhà văn đã
lựa chọn phương thức nào để sáng tạo tác phẩm ?
Thể loại chính là phương thức nhà văn sáng tạo tác phẩm. Theo cách
phân chia thông thường tác phẩm văn học được chia thành 3 loại: Trữ tình, tự
sự, kịch.
Nếu trong tác phẩm trữ tình nội dung tác phẩm là đời sống được phản
ánh thông qua tâm trạng cảm xúc của nhà văn; trong tác phẩm kịch, nhà văn
nhận thức hiện thực khách quan thông qua các mâu thuẫn, xung đột; thì tác
phẩm tự sự phản ánh hiện thực cuộc sống bằng các hình ảnh khách quan.
Về phương diện triết học, khách quan ở đây phải được hiểu là khách
quan hai. Khách quan một chính là đời sống. Nhà văn nhận thức khách quan
một phản ánh vào tác phẩm thông qua lăng kính chủ quan của mình trở thành
khách quan hai chính là nội dung tác phẩm. Như vậy, trong tác phẩm văn học
có nội dung khách quan và nội dung chủ quan. Nói cách khác, khách quan
được phản ánh thông qua nhận thức, đánh giá của nhà văn. Như vậy, quy trình
sáng tác của nhà văn là: khách quan một nhận thức khái quát đánh
giá biểu hiện khách quan hai (tác phẩm tự sự).
Việc hiểu phương thức sáng tạo tác phẩm của nhà văn tạo điều kiện, tiền
đề cho việc tiếp nhận tác phẩm văn học đúng hướng, đúng bản chất và sâu sắc.
1.1.2 Cơ chế hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn học

Cơ chế hoạt động tiếp nhận gồm 4 bước: đọc, phân tích, cắt nghĩa, bình
giá. Tiếp nhận tác phẩm tự sự cũng dựa trên cơ chế ấy.
1.1.2.1

Đọc

Đọc là sự khởi đầu việc tiếp nhận văn bản, đây là hoạt động sáng tạo và

10


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

mang tính trực cảm. Văn bản tồn tại khách quan, là hệ thống ngôn ngữ được
tổ chức theo một kiểu, loại nào đó tùy thuộc vào chức năng nó phải thực hiện
hoặc bị quy định bởi phương thức sáng tạo mà nhà văn lựa chọn. Mục đích
của đọc là hiểu văn bản. Mỗi loại văn bản khác nhau có cách đọc khác nhau.
Đọc tác phẩm tự sự khác đọc tác phẩm trữ tình và kịch.
1.1.2.2 Hoạt động phân tích
Phân tích là cách thức nghiên cứu, tìm hiểu chi tiết, các mặt riêng biệt,
những mặt riêng lẻ của tác phẩm nhằm mục đích phát hiện, khám phá tương
quan giữ chúng để từ những hiểu biết riêng lẻ cụ thể đạt tới sự nhận thức
chung sâu sắc hơn ( Nguyễn Thanh Hùng ). Hoạt động phân tích không thể
tiến hành với tất cả các yếu tố cấu thành tác phẩm mà chỉ có thể tiến hành với
một số yếu tố. Điều này buộc sau khi phân chia đối tượng thành các phần nhỏ
cần thực hiện thao tác lựa chọn. Khi lựa chọn phải xây dựng hệ thống tiêu chí
phù hợp. Tiêu chí ấy được xác định bởi các căn cứ như : Chất lượng của cái
được lựa chọn, đặc trưng của mỗi thể loại

1.1.2.3 Hoạt động cắt nghĩa
Hoạt động cắt nghĩa là sự giảng giải ý nghĩa của chi tiết, hình ảnh tiến
tới cắt nghĩa hình tượng, cao hơn là cắt nghĩa tác phẩm. Cắt nghĩa văn học là
quá trình phân tích và tổng hợp.
Hoạt động cắt nghĩa tác phẩm văn học ngoài những hiểu biết khoa học,
cần vận dụng hiểu biết xã hội, lịch sử và mỹ học để giải quyết vấn đề tác
phẩm. Xét đến cùng cắt nghĩa không chỉ là hoạt động nhận thức mà còn là
hoạt động diễn đạt những hiểu biết về tác phẩm và giãi bày trung thực mối
quan hệ nhất định trong những hoàn cảnh và trạng thái xã hội lịch sử tinh thần
cụ thể.
Mỗi tác phẩm văn chương chỉ có một văn bản. Tất cả các phương pháp,
các thao tác và các yếu tố được sử dụng để cắt nghĩa tác phẩm đều dựa vào
căn cứ duy nhất là văn bản. Điều này dẫn đến kết quả là mỗi người đọc sẽ cắt

