Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

NGUYÊN lý về mối LIÊN hệ PHỔ BIẾN và ý NGHĨA LIÊN hệ mẫu 1 vấn đề cụ THỂ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.25 KB, 12 trang )

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ Ý NGHĨA. LIÊN HỆ
VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC NGÂN HÀNG HIỆN NAY
I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT VÀ Ý NGHĨA
1. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng, thể hiện
rõ nét trong thuyết “âm – dương” của Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết
của Hi Lạp cổ đại. Đến khoảng thế kỉ 17 nửa đầu thế kỉ 18, phương pháp siêu hình
thống trị trong tư duy triết học. Từ nửa sau thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19 là thời kì tổng
kết các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống phương pháp biện chứng duy
tâm. Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng
duy vật. Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ 1 loạt hép biện chứng duy vật
được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy luật được
khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật đã
chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua là sự phản ánh
của các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn
thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực
khách quan.Như vậy phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những
quy luật vận động và sự phát triển chung nhất của thế giới. Vì vậy P.Ăngen đã định
nghĩa: “phép biện chứng…là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
2.1. Khái quát về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố
của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để
chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó, những mối
liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa:
các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng… Như


vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù vừa
1


tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định, nhưng đồng thời cũng
tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó, những mối liên hệ đặc thù là sự thể
hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối
liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại,
tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư
duy.
2.2. Cơ sở khoa học
Những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như
trời) hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan,
Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt
đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất
vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật,
hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới
vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà
tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới .
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua
sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện
tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng

hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể đánh
giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ, sự
tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội và tự nhiên thông qua
hoạt động của chính người ấy. Nguyên lý này được dựa trên một khẵng định trước đó
của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở
của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế

2


giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những
dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất.
2.3. Nội dung của nguyên lý
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau.
- Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ
phổ biến
- Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách
tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế
giới.
2.4. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
- Mối liên hệ có tính khách quan
Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự qui định lẫn nhau, tác động
lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản
thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người hay thần linh, thượng đế. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng
đang hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Con người - một sinh
vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác động
của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Chính con

người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con
người phải hiểu biết các mối quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải
quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân
con người .Chỉ có liên hệ với nhau sự vật hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát triển.
Ví dụ Con người có các quan hệ xã hội giữa người này với người khác có như vậy con
người mới tồn tại, vận động và phát triển.
- Mối liên hệ có tính phổ biến
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá
trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng
thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống,
bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ
3


một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ
với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn trong trong tư duy, các sự vật
hiện tượng cũng liện hệ tác động qua lại lẫn nhau. Không thể tìm bất cứ ở đâu, khi nào
các sự vật, hiện tượng lại tồn tại một cách cô lập tách rời. Ví dụ : Trong tự nhiên cây
xanh không chỉ có mối liên hệ với môi trường ( không khí, nhiệt độ…) mà còn có mối
liên hệ với con người ( con người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…). Trong xã hội,
không có người nào mà không có các mối quan hệ xã hội như: quan hệ hàng xóm, gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp…, các hình thái kinh tế-xã hội cũng có mối liên hệ với
nhau, hình thái kinh tế -xã hội sau ra đời từ hình thái kinh tế-xã hội trước(công xã
nguyên thủy-chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa).
Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các sự suy đoán, các tâm tư, tình cảm, các cách suy
nghĩ khác nhau ví dụ như : nhìn vào một người mới gặp lần đầu, con người có các suy
đoán về tính cách, công việc… của người đó. Trong thời đại ngày nay không một quốc
gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời
sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn

cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn
đề toàn cầu như: đói nghèo, môi trường, dân số, chiến tranh và hoà bình.v.v.
- Mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lênin không chỉ khẳng định tính
khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa
dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở
chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể
khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt
khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất
tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với những sự vật
nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ bên trong và bên ngoài,
mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu…
Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ
4


đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể.
+ Mối liên hệ bên trong:
Là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các thuộc
tính, các mặt khác nhau của sự vật, nó giữ vai trò quyết định sự tồn tại, vận động và
phát triển của sự vật. Ví dụ : trong xã hội tư bản chủ nghĩa, có mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản và công nhân giải quyết nó làm cho xã hội phát triển. Trong bản thân con người
có mâu thuẫn giữa hai quá trình đồng hóa và dị hóa giải quyết nó làm cho cơ thể phát
triển…
+ Mối liên hệ bên ngoài:
Là mối liên hệ giữa một sự vật, hiện tượng này với một sự vật hiện tượng khác,

hoặc một sự vật, hiện tượng này với các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ này không quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật
mà nó chỉ đóng vai trò trung gian. Ví dụ : xét xã hội Việt Nam hiện nay có mâu thuẫn
giữa Việt Nam và các nước tư bản chủ nghĩa đó là mối liên hệ bên ngoài giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong tự nhiên, xét một cây xanh thì mối
mối liên hệ bên ngoài là là giữa nó với môi trường sống, với con người…
+ Ngoài ra còn có các mối liên hệ khác như: mối liên hệ bản chất -không bản chất;
mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên v.v….
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân
sự vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong một sự vật
có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ
xác định. Ngoài ra, mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng. Song tuỳ theo
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai
trò quyết định. Nói cách khác, vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp
một phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
2.5. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
a. Quan điểm toàn diện
Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với
các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật,
hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét
5


sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy
luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác
động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên
hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan
điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến

các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất
nhiên... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem
lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức
và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở
những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải
biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người, có cách giao tiếp, “đối nhân xử thế”
phù hợp.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật hiện
tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người,
chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề
của đời sống thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”
b. Quan điểm lịch sử
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng
cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển ,mỗi
giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho
nên khi xem xét sự vật vừa phải xem xét quá trình phát triển của nó, vừa phải xem xét
trong từng điều kiện quá trình. Do đó cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể.
Ví dụ : Nét đặc trưng của xã hội loài người là con người ta phải sản xuất thì
mới có thể tồn tại và phát triển. Thời đại nào cũng phải sản xuất. Như thế, nói theo
ngôn ngữ biện chứng thì sản xuất là một phạm trù “vĩnh viễn”, nghĩa là nó luôn luôn
xảy ra, bất kể trong hình thái xã hội nào, ở giai đoạn nào.
6


Nhưng nền sản xuất ở mỗi thời đại lại có những nét riêng biệt. Thời phong kiến,
nét chủ đạo của nền sản xuất xã hội là ở chỗ: xã hội gồm hai giai cấp chính – nông nô

và lãnh chúa.
Phương thức sản xuất phong kiến này trước kia chưa tồn tại (thời cộng sản
nguyên thủy, hay chiếm nô). Nó chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định, ở giai
đoạn nhất định của lịch sử phát triển xã hội. Khi những điều kiện đó mất đi (cách
mạng tư sản xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của các lãnh chúa) thì phương thức
sản xuất này bị thủ tiêu, kèm theo nó là giai cấp lãnh chúa và nông nô cũng biến mất.
Ta nói rằng phương thức sản xuất phong kiến, cũng như các khái niệm lãnh chúa, nông
nô là những thứ mang tính lịch sử (trái với sản xuất là phạm trù mang tính vĩnh viễn).
Tương tự, phương thức sản xuất TBCN, với đặc trưng là chế độ lao động làm thuê, với
các phạm trù kinh tế như giá trị, giá trị thặng dư, lợi nhuận, bóc lột, giai cấp tư sản, vô
sản… là những thứ mang tính lịch sử.
Quan điểm lịch sử cho rằng ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định, trong những
điều kiện nhất định, thì các sự vật, hiện tượng có những thuộc tính, phạm trù, khái
niệm, quy luật nhất định, tương ứng với giai đoạn đó, điều kiện đó. Vậy, mỗi khi xem
xét một hiện tượng nào đó, ta phải xét xem nó mang tính vĩnh viễn hay lịch sử, và nếu
nó mang tính lịch sử, thì đâu là những điều kiện đã khiến nó phát sinh, phát triển rồi
tiêu vong
Còn thế nào là quan điểm cụ thể ?
Theo Hegel thì “trừu tượng” nghĩa là sự vật đang ở mức độ phát triển rất thấp,
còn rất giản đơn, thiếu các nội dung, thuộc tính. Sự vật càng phát triển thì nó càng có
thêm nhiều nội dung, thuộc tính phong phú hơn, và Hegel gọi là càng “cụ thể” hơn.
Như vậy, khi đề cập tới một sự vật, hiện tượng nào đó, thì không được nói chung
chung, mà phải chỉ rõ: sự vật, hiện tượng đó đang ở mức độ phát triển nào, trong điều
kiện cụ thể nào, với những thuộc tính cụ thể nào. Ví dụ: không nên hỏi “kinh tế thị
trường” một cách chung chung, mà phải nói rõ: “kinh tế thị trường tiền tư bản chủ
nghĩa”, “kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa”, hay “kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa”. Các loại kinh tế thị trường đó có những thuộc tính rất khác nhau.
II. LIÊN HỆ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC NGÂN HÀNG HIỆN NAY
1. Nguyên nhân
7



