KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
Tính tất yếu hợp quy luật của con đường đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh
Vận dụng vào việc xây dựng niềm tin lý tưởng
của sinh viên hiện nay
MÃ MÔN HỌC: LLCT120314_15
THỰC HIỆN: Nhóm 03. Thứ 4 – tiết 4,5
GVHD: TH.S NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
TP Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 12 năm 2018
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA
VIẾT THUYẾT TRÌNH VÀ TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I NĂM HỌC 2018 – 2019
Nhóm số: 3 (Lớp thứ 5 tiết 4 – 5)
Tên đề tài: Tính tất yếu hợp quy luật của con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Vận dụng vào việc xây dựng niềm tin
lý tưởng của sinh viên hiện nay.
STT
HỌ VÀ TÊN
MÃ SỐ
TỶ LỆ %
SINH VIÊN
SINH VIÊN
HOÀN THÀNH
1
Đặng Huỳnh Phương Anh
17129002
100%
2
Nguyễn Tuấn Anh
17116152
100%
3
Nguyễn Minh Hiếu
17116174
100%
4
Huỳnh Mai Thủy Tiên
17153047
100%
5
Hoàng Thị Thắng
17116215
100%
Ghi chú:
-
Tỷ lệ = 100%
-
Trưởng nhóm: Nguyễn Minh Hiếu (SĐT: 0339569455)
_____________________________________________________________
Nhận xét của Giáo viên
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
Ngày ……. tháng 12 năm 2018
Giáo viên chấm điểm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................... 2
Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ......... 3
1.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .......................................................... 3
1.1.1. Quá trình hình thành 5 hình thái KTXH .............................................................. 3
1.1.2. Thời kỳ quá độ ..................................................................................................... 5
1.1.3. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .................................................. 10
1.1.4. Bản chất ............................................................................................................. 12
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ................................................................................................................................. 13
1.2.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ........................................ 13
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội. .. 14
Chương 2 XÂY DỰNG NIỀM TIN VÀ LÝ TƯỞNG CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY .... 16
2.1. Thực trạng ................................................................................................................ 16
2.2. Nguyên nhân ............................................................................................................ 17
2.3. Giải pháp .................................................................................................................. 17
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 19
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi
lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền
kinh tế phát triển. Chúng ta quá độ thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời
đại, nghĩa là đi theo quy luật tự nhiên của lịch sử. Con đường phát triển quá độ lên CNXH
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa
chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường
phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của
Cách mạng Việt Nam.
Với điều kiện lịch sử mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này chính là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh
và thực tế chứng minh con đường phát triển đó của dân tộc Việt Nam là tất yếu, duy nhất
đúng, hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đó là sự phát
triển tất yếu ở Việt Nam, được Đảng và Hồ Chủ Tịch vạch ra từ năm 1930 và ngày càng
hoàn thiện hơn trong các ký Đại hội Đảng gần đây. Thế nhưng, hiện nay, vấn đề nhận thức
về sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kiên
trì phấn đấu theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân còn
chưa được đầy đủ, đặc biệt là niềm tin, lý tưởng vào đường lối và chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với sinh viên hiện nay. Vấn đề này cũng đang được Đảng và nhà nước ta
quan tâm. Vì vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc
nhận thức về tính tất yếu và khách quan của con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta mang tính cấp thiết.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, với tiểu luận cuối kỳ trong môn học
Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhóm em xin chọn đề tài “Làm rõ tính tất yếu khách quan hợp
quy luật của con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm
của Hồ Chí Minh. Vận dụng vào việc xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên hiện
nay”.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khai thác, tìm hiểu và góp phần làm rõ hơn về tính tất yếu và khách quan hợp quy
luật của con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm của Hồ
Chí Minh
Nghiên cứu và vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng niềm tin, lý tưởng
cho sinh viên hiện nay.
Trên cơ sở những dẫn chứng về thành tựu và hạn chế, rút ra những kinh nghiệm trong
quy luật của con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Từ đó, tìm hiếu rõ những nguyên nhân, thực trang trong sinh viên hiện nay về
niềm tin và lý tưởng với những đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước để từ đó đề
ra các biện pháp hạn chế và khắc phục hiện trạng trên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và tra cứu thông tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét,
đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tính và
tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong phương pháp: gắn lý
luận với thực tiễn trong quá trình cách mạng Việt Nam, lý trí cách mạng với tình cảm cao
đẹp.
Tạo biểu mẫu khảo sát thực tế về thực trạng niềm tin và lý tưởng trong sinh viên
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM và một số trường khác hiện nay.