11


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

nghĩa tác phẩm theo một cách khác nhau. Đây là quy luật trong quá trình tiếp
nhận tác phẩm văn chương.
1.1.2.4 Hoạt động bình giá
Trong cơ chế tiếp nhận tác phẩm hoạt động bình giá là hoạt động cuối
cùng của quá trình tiếp nhận tác phẩm. Toàn bộ việc bình giá được dựa trên
các căn cứ của hoạt động đọc, phân tích, cắt nghĩa. Như vậy, những nhận xét
đánh giá sẽ mang tính khách quan. Nhưng khi nói đến khen, chê thì điều này
không hoàn toàn khách quan nữa bởi sự khen chê ấy tùy thuộc vào thái độ,
tình cảm và quan hệ của người đọc với nhà văn và tác phẩm. Ngoài ra còn phải

tính đến môi trường tâm lí xã hội và những yếu tố cộng hưởng được tạo nên
bởi vị trí, uy tín của chính nhà văn.
Tóm lại, tiếp nhận tác phẩm văn học bao gồm một hệ thống hoạt động
có quan hệ chặt chẽ với nhau: Đọc- tiếp nhận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá.
Trình tự hệ thống này không thể đảo ngược. Đọc là yêu cầu bắt buộc để tiếp
cận tác phẩm văn học và định hướng cho sự phân tích. Hoạt động cắt nghĩa
xác định tính chính xác của nội dung phân tích. Hoạt động bình giá mở rộng,
đi sâu hơn vào giá trị tác phẩm bằng sự phong phú và đầy cá tính của người
tiếp nhận tác phẩm.
Trên đây là cơ chế tiếp nhận tác phẩm văn học. Nhưng thực chất, khi
học văn, đọc văn, người đọc còn gặp rất nhiều khó khăn cần được giải quyết
mà đặc biệt là khó khăn về khoảng cách.
1.1.3 Những khó khăn về khoảng cách khi tiếp nhận tác phẩm văn học
Tiếp nhận tác phẩm văn học là một quá trình. Có nhiều con đường
để người đọc cảm thụ tác phẩm nhưng một con đường đặc trưng là đọc. Đọc
để tiếp nhận tác phẩm văn chương tức là biến cái khách quan (tác phẩm)
thành cái chủ quan của mình. Khi đọc, người đọc gặp phải những khó khăn
gọi là khoảng cách tiếp nhận. Nhưng khoảng cách này không thể xóa bỏ mà
chỉ có thể rút ngắn, thu hẹp vì thế gọi là sự chuyên chế của khoảng cách.

12


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Trong mối quan hệ giữa bạn đọc với tác phẩm luôn tồn tại các khoảng
cách:
- Khoảng cách ngôn ngữ: Mỗi thời đại, mỗi tác giả khác nhau có thói

quen sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng các hình tượng nghệ thuật khác nhau.
Đây là nguyên nhân làm xuất hiện khó khăn khi tiếp nhận. Nó bao gồm các
khoảng cách sau:
+ Khoảng cách về vốn ngôn ngữ tác giả và vốn ngôn ngữ của người đọc.
+ Khoảng cách về ngôn ngữ giữa các dân tộc: Điều này xảy ra đối với
các tác phẩm dịch. Khi dịch tác phẩm văn học nước ngoài sang tiếng Việt sẽ
có hạn chế bởi sự khác nhau về đặc trưng ngôn ngữ. Do vậy, giữa bản dịch
và văn bản tác phẩm đã có khoảng cách, khi đến với người đọc khoảng cách
đó càng lớn hơn.
+ Khoảng cách về ngôn ngữ giữa các thời đại: Mỗi thời đại khác nhau
có cách sử dụng ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ phápkhác nhau như
cách sử dụng ngôn ngữ ở văn học dân gian, ngôn ngữ văn học trung đại
khác với ngôn ngữ văn học hiện đại.
- Khoảng cách tâm lí bao gồm:
+ Khoảng cách giữa tâm lí tác giả và tâm lí người đọc. Đó là sự khác
nhau về tình cảm, cách cảm cách nghĩ với cùng một hiện tượng. Điều này
đòi hỏi khi tiếp nhận tác phẩm người đọc phải có sự đồng điệu với tác giả.
+ Khoảng cách tâm lí thời đại: Tác phẩm văn học ra đời không chỉ bị chi
phối bởi tư tưởng tác giả mà còn chịu sự chế định của tư tưởng, tâm lí thời
đại mà nó xuất hiện. Ví dụ, tư tưởng chi phối trong văn học trung đại là
trung quân ái quốc, trong văn học chủ nghĩa xã hội là lý tưởng xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, khi tiếp nhận tác phẩm phải gắn với hoàn cảnh ra đời, phải
tìm hiểu tác phẩm theo cả quan điểm đồng đại và lịch đại.