Quá trình mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới đã tạo ra cho nền kinh tế
Việt Nam nhiều cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng đem đến không ít rủi ro. Hệ
thống ngân hàng tại Việt Nam cũng không nằm ngoài làn sóng ấy. Chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn nhưng hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có rất nhiều biến đổi.
Cụm từ " ngân hàng” ngày càng phổ biến trong các tầng lớp dân cư, xã hội. Hoạt động
ngân hàng đa dạng hơn, các sản phẩm dịch vụ không ngừng gia tăng, các ngân hàng
mới liên tục ra đời, thậm chí có thời điểm cùng lúc thành lập 3 - 4 ngân hàng mới. Số
lượng thì ngày một tăng, nhưng chất lượng thì không tăng tương ứng, quy mô không
đồng đều nhưng lại cùng hoạt động trong một môi trường, cơ chế quản lý, điều hành
của Ngân hàng Nhà nước chưa đầy đủ và chặt chẽ. Sự cạnh tranh gay gắt cùng nhiều
hình thức cạnh tranh không lành mạnh cũng bắt đầu từ đó, và có phần ngày càng khốc
liệt hơn. Kết quả của sự phát triển quá ồ ạt đó là hàng loạt rủi ro: tín dụng, thanh
khoản, lãi suất, tỷ giá đều xảy ra ở tất cả các ngân hàng với các mức độ khác nhau.
Trước tình trạng này, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Việt Nam là rất cần thiết.
Bởi lẽ, nền kinh tế của một quốc gia khó có thể phát triển một cách lành mạnh và ổn
định khi mà hệ thống ngân hàng tồn tại nhiều bất ổn và hoạt động kém hiệu quả.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới năm 1988, tái cấu trúc ngân hàng bao
gồm 1 loạt các biện pháp được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh toán
quốc gia và khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại
trong hệ thống tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng.
2. Động cơ tái cơ cấu lại ngân hàng.
Kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế cho thấy, các quốc gia thường chỉ tiến hành
tái cấu trúc khi có những vẫn đề điển hình nổi lên trong nền kinh tế nói chung và trong
hoạt động của các NHTM nói riêng. Báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới năm
2011 đã chỉ ra một số động cơ của việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng như sau:
- Khủng hoảng tài chính kinh tế - các vấn đề của khu vực kinh tế thực.
- Nợ xấu gia tăng
- Mức vốn yếu so với rủi ro- lo sợ mất khả năng trả nợ.

- Khuôn khổ giám sát và quản lý yếu.
- Thiếu niềm tin vào hệ thống ngân hàng.
3. Mục đích của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Việc tái cấu trúc ngân hàng nhằm hướng đến các mục tiêu ngắn hạn, trung và
dài hạn nhằm giải quyết các yêu cầu về 1 hệ thống ngân hàng “ khỏe mạnh”, khắc
8