2
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1.1. Quá trình hình thành 5 hình thái KTXH
Hình thái KTXH là một hệ thống, trong đó các mặt của hình thái KTXH tác động qua
lại với nhau tạo nên quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động
của các quy luật khách quan đó mà hình thái KTXH tuy là một phạm trù xã hội nhưng lại
có quy luật phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu sa của việc phát triển và thay thế các hình thái KTXH nằm ở chỗ sự phát
triển của lực lượng sản xuất gây lên sự thay đổi về quan hệ sản xuất cà sự thay đổi về quan
hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở hạ tầng) đến lượt nó sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng (là
hệ thống các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng,
được hình thành trên một sơ sở hạ tầng nhất định) thay đổi.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, trong lịch sử loài người đã và sẽ tuần tự xuất hiện 5
hình thái KTXH từ thấp đến cao: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, cụ thể như sau:
Hình thái KTXH công xã nguyên thủy, đây là hình thái KTXH đầu tiên và sơ khai
nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc trưng nổi bật của hình thái này là tư liệu lao động
thô sơ, chủ yếu sử dụng đồ đá, thân cây làm công cụ lao động; cơ sở kinh tế là sự sở hữu
chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động; là xã hội chưa có giai cấp, Nhà nước và
pháp luật; quan hệ sản xuất là quan hệ bình đẳng, cùng làm cùng hưởng thụ.
Hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ. Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên
thủy tan rã hình thành nên xã hội có Nhà nước và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch
sử loài người đã hình thành nên hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của hình thái
này là thay thế chế độ công hữu (sở hữu chung) về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ
nô, thay thế xã hội không có giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ),
thay thế chế độ tự quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ
nô dùng bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã hội
3
này được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra kiểu nhà nước
đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
Hình thái KTXH phong kiến. Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp
quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội
chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao
đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với
hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều,
tuy phải nộp tô thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại của cải dư thừa của mình.
Đồng thời nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
Hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa. Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phát triển trong lòng
xã hội phong kiến châu Âu và chính thức xác lập như một hình thái KTXH đầu tiên ở Anh
và Hà Lan vào thế kỷ XVII. Adam Smith (1723-1790) là người có đóng góp to lớn nhất
xây dựng hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh
tế. Những nét đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa là quyền sở hữu tư
nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền thiêng liêng của
con người; cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do:
mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào
quá trình kinh tế; gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất lao động cao; bản chất sự
“bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo ra khi các nhà tư bản thuê lao động và
sử dụng sức lao động.
Hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa là hình thái phát triển cao nhất của xã hội, có
quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản
xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn cơ sở hạ tầng của chủ
nghĩa tư bản, có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã
hội hóa ngày càng cao. Những đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH này là cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại gắn liền với lực lượng
sản xuất đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao động cao, tạo ra nhiều của cải vật chất
đáp ứng nhu cầu vật chất và văn hóa của người dân; thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu: xóa bỏ những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, giúp gắn bó các thành
4
viên trong xã hội với nhau vì lợi ích căn bản; chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động
và kỷ luật lao động mới: phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động và xóa bỏ tàn dư
của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ; chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động: cơ sở cho công bằng xã hội; chủ nghĩa xã hội có nhà nước XHCN
là nhà nước kiểu mới, nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, mang bản chất nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân. Nhà nước
XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo xã hội trên mọi
mặt và nhân dân thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trong mọi mặt xã hội; chủ nghĩa
xã hội giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ
xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển.[5]
1.1.2. Thời kỳ quá độ
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là những vấn đề lý luận
cốt yếu, được giới lý luận nước ta thường xuyên quan tâm trong suốt mấy chục năm qua.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành
lập đến nay. Tuy nhiên, đó là con đường phát triển lâu dài và trong mỗi giai đoạn, mỗi thời
kỳ phát triển đất nước, đường lối chiến lược phát triển đó của Đảng ta luôn được bổ sung,
hoàn thiện và phát triển đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại.
Về mặt lý luận từ các tác phẩm của các nhà kinh điển, có thể thấy, về thời kỳ quá độ,
có 3 cách hiểu: thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản; thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Thực ra, đối với các nhà kinh điển, chủ nghĩa xã hội chỉ là giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, chỉ là có hai cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội: từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá độ trực tiếp và từ xã hội tiền tư bản lên
chủ nghĩa xã hội - đó được xem là sự quá độ gián tiếp.
Tuy nhiên, dù gián tiếp hay trực tiếp thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều là tất yếu
khách quan và đều là một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung,
tính chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm với
liên tục và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó đều là sự phát triển, tiến bộ đi lên
của lịch sử nhân loại.