13


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh


- Khoảng cách về lịch sử bao gồm:
+ khoảng cách giữa lịch sử phản ánh trong tác phẩm với lịch sử thời đại
tác phẩm ra đời. Ví dụ tác phẩm Vợ Nhặt (Kim Lân) ra đời năm 1954
nhưng nội dung lại nói về năm 1945.
+ Khoảng cách giữa lịch sử ra đời tác phẩm với thời điểm người đọc tiếp
nhận nó.
Các khó khăn về khoảng cách trên có mối quan hệ tác động lẫn nhau.
Rút ngắn được khoảng cách này sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách kia. Vấn
đề đặt ra là biện pháp khắc phục các khoảng cách đó. Trong khóa luận này,
chúng tôi chọn con đường giải quyết khó khăn trên bằng cách đọc và tiếp
nhận tác phẩm trên cơ sở đặc trưng thể loại.
1.2 Thể loại với vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học
1.2.1 Vấn đề thể loại
1.2.1.1 Khái niệm thể loại
Cùng với các khái niệm khác trong lí luận văn học, loại thể cũng là
kết quả của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa thực tế cụ thể, sinh động của
sáng tác văn học (Trần Thanh Đạm).
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học là: Dạng thức của
tác phẩm được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát
triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác
phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính
chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống.
Thực chất, thể loại là sự tổng hợp của hai khái niệm: thể và loại. Đây
là hai khái niệm không bình đẳng với nhau: Loại là khái niệm tương đối
rộng còn thể là khái niệm hẹp hơn. Xét về quan hệ, khái niệm loại bao gồm
khái niệm thể. Về mặt số lượng, loại có số lượng hữu hạn, ít biến đổi còn
thể có số lượng phong phú hơn và thường xuyên xuất hiện mới.

14



Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Loại (loại hình) là phương thức nhà văn sử dụng để tạo nên hình
tượng của tác phẩm. Nói cách khác nó là phương thức mà nhà văn sử dụng
để chiếm lĩnh và tái hiện đời sống, biểu hiện tư tưởng, tình cảm. Mỗi loại
hình quy định một cách chiếm lĩnh khác nhau. Loại là một phạm trù lí luận
mang tính quy luật vì thế nó ổn định và trở thành tiêu chí quan trọng nhất để
phân loại tác phẩm.
Thể (thể tài) là phương thức tổ chức hình thức thiên về ngôn ngữ của
tác phẩm. Thể vừa ổn định vừa thường xuyên biến đổi.
Loại thể là hệ thống chỉnh thể chỉ quy luật loại hình của tác phẩm.
Trong đó một nội dung nhất định tương ứng với một hình thức nhất định.
Trong một loại thể bao giờ cũng có sự quy định thống nhất về đề tài, chủ đề,
cảm hứng, hệ thống nhân vật, hệ thống kết cấu lời vănSự thống nhất đó
được quy định bởi phương thức chiếm lĩnh đời sống. Nó tương ứng với hoạt
động nhận thức của con người và tạo ra một kênh giao tiếp đối với bạn đọc.
Như vậy, nói đến thể loại là nói đến cách tổ chức tác phẩm văn học.
Thể loại là một căn cứ để phân loại tác phẩm văn học nên nó phải có
tính quy luật. Tính quy luật thể loại thể hiện qua các phương diện sau :
- Thể loại là sự phối hợp giữa nội dung và hình thức để hình thành một
chỉnh thể và bao giờ cũng được tiến hành theo một phương thức có tính quy
luật. Đó là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Sự thống nhất đó tạo
bởi hai căn cứ:
+ Phương thức chiếm lĩnh đời sống khách quan của người nghệ sĩ và quan
hệ thẩm mĩ của nhà văn với hiện thực.
+ Khả năng tái hiện đời sống của mỗi loại văn là khác nhau.