phục những yếu kém còn tồn tại trong hệ thống nhằm lành mạnh hóa toàn bộ hệ thống
ngân hàng, đảm bảo hệ thống hoạt động an toàn thông suốt, trở thành kênh dẫn vốn
đáng tin cậy và hiệu quả, giảm thiểu các rủi ro, đáp ứng đầy đủ các điều kiện để thúc
đẩy kinh tế phát triển.
4. Nội dung
- Về vốn: NHNN yêu cầu các ngân hàng lớn tham gia mua cổ phần, tham gia
vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp
nhập nếu cần. NHNN cũng sẽ tham gia giám sát chặt chẽ quá trình này. Theo đó, nếu
các ngân hàng không thể tự tái cấu trúc thì NHNN sẽ can thiệp và thậm chí tính đến
việc hợp nhất hoặc sáp nhập. Trên thực tế, các ngân hàng nhỏ đều có vốn điều lệ dưới
mức quy định tối thiểu (3.000 tỷ đồng) nên không thể tự mình tái cấu trúc nếu không
có sự giúp đỡ từ bên ngoài. Vì vậy, NHNN cùng với các cơ quan giám sát và theo dõi
của cơ quan quản lý để giúp các ngân hàng nhỏ tìm kiếm các đối tác nâng cao năng lực
vốn, năng lực quản trị, đảm bảo thanh khoản và an toàn vốn.
- Về xử lý nợ xấu: NHNN đã ban hành Quyết định số 780/QÐ-NHNN ngày
23/04/2012 cho phép “các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ do
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng có chiều hướng tích cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ, gia hạn nợ được giữ nguyên nhóm nợ như đã được phân loại theo quy định
trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ”.
- Về thanh khoản: NHNN đã phối hợp với các ngân hàng mạnh để cung cấp
thanh khoản cho các ngân hàng yếu để giảm thiểu rủi ro thanh khoản của hệ thống.

Ðồng thời, NHNN đã cho các ngân hàng gia hạn nợ đối với DN và cho phép nhóm 14
ngân hàng mua bán nợ dưới dạng cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về quản trị ngân hàng: NHNN đã ban hành một số văn bản liên quan đến vấn
đề này, đặc biệt là các thông tư thay thế Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010
quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD và Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
TCTD. Theo Ðề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015, thì cuối năm 2015,
TCTD phải đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro
tác nghiệp theo quy định của Basel II.
9


5. Lộ trình
a. Các mục tiêu ngắn và trung hạn
- Thứ 1: duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh
toán, chi trả và hoạt động của các trung gian tài chính không bị đình trệ
- Thứ 2: giải quyết các vấn đề một cách kịp thời nhằm ngăn ngừa sự lây lan
hoặc các vấn đề mang tính hệ thống.
- Thứ 3: khôi phục lại niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Khi
hệ thống được cơ cấu lại, tính thanh khoản của cả hệ thống ổn định, mức độ tín nhiệm
của ngân hàng được nâng cao sẽ tạo được lòng tin của các thành phần kinh tế đối với
hệ thống ngân hàng.
- Thứ 4: tối thiểu hóa chi phí tái cấu trúc đối với Ngân hàng trung ương, song
song với những mục tiêu củng cố sức mạnh cho hệ thống ngân hàng.
b. Các mục tiêu dài hạn
- Thứ 1: tạo ra một khuôn khổ quản lý nhà nước mới, phát triển phương cách
quản trị theo hướng phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế, ngày càng đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu của nền kinh tế.
- Thứ 2: xây dựng tính cạnh tranh và khả năng chống chịu của hệ thống ngân

hàng, đảm bảo hệ thống đủ tiềm lực để có thể đạt được các chuẩn mực của quốc tế,
tăng cường sức mạnh nội tại của ngân hàng, chống lại các mầm mống bất ổn và khủng
hoảng.
- Thứ 3: tăng cường cơ sở hạ tầng tổng thể của hệ thống tài chính, góp phần
thúc đẩy hệ thống tài chính phát triển, tạo cơ sở cho sự ổn định lâu dài của toàn bọ nền
kinh tế.
6. Kết quả của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
Việc thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã đạt được những kết quả nhất
định. Quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD được thực hiện theo đúng lộ trình được
phê duyệt, với những kết quả cụ thể: Hệ thống NHTM đã ngày càng cải thiện được
tính thanh khoản, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ; Giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM,
giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường.
Bên cạnh đó, phải kể đến sự cải thiện đáng kể của hệ thống pháp lý, tạo “đường
ray” thúc đẩy quá trình tái cơ cấu đi nhanh và đúng hướng, đồng thời, mở rộng “cửa”
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.

10


11



×