5
Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện lịch sử của
cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập Đảng đến nay Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này càng được thể
hiện rõ hơn qua bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, trong Chính cương văn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo khi thành lập
Đảng (năm 1930), Đảng ta đã khẳng định: Đảng chủ trương làm cách mạng tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thứ hai, sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, tại Đại hội III (năm 1960), Đảng
ta khẳng định “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, khi cả nước thống nhất, tại Đại hội IV (năm 1976) Đảng ta khẳng định: thắng
lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; và, Đảng ta xác định, dù chúng
ta vừa bước qua một cuộc chiến tranh tàn khốc, dù xuất phát điểm của chúng ta là nền kinh
tế còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ, song con đường của cách mạng Việt Nam vào thời
điểm đó là: “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Thứ tư, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tan rã, phong
trào xã hội chủ nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991) với Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: Nước ta quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để
lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta...
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải
nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng
thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói đó là bốn thời điểm mang tính chất bước ngoặt trong quá trình cách mạng
Việt Nam 85 năm qua. Sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các thời điểm bước
6
ngoặt này cho thấy, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội.[9]
Đến Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước
ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn và đến Đại hội VII (năm 1991),
Đảng ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đến các Đại hội VIII, IX, X mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh, nhưng nhìn chung,
về cơ bản Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua (Cương lĩnh 1991). Tại Đại hội XI, trên
cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương lĩnh 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), lý luận xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có một bước hoàn thiện mới với sự khẳng định: “Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới”.[3]
Từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta 85 năm qua, có thể nhận thấy
rằng mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là kiên định nhưng ngày càng được Đảng ta
nhận thức sâu sắc, đầy đủ và cụ thể hơn. Có sự điều chỉnh và hoàn thiện căn bản con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội: từ làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản, đến quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” và hiện nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Rõ
ràng, giai đoạn tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn khác nhau. Hình
thức đi lên chủ nghĩa xã hội là từ “tiến nhanh”, “tiến mạnh”, “tiến vững chắc”, “tiến thẳng”
7
lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội III và IV) đến có một “thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa” với các “bước đi”, “chặng đường” phù hợp và với thời gian “lâu dài”. Với từ sự
giúp đỡ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế
giới đến “tự lực tự cường”, “quan hệ hữu nghị”, “là bạn và là đối tác tin cậy” của tất cả các
nước nhằm phát huy và khai thác, tận dụng các cơ hội, lực lượng và nguồn lực để xây dựng
chủ nghĩa xã hội...
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một thành tựu lý luận
đặc sắc của Đảng ta đã được thực tiễn đổi mới khẳng định. Mặc dù vậy vẫn có không ít ý
kiến băn khoăn giả thuyết nhằm góp phần tìm kiếm những sáng kiến mới, những luận giải
mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đặt trong bối
cảnh thời đại ngày nay.
Thứ nhất, về xuất phát điểm và những điều kiện tiên quyết của sự quá độ. Với đặc
điểm của mình, rõ ràng nước ta bước vào thời kỳ quá độ với điểm xuất phát được trước đây
xác định là từ xã hội "thuộc địa, nửa phong kiến" nghĩa là từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa,
thế nhưng vào thời điểm hiện nay, khi sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt tới nhóm
các nước có thu nhập trung bình. Do đó, cần có sự nhận diện và xác định đúng điểm xuất
phát mới phù hợp hơn.
Những điều kiện tiên quyết như các nhà kinh điển đã nêu ra đối với các nước “lạc
hậu”, “tiền tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đến nay hầu như không còn nữa.
Vậy, những nhân tố nào trong thời đại ngày nay là những điều kiện tiên quyết để các nước
có xuất phát điểm thấp thực hiện thành công bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Không ít ý
kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện nay việc nhìn nhận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
các nước chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa không nên đặt trong mối tương quan đối lập giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội như quan niệm trước đây. Bởi lẽ, về mặt phương pháp
luận quan niệm trước đây cho rằng, đấu tranh giữa các mặt đối lập bao giờ cũng dẫn đến sự
phủ định, triệt tiêu mặt đối lập; trong khi thực ra đấu tranh giữa các mặt đối lập bao giờ
cũng bao hàm sự chuyển hóa lẫn nhau. Thay vì đối lập thủ tiêu theo quan niệm trước đây,
đối lập chuyển hóa sẽ tạo ra sự phát triển mới phù hợp với thời đại mới.