- Tên gọi thể loại bản thân nó đã chứa đựng chức năng phân loại văn học.
Vì nó chỉ rõ giới hạn mà người nghệ sĩ tiếp xúc với đời sống và hình thức
mà người nghệ sĩ sử dụng để giao tiếp với độc giả.

15


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

- Thể loại chỉ một phương diện ổn định, bền vững trong cấu trúc một tác
phẩm văn học.
- Thể loại vừa tái sinh lại vừa đổi mới. Sự đổi mới làm cho thể loại vừa
mang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại, lại vừa in đậm dấu ấn phong
cách nhà văn.
Thể loại vừa mang tính quy luật vừa luôn luôn mới mẻ độc đáo. Thể
loại có mối quan hệ mật thiết với các phương diện khác của văn học. Thông
qua mối quan hệ này tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách khi tiếp nhận tác
phẩm văn học.
1.2.1.2 Phân loại
Có nhiều cách phân chia thể loại văn học. Theo truyền thống có thể
chia tác phẩm văn học thành 3 loại sau: Tự sự, trữ tình, kịch.
Sự phân loại này là căn cứ vào những đặc trưng có tính ổn định. Tuy
nhiên không thể tuyệt đối hóa được ranh giới giữa các thể loại.
1.2.1.3 Mối quan hệ tác động giữa các thể loại
Trong mỗi nền văn học, các loại văn thường không xuất hiện cùng
một lúc. Chẳng hạn ở phương Tây, tự sự xuất hiện trước trong khi đó ở
phương Đông mà đặc biệt ở Trung Quốc trữ tình lại xuất hiện trước. Do đó,
tính độc lập giữa các thể loại cũng mang tính tương đối, từ cái này có sự

chuyển tiếp đến cái kia.
Trong quá trình phát triển văn học, các thể loại luôn có sự tác động
qua lại lẫn nhau, đó là tác động hỗ trợ, bổ sung chứ không hề loại trừ nhau.
Đôi khi ranh giới giữa các thể loại có sự giao thoa, tiếp xúc, xuyên thấm vào
nhau. Người ta có thể tìm thấy các yếu tố trữ tình trong một tác phẩm tự sự
(Truyện Kiều _Nguyễn Du ) hoặc yếu tố tự sự trong tác phẩm trữ tình ( thơ
tuyên truyền của Tố Hữu ).

16


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

1.2.1.4 Thể loại với vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học
Hoạt động tiếp nhận như là cơ sở lí thuyết của phương pháp dạy học,
thuộc về khoa học giáo dục. Vấn đề thể loại văn học thuộc phạm trù lí luận
văn học, khoa học cơ bản của khoa văn học. Giữa chúng có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Mỗi loại văn đều mang trong mình một nội dung và hình
thức đặc thù, nó quy định cách thức giao tiếp của bạn đọc đối với tác giả.
Lý thuyết về thể loại được sử dụng như những công cụ quan trọng
trong tiếp nhận tác phẩm văn học. Thể loại là phương thức nhà văn làm ra
tác phẩm. Tiếp nhận tác phẩm ngoài việc biết tác phẩm nói cái gì (nội dung)
còn cần biết tác phẩm làm ra bằng cách nào? Tức là người đọc phải đi lại
con đường tác giả sáng tạo tác phẩm. Mỗi loại văn quy định cách tiếp nhận
khác nhau. Chọn con đường tiếp nhận theo kiểu đọc hiểu tác phẩm theo các
đặc trưng thể loại tức: Người giáo viên chỉ đạo học sinh cắt nghĩa các khía
cạnh của tác phẩm theo các đặc trưng thể loại. Trong khuôn khổ khóa luận
này chúng tôi tập trung vào thể loại tự sự. Do đó, cần hiểu thế nào là thể loại

tự sự ?
1.2.2 Thể loại tự sự
1.2.2.1 Khái niệm về tác phẩm tự sự
Trên các góc độ, các lĩnh vực khác nhau các nhà nghiên cứu đưa ra
các cách định nghĩa khác nhau về thể loại tự sự.
Theo Từ điển tiếng Việt 2005: Tự sự là thể loại văn học phản ánh
hiện thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách qua cốt truyện tương
đối hoàn chỉnh.
Dưới góc độ lí luận văn học: Tác phẩm tự sự là loại tác phẩm phản
ánh đời sống trong quá trình khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự
kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó.
GS. Trần Thanh Đạm quan niệm: Tự sự là thể loại văn học tái hiện
trực tiếp hiện thực khách quan như một cái gì tách biệt ở bên ngoài
17


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

đối với tác giả thành câu chuyện có sự diễn biến của sự việc, của hoàn
cảnh, có phát triển của tâm trạng, tính cách, hành động của con người.
Từ các hướng nghiên cứu trên có thể kết luận: Tự sự là thể loại văn
học phản ánh hiện thực đời sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự
việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vậtcó đầu có đuôi thông qua cốt
truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó.
1.2.2.2 Cách phân chia thể loại tự sự
Có nhiều căn cứ phân chia các thể của tự sự:
- Xét theo tiến trình lịch sử có thể chia thành: Tự sự dân gian, tự sự trung
đại, tự sự hiện đại.

- Xét theo dung lượng tác phẩm chia thành: Truyện ngắn, truyện dài,
truyện vừa.
- Xét theo phương pháp sáng tác chia thành: Tự sự chủ nghĩa cổ điển, tự sự
chủ nghĩa lãng mạn, tự sự chủ nghĩa hiện thực.
Việc phân chia này giúp người đọc định hướng đúng khi tiếp nhận tác
phẩm văn học.
Thể loại tự sự có ba đặc trưng cơ bản là: cốt truyện, nhân vật, ngôn
ngữ tự sự.
Trên cơ sở lí thuyết thể loại chúng tôi xác định đọc hiểu là con đường
đặc trưng để tiếp nhận tác phẩm văn học.
1.3 Đọc hiểu là con đường đặc trưng tiếp nhận tác phẩm văn học
1.3.1 Quan niệm về đọc hiểu
Đọc là hoạt động mang tính văn hóa phản ánh đời sống văn minh của
con người, nó xuất hiện cùng quá trình tiến hóa của loài người.
Theo Từ điển tiếng Việt 2005:
Đọc là tiếp nhận nội dung của một tập kí hiệu bằng cách nhìn vào
các kí hiệu.

18


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Hiểu là nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của cái gì, bằng sự vận dụng
trí tuệ.
Đọc là hành động, hiểu là mục đích. Đọc là hoạt động hướng về mục
đích nào đó, tức là khi đọc người đọc phải trả lời câu hỏi: Đọc để làm gì?
Hiểu chính là câu trả lời cho câu hỏi đó. Trong dạy học văn mục đích cuối

cùng không chỉ để hiểu mà là để thực hiện nhiệm vụ môn học. Đó là các
nhiệm vụ: Cung cấp kiến thức; Nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ và phát triển
nhân cách; Nhiệm vụ rèn luyện phương pháp, năng lực tư duy và hình thành
các kĩ năng cơ bản. Thực hiện các nhiệm vụ này trong dạy học văn là hướng
tới thực hiện mục đích giáo dục nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Đặc
biệt, trong thời đại ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật,
công nghệ thông tin việc đọc hiểu văn chương cần hướng tới mục tiêu giáo
dục của liên hiệp quốc: Tức là học để biết, để làm việc, để sống và chung
sống với mọi người.
Trước đây, người ta coi đọc là một thao tác, là một trong bốn kĩ năng
của học văn (nghe, nói, đọc, viết). Trong nhà trường, đọc hiểu là yêu cầu
đầu tiên và quan trọng nhất để tiếp nhận tác phẩm văn học. Chúng tôi quan
niệm đọc hiểu không chỉ là một phương pháp mà chính là một kiểu dạy học
tác phẩm văn chương. Kiểu dạy học đó lấy đọc làm nền tảng tư tưởng đầu
tiên để tiếp nhận tác phẩm văn học. Trong khi dạy học theo kiểu đọc hiểu có
thể sử dụng kết hợp với nhiều phương pháp khác: phương pháp so sánh,
phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi, phương pháp nêu vấn đề, phương
pháp giảng bìnhĐây là các phương pháp phân tích ứng dụng trong dạy
học theo kiểu đọc hiểu.
1.3.2 Đọc hiểu là con đường đặc trưng tiếp nhận tác phẩm văn học
Có nhiều con đường để tiếp nhận tác phẩm văn học, đặc biệt trong
thời đại ngày nay, người ta có thể tiếp nhận tác phẩm văn học bằng cách
xem các bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học, có thể nghe