8
Thứ hai, về thời kỳ quá độ. Đây là thuật ngữ đã quen thuộc mấy chục năm qua, nhưng
có một số ý kiến cho rằng, quá độ là trạng thái phổ biến của sự vận động và phát triển của
thế giới. Mọi sự vật và hiện tượng luôn luôn tồn tại và vận động trong một trạng thái quá
độ nào đó. Vì vậy, gọi là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là rất
chung chung, trừu tượng, rất khó xác định, dễ gây nhầm lẫn. Bởi bản thân “chủ nghĩa tư
bản” hay “chủ nghĩa xã hội” cũng chỉ là một thời kỳ quá độ cho sự phát triển tiếp theo. Hơn
thế, bản thân C. Mác, trong Phê phán Cương lĩnh Gô-ta, ở câu trích đã nêu ở trên, thường
vẫn được coi là định nghĩa về thời kỳ quá độ cũng chỉ đề cập tới “thời kỳ quá độ chính trị”
chứ không gọi “thời kỳ cải biến cách mạng” ấy là thời kỳ quá độ.
Trong các ý kiến trao đổi, có các ý kiến đề xuất nên dùng khái niệm: “giai đoạn phát
triển định hướng xã hội chủ nghĩa” hay “thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bởi như thế mới đề cao mục tiêu của sự phát triển. Chính mục tiêu sẽ quy định lực lượng,
phương thức, động lực, nội dung, tính chất của quá trình phát triển hướng tới mục tiêu.
Theo những ý kiến này, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một thành tựu to
lớn của thời kỳ đổi mới.
Thứ ba, vấn đề phù hợp giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ.
Đây cũng là một vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà lý luận nghiên cứu về thời kỳ quá
độ. Theo các tác giả, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở nước ta, rõ ràng là thời kỳ nước ta chưa phải là chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên, thời kỳ ấy cũng
không còn là một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là trong thời kỳ này, theo cách
nói quen thuộc, tất cả kinh tế - xã hội đều ở trạng thái quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo
các đề xuất nêu trên, tất cả kinh tế - xã hội đều trong trạng thái phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Có một thực tế là, cho đến nay, chúng ta mới thừa nhận kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn các lĩnh vực khác, như chính trị, văn hóa, xã hội... thì hoặc
là chúng ta xác định đó là xã hội chủ nghĩa, hoặc chúng ta không xác định cụ thể. Rõ ràng,
nhìn nhận một cách tổng thể thì chưa thấy được sự tương đồng và thống nhất giữa các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Ở đây, hình như chưa có sự thống nhất về nhận
thức và sự nhất quán về lý luận. Vấn đề đặt ra là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nghĩa là thời kỳ chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thực chất đó là thời
9
kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chỉ cần làm rõ định hướng kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hay còn cần phải làm rõ định hướng sự phát
triển cho mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội? Theo một số tác giả, đây là một vấn đề
còn bỏ ngỏ.
Trên đây, chỉ là một số ý kiến thảo luận, đề xuất của một số nhà nghiên cứu trong thời
gian qua nhằm thiết thực góp phần từng bước hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Những ý kiến thảo luận này mặc dù chưa thành hệ thống, nhưng cũng là những gợi ý cho
những suy nghĩ lý luận tiếp theo.[9]
1.1.3. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển tất
yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã
giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã
lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng một
xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Với điều kiện lịch sử mới, con đường phát triển của
dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này chính là sự lựa
chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và thực tế chứng minh con đường phát triển đó của dân
tộc Việt Nam là tất yếu, duy nhất đúng, hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp với xu
thế tất yếu của thời đại.[2]
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan
của lịch sử. Sự biến đổi của các hình thái KTXH là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái
KTXH sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái KTXH trước nó. Sự biến đổi của các hình thái
KTXH đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất, phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về
10
vốn, khoa học, công nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất
định quan hệ sản xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những
mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu
thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật chất,
kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã
hội mới, chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo
quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của
thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân
chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết
là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no, và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp
logic cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện
triệt để. Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ với “đặc điểm lớn nhất là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội,
đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước,
trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng
sản Việt Nam khẳng định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ
một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua
hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân phong kiến
còn nhiều, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc
lập của nhân dân ta”.[1]
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo lý luận về chủ nghĩa cộng
sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Chỉ có chủ
11
nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người
và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân
chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài
ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”.[2]
1.1.4. Bản chất
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, ngay trong điều kiện của xã hội chủ nghĩa, nhờ công
cuộc cải tạo mang tính cách mạng mà xã hội đã đạt được một trạng thái phát triển mới về
chất: làm cho tất cả mọi tư liệu sản xuất trở thành tài sản chung của toàn xã hội, qua đó tạo
điều kiện để phát triển kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, bảo đảm tính chất xã hội của
lao động, theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
V.I. Lênin đã phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen, Người cho rằng, trong
xã hội chủ nghĩa, một mặt, có chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất quan trọng, mặt
khác, có các xí nghiệp hợp tác (nghĩa là xí nghiệp không phải của toàn dân), xã viên hợp
tác xã. Như vậy họ cũng như công nhân đều là những người đại biểu cho phương thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin, việc tiến lên chủ nghĩa xã hội không loại trừ nền
sản xuất hàng hóa do giai cấp công nhân tổ chức. V.I. Lênin đề ra việc sử dụng các quan
hệ hàng hóa - tiền tệ và những phạm trù liên quan tới chúng như hàng hóa, giá cả, lợi nhuận,
hạch toán kinh tế. Đồng thời, việc phân phối phải được xây dựng nhờ các quan hệ hàng hóa
- tiền tệ, thương nghiệp, chứ không phải xây dựng trên việc cung cấp trực tiếp từ nguồn dự
trữ của xã hội, trên việc trao đổi sản phẩm trực tiếp.