19


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh


người khác đọc lại tác phẩmNhưng cách tiếp nhận đó có nhiều hạn chế vì
không đúng bản chất của văn học, loại hình nghệ thuật ngôn từ. Do đó, tiếp
nhận tác phẩm cần phải cảm, hiểu từ chính đặc trưng ngôn ngữ của nó. Có
thể khẳng định con đường tiếp nhận tác phẩm đặc thù là đọc.
Sở dĩ khẳng định đọc hiểu là con đường đặc thù của việc dạy học tác
phẩm văn chương là do chính đặc trưng của thông tin văn học quy định.
Thông tin nghệ thuật trong tác phẩm văn học được thể hiện ở hệ thống ngôn
từ tạo thành cấu trúc văn bản tác phẩm. Tác phẩm văn học thể hiện thành
văn bản văn học. Văn bản là tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ mang tính phi vật
thể. Trong văn bản văn học bao giờ cũng có những khoảng trống bắt buộc
người đọc phải liên tưởng, tưởng tượng để lấp đầy khoảng trống đó.
Đọc là hoạt động diễn ra ở tất cả các lĩnh vực: sinh hoạt, giao tiếp, các
môn học, các ngành họcVới văn học, đọc là phương pháp không thể thay
thế được. Chỉ thông qua đọc mới tiếp cận được văn bản, từ đó tiếp nhận nội
dung tác phẩm. Do đó, trong dạy học văn, giáo viên phải dạy học sinh học
đọc để học văn, từ đó hình thành năng lực đọc, rèn luyện khả năng tự đọc,
dần dần nâng cao thành văn hóa đọc cho học sinh.
Hơn nữa khi đọc hiểu văn bản ngoài việc giúp học sinh tìm hiểu thế
giới nghệ thuật, nhận thức về đời sống còn tạo ra sự đồng điệu, đồng sáng
tạo giữa tác giả và bạn đọc, từ đó rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và
nhà văn.
Như vậy, đọc hiểu chính là con đường đặc thù để tiếp nhận tác phẩm
văn học.

20


Khóa luận tốt nghiệp


Vũ Thị Hạnh

CHƯƠNG 2: Đọc hiểu tác phẩm tự sự hiện đại
giai đoạn 1930-1945 Trong trường trung học
phổ thông
2.1 Đặc trưng thể loại tự sự hiện đại
Thể loại tự sự có 3 đặc trưng cơ bản là: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ
tự sự. Tự sự hiện đại cũng mang đầy đủ những đặc trưng đó nhưng có những
nét riêng được quy định bởi yếu tố lịch sử, thời đại, cá tính nhà văn.
2.1.1 Cốt truyện
Cốt truyện là đặc trưng cơ bản đầu tiên của thể loại tự sự.
2.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm
Theo Từ điển tiếng Việt 2005 : Hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho
sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển tính cách nhân vật trong tác
phẩm văn học loại tự sự.
Theo giáo trình lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên: cốt truyện
là hệ thống các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách
hình thành và phát triển trong nhiều mối quan hệ qua lại của chúng nhằm
làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Từ các định nghĩa trên có thể đi đến cách hiểu chung nhất: Cốt truyện
là một tập hợp các biến cố, các sự kiện, các chi tiết diễn ra trong tác phẩm
theo một trình tự nhất định. Đơn vị để tạo thành cốt truyện chính là các sự
kiện. Sự kiện là những việc có ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách
nhân vật. Những sự kiện lớn có thể tạo ra những bước ngoặt trong cuộc đời
nhân vật được gọi là biến cố. Những yếu tố cụ thể tạo thành các sự kiện
được gọi là tình tiết.
Các biến cố, sự kiện, chi tiết được tổ chức sắp xếp thống nhất trong
tác phẩm theo 2 chiều:

21



Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

- Chiều thời gian: Nhà văn có thể sắp xếp các biến cố, các sự kiện
theo trật tự thời gian tuyến tính và thời gian phi tuyến tính tùy thuộc vào ý
đồ nghệ thuật của tác giả.
- Chiều không gian: Trong cùng một thời gian có thể diễn ra nhiều
biến cố nhiều sự kiện cho nên cốt truyện được tổ chức theo chiều
ngang_trục quan hệ giữa các nhân vật tham gia vào cùng biến cố sự kiện.
Về phương diện kết cấu và quy mô nội dung cốt truyện có thể chia
thành 2 loại: cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến. Tiến trình vận
động thông thường của cốt truyện gồm: trình bày, khai đoạn, phát triển,
đỉnh điểm và kết thúc. Tuy nhiên không phải cốt truyện nào cũng bao hàm
tất cả các thành phần đó.
2.1.1.2 Cốt truyện tự sự hiện đại (giai đoạn 1930-1945)
Cốt truyện là yếu tố đầu tiên để có tác phẩm tự sự nhưng nó không
quyết định đến sự thành công và hấp dẫn của tác phẩm bởi có những tác
phẩm cùng một cốt truyện nhưng mức độ thành công lại khác nhau.
Trong tự sự dân gian và tự sự trung đại, cốt truyện là đặc trưng tất yếu
đầu tiên, khi xây dựng truyện nếu không có cốt truyện là điều không có
khả năng (Nguyễn Đăng Na) và cốt truyện được sắp xếp theo trật tự thời
gian tuyến tính. Cốt truyện tự sự hiện đại giai đoạn 1930-1945 có sự thay
đổi như sau:
- Với các sáng tác của khuynh hướng lãng mạn, tiêu biểu là Thạch
Lam, đó là các tác phẩm không có cốt truyện hoặc cốt truyện chỉ là những
đổi thay trong dòng tâm trạng cảm xúc của nhân vật. Như trong truyện ngắn
Hai đứa trẻ, Thạch Lam diễn tả những biến thái tâm trạng trong tâm hồn

chị em Liên từ chiều tà đến đêm khuya khi có chuyến tàu đêm đi qua.
- Với các sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán, tiêu biểu là
Nam Cao, cốt truyện không được sắp xếp theo trật tự thời gian tuyến tính
mà theo thời gian phi tuyến tính. Như trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam

22


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Cao tổ chức truyện theo thời gian từ hiện tại (tiếng chửi của Chí) trở về quá
khứ (lai lịch Chí Phèo) rồi trở về hiện tại với cái chết của Chí, trong đó có sự
dồn nén và kéo căng thời gian.
Như vậy có thể khẳng định: Một hướng chuyển biến của tự sự hiện
đại là sự giảm nhẹ yếu tố cốt truyện. Do đó, khi đọc hiểu tác phẩm tự sự
hiện đại ngoài tính ổn định cần tìm hiểu tính linh hoạt, đa dạng của nó.
2.1.2 Nhân vật
Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó là hình thức cơ bản qua đó
văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng.
2.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm
Từ điển Hán Việt lý giải nhân vật là vai trong truyện, kịch, phim.
Từ điển tiếng Việt giải thích nhân vật là đối tượng ( thường là con người )
được miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: Nhân vật văn học là con người
cụ thể đựơc miêu tả trong tác phẩm văn học.
Những quan điểm trên có phần chưa đầy đủ hoặc quá chung chung.
Các nhà lý luận văn học quan niệm nhân vật văn học: Đó không chỉ là con
người, những người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ

xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm văn học, mà còn có thể là những sự
vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người, được
dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người Cũng có
khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện
tượng về con người hoặc có liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật
trong tác phẩm.
Phân loại nhân vật :
Dựa vào vị trí của nhân vật trong tác phẩm có thể chia thành: Nhân
vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.

23


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ với lí tưởng xã hội của
nhà văn chia thành: Nhân vật chính diện, nhân vật phản diện.
Xét theo kiểu cấu trúc nhân vật chia thành: Nhân vật chức năng, nhân
vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.
Trong quan niệm của lí luận văn học, ba khái niệm: nhân vật, tính
cách, tính cách điển hình là những mức độ khác nhau về chất lượng, tư
tưởng nghệ thuật của sự thể hiện con người trong tác phẩm văn học loại tự
sự: Nhân vật mới chỉ là hình ảnh về con người ; tính cách đã là hình
tượng về con người; tính cách điển hình là điển hình về con người. Ví
như trong tác phẩm Chí Phèo ( NamCao ) có nhiều nhân vật như : Chí
Phèo, Bá Kiến, Thị Nở, Lý Cường, Đội TảoNhưng chỉ có Bá Kiến, Chí
Phèo, Thị Nở, Binh Chức, Năm Thọ là nhân vật có tính cách và trong đó chỉ
có Bá Kiến, Chí Phèo xứng đáng là tính cách điển hình.

2.1.2.2 Nhân vật tự sự hiện đại (giai đoạn 1930-1945)
Nhân vật là yếu tố thứ hai nhưng quan trọng nhất trong tác phẩm tự
sự. Nhân vật văn học giai đoạn này cũng có những đặc trưng đó nhưng vẫn
có nét riêng biệt, đổi mới.
Trong tự sự dân gian, tự sự trung đại nhân vật thường là những nhân
vật tượng trưng, ước lệ, nhân vật chức năng, cái tôi cá nhân không được đề
cao, có tính chất đơn giản một chiều ( trừ Thúy Kiều_Nguyễn Du), ít được
miêu tả nội tâm. Nhân vật văn học giai đoạn này có một số thay đổi như
sau:
Với các tác phẩm của Thạch Lam nội tâm nhân vật được miêu tả sâu
sắc ngay cả những biến thái tinh vi nhất. Ví như nhân vật Liên trong Hai
đứa trẻ được tác giả khắc họa chủ yếu diễn biến tâm trạng từ buồn man
mác, vô cớ đến nỗi buồn thấm thía trước cảnh phố huyện nghèo.
Với các tác phẩm của Nam Cao, nhân vật là những con người của đời
thường, được miêu tả vừa như là một thế giới tâm lí phong phú vừa là sự

24


Khóa luận tốt nghiệp

Vũ Thị Hạnh

tổng hòa các mối quan hệ phức tạp và dần dần tiến tới xây dựng những tính
cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình (Ăngghen). Ví như nhân vật Chí
Phèo vừa được miêu tả sự thay đổi bề ngoài vừa là sự giằng xé, sự thay đổi
trong nội tâm, là điển hình cho số phận người nông dân trước cách mạng,
đồng thời nhân vật được đặt trong tổng hòa các mối quan hệ với các nhân
vật trong tác phẩm, mỗi mối quan hệ cho thấy một nét tính cách nhân vật.
Như vậy, nhân vật tác phẩm tự sự hiện đại vẫn là một hiện tượng

động, khó nắm bắt và vô cùng mới mẻ.
2.1.3 Ngôn ngữ
2.1.3.1 Khái niệm và đặc điểm
Đặc trưng thứ ba của tự sự là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ, phương
tiện (chất liệu) để nhà văn hình thành tác phẩm. Ngôn ngữ là chất liệu mang
tính phi vật thể, là cách thức ngôn ngữ sử dụng trong sáng tác văn học.
Tính chính xác, tính hàm xúc, tính đa nghĩa, tính tạo hình biểu cảm là
những thuộc tính của ngôn ngữ văn chương. Mỗi loại khác nhau cách thức
sử dụng khác nhau.
Các nhà lý luận văn học chia ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự thành hai
loại: ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện. Trong đó: ngôn ngữ
người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của
tác phẩm.
a. Ngôn ngữ nhân vật
Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm ngôn ngữ nhân vật là lời của
nhân vật trong các tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch.
Ngôn ngữ nhân vật là phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng để
phản ánh cuộc sống và cá tính nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật có thể là ngôn ngữ
ngữ đối thoại hoặc độc thoại nhưng bao giờ cũng đảm bảo sự kết hợp sinh
động giữa cá thể và tính khái quát, nghĩa là một mặt mỗi nhân vật có một
ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có lời ăn tiếng nói riêng, mặt khác ngôn
25


×