Từ những điểm đã trình bày ở trên, có thể rút ra một số kết luận: Một là, thực tiễn sinh
động là cơ sở xây dựng quan điểm về các đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Hai là,
các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được các nhà kinh điển đưa ra có ý nghĩa trong cuộc
đấu tranh chống lại tư tưởng, học thuyết phi mácxít nhằm giành thắng lợi quyết định cho
học thuyết cách mạng. Vì thế, những đặc trưng ấy sẽ dần dần được nhận thức thêm, phù
hợp với biện chứng khách quan của hiện thực.
12
Phần lớn thời gian của cuộc đời mình, Hồ Chí Minh cùng với Đảng dồn tâm trí lãnh
đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta. Tuy vậy, những quan điểm của
Người về chủ nghĩa xã hội vẫn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Hầu hết các cách tiếp cận, định nghĩa của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được
diễn đạt, trình bày một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ thông, đại
chúng. Xét dưới góc độ khái quát nguyên lý thì Hồ Chí Minh về cơ bản không khác với
các nhà kinh điển Mác - Lênin. Điểm đặc sắc ở Hồ Chí Minh là phát triển các nguyên lý
lý luận phức tạp, khoa học bằng ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày. Hồ Chí Minh đã
định nghĩa tổng quát, xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã
hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải phóng
nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.[6]
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng và bản chất của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
1.2.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ học thuyết Mac Lênin. Theo học thuyết
Mac Lênin loài người trải qua năm hình thái KTXH khác nhau. Từ sau cách mạng tháng 10
Nga, loài người đã bắt đầu bước vào Thời đại mới – Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới , ở đó giai cấp công nhân là giai cấp trung
tâm có xứ mệnh lãnh đạo xã hội. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo quan điểm
Mac Lênin từ lập trường của một người yêu nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để
xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Hồ Chí Minh cũng cho rằng, loài người nhất định sẽ vươn
lên chủ nghĩa xã hội, xã hội có nền văn hóa phát triển cao.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ những khía cạnh khác nhau: từ
chủ nghĩa yêu nước và khác vọng giải phóng dân tộc, vì bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội cũng là nhằm giải phóng cho con người; từ phương diện đạo đức, hướng tới giá trị
nhân đạo, nhân văn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội. Hồ Chí Minh cho
rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá
nhân, trái lại, đề cao, tôn trọng con người cá nhân, các giá trị cá nhân, phát triển mọi năng
lực cá nhân với phát triển xã hội và hạnh phúc con người. Chủ nghĩa xã hội tạo mọi điều
13
kiện cho sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Xã hội tôn trọng mọi cá nhân, đồng
thời cá nhân biết đề cao mọi lợi ích xã hội, có thể hi sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích xã hội;
từ phương diện văn hóa, đưa văn hóa xâm nhập vào bên trong chính trị, kinh tế tạo nên một
sự thống nhất biện chứng giữa văn hóa, chính trị, kinh tế. Điều này cho thấy, ở Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa xã hội chính là hình thái phát triển của văn hóa, một đỉnh cao của nền văn
minh nhân loại. Do đó, quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội lại càng gắn
với văn hóa, và chỉ có đứng trên đỉnh cao của văn hóa , chủ nghĩa xã hội mới phát triển theo
đúng quy luật xã hội khách quan, phù hợp với tiến trình phất triển chung của nhân loại; từ
cơ sở kế thừa và phát triển truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội và con người Việt Nam.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng là quá trình xây dựng một nền văn
hóa mà trong đó kết tinh kế thừa phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng
nghìn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, kết hợp truyền thống
với hiện đại, dân tộc và quốc tế. Nhân dân Việt Nam xây dụng một xã hội như vậy theo
quan điểm của Hồ Chí Minh cũng tức là tuân theo một quy luật phát triển của dân tộc Việt
Nam: Độc Lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắng liền với nhau. Độc lập dân tộc là tiền đề,
là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội là một điều kiện đảm bảo vững chắc, đồng thời là mục tiêu cho độc lập dân tộc hướng
tới.[8]
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân lao động, mục tiêu chung là độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc
cho nhân dân với những mục tiêu cụ thể sau
Về chế độ chính trị: là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do
dân vì dân,nhà nước thực hiện hai chức năng là dân chủ đối với nhân dân và chuyên chính
đối với kẻ thù
Về kinh tế: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần phải phát triển toàn diện các
ngành, trong đó có những ngành chủ yếu như: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp
Về xã hội: xây dựng và phát triển nền giáo dục để nâng cao dân trí,đạt được trình độ
văn hóa cao
14
Về quan hệ xã hội: phải xây dựng được một xã hội, trong đó có sự công bằng dân
chủ,xây dựng mối quan hệ giữa người với người đề ra được các chính sách xã hội và phải
quan tâm thực hiện.
Động lực bao gồm các nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, có cả hệ thống động lực nội sinh và ngoại sinh nhưng các động lực đó
muốn phát huy tác dụng phải thông qua vai trò tác động của con người, do đó động lực
quan trọng nhất quyết định nhất là động lực con người đó là cá nân người Việt Nam. Động
lực chủ yếu là phải biết khai thác và phát huy được sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt
Nam. Muốn vậy phải xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng Cộng Sản lãnh đạo
và liên minh công nông, tri thức làm nồng cốt. Phát huy sức mạnh con người với tư cách là
cá nhân con người lao động. Do đó cần phải tìm cách khơi dậy sức mạnh cá nhân của mỗi
người. Phải kết hợp và giải quyết hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội, phải quan tâm
đến lợi ích chính đáng của người lao động, đảm bảo sự công bằng và bình đăng đối với
người lao động. Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát tiển kinh tế sản xuất, kinh
doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người mọi nhà trở nên giàu có, ích
nước lợi dân, gắng kinh tế với kỹ thuật với xã hội. Tác động với phương diện chính trị, tu
tưởng với tinh thần phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, phát huy vai trò của
các nhân tố chính trị, đạo đức, pháp luật. Khắc phục các trở lực kiềm hãm sự phát triển của
chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,chống chia rẻ bè phái, mất đoàn kết
vô kỷ luật, chống chủ quan bảo thủ giáo điều, lười biến, chống tham ô, lãng phí quan liêu.
Chính sách đối ngoại đúng đắng, khai thác sức mạnh ngoại lực, đặc biệt là tiếp thu những
thành tựu của khoa học công nghệ cao vào việc xây dựng và phát triển kinh tế.[8]
15
Chương 2
XÂY DỰNG NIỀM TIN VÀ LÝ TƯỞNG CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng
Suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận giới trẻ hiện nay được biểu hiện dưới
nhiều góc độ, trước hết là sự thờ ơ của sinh viên đối với các vấn đề chính trị là việc lơ là,
thiếu hứng thú học tập trong các môn lý luận chính trị. Khoa học Mác-Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh được xác định là nền tảng của đảng, góp phần quan trọng vào sự hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luật khoa học và cách mạng cho người học, tuy
nhiên một bộ phận không nhỏ sinh viên các trường đại học cao đẳng lại chưa ý thức được
đầy đủ vị trí và vai trò của các môn này nên chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, chỉ
học một cách thụ động, miễn cưỡng, qua loa, học mang tính chất đối phó, học mà không
hiểu [4]
Động cơ, thái độ học tập chưa đúng đắn, thụ động, miễn cưỡng, qua loa, đối phó, học
mà không hiểu, không suy nghĩ tìm tòi khả năng ứng dụng trong thực tiễn xã hội, nghề
nghiệp. Không xác định được mục tiêu, chiều hướng phát triển nhân cách cá nhân. Có tư
tưởng bình quân chủ nghĩa, học lệch, lười học, gian lận trong học tập, thi cử. Sa vào lối
sống thực dụng, hưởng thụ, ích kỷ, xa hoa, lãng phí, đề cao chủ nghĩa cá nhân, giá trị vật
chất, sùng bái văn hóa, lối sống phương Tây, từ bỏ các giá trị văn hóa, truyền thống đạo
đức của dân tộc, thiếu trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội.
Có trường hợp sinh viên rơi vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, ma túy, có hành vi
vi phạm pháp luật… [7]
Chưa tự đánh giá được những biểu hiện trong lối sống của bản thân là lành mạnh hay
tiêu cực, chưa định hướng được hành vi của bản thân theo chuẩn mực đạo đức xã hội, thể
hiện trong quan hệ xã hội, giao tiếp ứng xử với thầy cô, bạn bè, sinh hoạt hàng ngày.
Nhóm đã thực hiện một cuộc khảo sát trên khoảng 200 sinh viên từ các trường đại học
và cao đẳng và thu được kết quả như sao: tỷ lệ sinh viên thờ ơ, không quan tâm về các chủ
trương chính sách của Đảng và nhà nước lên đến 48% và tỷ lệ chưa hiểu rõ về các chính
sách, đường lối của Đảng và nhà nước lên đến 68%. Đây là những con số đáng báo động.
16
2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu là do chiến lược “ diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch được tăng cường một cách quyết liệt với niều thủ đoạn thâm độc
trên tất cả lĩnh vực tư tưởng văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh… trong
khi đó, vũ khí chiến đấu của chúng ta trên mặt trận tư tưởng chưa thật sự sắc bén, nhiều
vấn đề mới nảy sinh trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa được lý giải
một cách kịp thời và thấu đáo, công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc,
vu cáo chưa thường xuyên, chưa rộng khắp, chưa chủ động và còn thiếu thuyết phục nên
hiệu quả “chống” chưa cao, chưa tạo ra được “chất kháng thể” và sức mạnh tiến công trên
mặt trận tư tưởng, ảnh hưởng đến niềm tin chính trị của sinh viên.[4]
Bên cạnh đó sự phân hóa giàu – nghèo, tệ sùng bái các giá trị vật chất, sự phát sinh,
phát triển các tệ nạn xã hội, sự du nhập lối sống và văn hóa tư sản… làm băng hoại các giá
trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, hệ thống truyền thông đại chúng. Một mặt, tạo cơ hội cho những người trẻ hội nhập
quốc tế, nghiên cứu học tập, giao lưu phát triển, mặt khác, thách thức về khả năng sàng lọc,
lựa chọn thông tin trong bối cảnh đúng sai, thật giả lẫn lộn.
Công tác phối hợp quản lý, giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống giữa gia
đình, nhà trường và xã hội chưa thường xuyên, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt
ra. Đại bộ phận gia đình sinh viên buông lỏng việc giáo dục đạo đức, lối sống khi con em
mình vào đại học, cao đẳng. Cơ chế truyền tải thông tin, phối hợp quản lý giữa nhà trường
với gia đình bị buông lỏng tạo cơ hội cho những ảnh hưởng tiêu cực tác động. Một bộ phận
sinh viên tuy nhiệt tình, hăng hái nhưng do thiếu rèn luyện, tu dưỡng, học tập nên nông nổi,
tư duy sai lầm, bị lôi kéo vào các hoạt động phá hoại. [7]
2.3. Giải pháp
Để ngăn chặn lối sống phóng túng tiêu cực của sinh viên thời nay thì chúng ta phải
đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng về chính trị cũng như những tư tưởng
đúng đắn mà Bác đã dạy sinh viên chúng ta.Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ trong gia đình và nhà trường về tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc,nâng
cao tính tự giác, đoàn kết, kỷ luật…bằng cách biểu dương,khen thưởng những tấm gương
17
sinh viên trong học tập, lao động,tạo nhiều sân chơi bổ ích, nhiều hoạt động thu hút sinh
viên để góp phần xây dựng lý tưởng sống đẹp, sống có trách nhiệm với bản thân,gia đình
và xã hội, thăn hỏi động viên những sinh viên lầm đường lạc lối để học tự tin hơn trong
cuộc sống- Nhà trường cũng góp phần tạo điều kiện cho sinh viên học tập phát triển tài
năng, đặc biệt là việc phát huy các phong trào vượt khó học tập. Tổ chức các kỳ thi Olympic
môn học để chọn các tài năng trẻ trong nghiên cứu khoa học.
Tích cực đấu tranh chống các hình thức mê tín dị đoan, sử dụng văn hóa phẩm độc
hại trong sinh viên. Bằng cách tổ chức, cổ vũ sinhviên tham gia thực hiện cuộc vận động
“tuổi trẻ sống đẹp” hay“sống và làm việc theo pháp luật”; xây dựng chế độ tự quản
trongsinh viên, đăng ký thực hiện các quy tắc về nếp sống văn hóa trongnhà trường, ký túc
xá, trong gia đình, trên địa bàn mà sinh viên đangcư trú.- Bên cạnh đó chúng ta phải đẩy
mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên bằng cách tổ chức thường xuyên các
buổi sinh hoạt ngoại khóa cho học sinh sinh viên cả nước ta.[10]
18
KẾT LUẬN
Như vậy, lịch sử nhân loại cho đến hiện tại đã trải qua 5 hình thái KTXH bao gồm:
Công xã nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Cộng sản chủ
nghĩa với giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Các hình thái KTXH phát triển theo thứ tự từ
thấp đến cao nhưng đã có trường hợp ngoại lệ, đó là phát triển từ tư phong kiến lên xã hội
chủ nghĩa mà không thông qua tư bản chủ nghĩa. Hình thức đó gọi là quá độ. Ở nước ta,
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975
trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành
thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng
chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp. chủ nghĩa cộng sản
như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con
đường giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân lao động, độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Động lực chủ
yếu là phải biết khai thác và phát huy được sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Phải
kết hợp và giải quyết hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội, phải quan tâm đến lợi ích
chính đáng của người lao động, coi trọng động lực kinh tế cùng với đường lối chính trị,
chính sách đối ngoại đúng đắng, khai thác sức mạnh ngoại lực.
Hiện nay, đa số các sinh viên thường không quan tâm đến các vấn đề về chính trị xã
hội, chán nản với các môn chính trị trên lớp, học tập lơ đễnh. Các vấn đề về chính sách chủ
trương của Đảng và nhà nước thì ít hoặc không quan tâm. Nguyên nhân của hiện tượng này
là do sinh viên không có kiến niềm tin vững vàng, hay bị dụ dỗ lôi kéo, do sa vào vật chất,
coi trọng tiền bac, không quan tâm những gì xung quanh mình, công tác giáo dục còn nhiều
hạn chế, chưa tạo được nhiều hứng thú cho sinh viên. Để khắc phục tình trạng trên, chúng
ta cần cải tiến giáo dục, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng về chính trị, tích
cực bài trừ các tệ nạn xã hội, củng cố niềm tin cho sinh viên.
19
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
Mức độ tiếp cận, nắm vững về các chính
sách, đường lối của Đảng và pháp luật Nhà
nước của sinh viên
Hình 1. Mức độ tiếp cận,
nắm vững về các chính
sách, đường lối của Đảng
và pháp luật Nhà nước của
8%
4%
sinh viên
20%
68%
Không quan tâm
Không được tiếp cận
Chưa hiểu rõ
Hiểu rõ
Sự quan tâm của sinh viên về các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước
4% 4%
Hình 2. Sự quan tâm của
sinh viên về các chủ
trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của
Nhà nước
44%
Không quan tâm
Quan tâm
48%
Bình thường
Rất quan tâm
PHỤ LỤC
KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN VÀ THUYẾT TRÌNH
1. Phần tiểu luận
Nội dung hoàn thành
Sinh viên
Mức độ
hoàn thành
hoàn thành
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề tài, mục
đích và phương pháp nghiên cứu
Nguyễn Minh Hiếu
Tốt
+ chỉnh sữa tiểu luận
PHẦN 2. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nội dung 2: Tìm hiểu về tính tất yếu
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đặng Huỳnh Phương Anh
Tốt
Huỳnh Mai Thủy Tiên
Tốt
Nội dung 3: Phân tích quan niệm
của Hồ Chí Minh về đặc trưng và
bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
PHẦN 3. KIẾN THỨC VẬN DỤNG
Nội dung 4: Tìm hiểu về niềm tin và
lý tưởng của sinh viên hiện nay (thực
Hoàng Thị Thắng
Tốt
Nguyễn Minh Hiếu
Tốt
Nguyễn Tuấn Anh
Tốt
Nguyễn Tuấn Anh
Tốt
Nguyễn Tuấn Anh
Tốt
trạng, nguyên nhân, giải pháp)
Nội dung 5: Thiết kế bài khảo sát về
niềm tin và lý tưởng trong sinh viên
Nội dung 6: Tổng kết khảo sát
PHẦN 4. KẾT LUẬN
Nội dung 7: Viết kết luận
TỔNG HỢP NỘI DUNG BÀI
TIỂU LUẬN
2. Phần thuyết trình
Nội dung hoàn thành
Sinh viên
Mức độ
hoàn thành
hoàn thành
PHẦN 1. NỘI DUNG
Theo tiểu luận
PHẦN 2. POWERPOINT
Nội dung 1:Vẽ biểu đồ về niềm tin
và lý tưởng của sinh viên + chỉnh
Nguyễn Tuấn Anh
Tốt
Huỳnh Tấn Phát
Tốt
sửa, góp ý
Nội dung 2: Thiết kế Powerpoint
PHẦN 3. THUYẾT TRÌNH
Nội dung 3: Thuyết trình về nội
dung của tiểu luận
Lý Thị Kiều Oanh
Huỳnh Mai Thủy Tiên
Tốt
Nguyễn Minh Hiếu
Nội dung 4: Trả lời các câu hỏi, giải
đáp thắc mắc của giảng viên và các
thành viên trong lớp
Tất cả thành các viên
Tốt