Tải bản đầy đủ (.doc) (213 trang)

Quản lý giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam Phân tích qua điện và xăng dầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 213 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận án là trung thực. Những tư liệu được sử
dụng trong luận án đều có nguồn gốc trích dẫn
rõ ràng.
Tác giả Luận án

Nguyễn Anh Tuấn

MỤC LỤC


ii

Lời cam đoan
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG

TRANG
i
ii
v
vi
1
15



HÓA THIẾT YẾU VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG HÓA THIẾT YẾU
1.1.1. Khái niệm hàng hóa thiết yếu
1.1.2. Giá cả hàng hóa thiết yếu và mối quan hệ với chỉ số giá tiêu dùng
1.1.3. Đặc điểm của hàng hóa thiết yếu ảnh hưởng tới quản lý giá
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU
1.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa

15
15
18
20
29
29

thiết yếu
1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu
1.2.4. Các hình thức quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu
1.2.5. Đánh giá quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu
1.2.6. Các nhân tố ảnh hướng đến quản lý nhà nước về giá đối với hàng

30
32
35
36
39

hóa thiết yếu

1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM

41

TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA THIẾT
YẾU
1.3.1. Kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết

41

yếu trên thế giới
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam trong quản lý nhà nước về

53

giá đối với hàng hóa thiết yếu
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI

56
57

HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU

57

TẠI VIỆT NAM
2.1.1. Khái quát hàng hóa thiết yếu là điện tại Việt Nam
2.1.2. Khái quát hàng hóa thiết yếu là xăng dầu tại Việt Nam

2.1.3. Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam giai đoạn từ 2013 đến 2018 và tác

57
60
63


iii

động của giá điện, xăng dầu đến chỉ số giá tiêu dùng
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG

65

HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
2.2.1. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết

65

yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam
2.2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về giá đối với điện tại Việt Nam
2.2.3. Thực trạng quản lý nhà nước về giá đối với xăng dầu tại Việt Nam
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI

67
100
117

HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
2.3.1. Những thành tựu trong quản lý nhà nước về giá đối với điện và xăng


117

dầu tại Việt Nam và nguyên nhân
2.3.2. Những hạn chế trong quản lý nhà nước về giá đối với điện và xăng

129

dầu tại Việt Nam và nguyên nhân
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI

142
143

VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI

143

VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
3.1.1. Bối cảnh kinh tế- xã hội ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về giá đối

143

với hàng hóa thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam
3.1.2. Quan điểm và định hướng quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa

145


thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI

149

HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giá đối với điện tại Việt

149

Nam
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giá đối với xăng dầu tại Việt

164

Nam
3.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU KIỆN ĐỂ HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ

187

NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA THIẾT YẾU LÀ ĐIỆN VÀ XĂNG
DẦU TẠI VIỆT NAM
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC BÀI BÁO CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

195
196

198
199
205


iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
BĐS
EVN
GCN
GDP
GTGT
HĐND
LPG
M2
MC
MR
NCS
NH

Nội dung đầy đủ
Bất động sản
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
Giấy chứng nhận
Tổng sản phẩm trong nước
Giá trị gia tăng
Hội đồng Nhân dân

Khí dầu mỏ hóa lỏng
Mét vuông
Chi phí cận biên
Doanh thu cận biên
Nghiên cứu sinh
Ngân hàng


v

NSNN
NXB
QLNN
QSD
QSH
TCTĐL
TP
TTĐB
TTĐN
UBND
USD
VAT
VNĐ

Ngân sách nhà nước
Nhà xuất bản
Quản lý nhà nước
Quyền sử dụng
Quyền sở hữu
Tổng công ty Điện lực

Thành phố
Tiêu thụ đặc biệt
Tổn thất điện năng
Ủy ban Nhân dân
Đô la Mỹ
Thuế giá trị gia tăng
Đồng Việt Nam

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

TÊN ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
Đồ thị 1.1: Cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hóa thiết yếu

Đồ thị 1.2: Biểu diễn đường Chi phí cận biên và doanh thu cận biên
Đồ thị 1.3: Phân biệt giá cấp 1
Hình 1.1: Quá trình đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về giá đối
với hàng hóa thiết yếu
Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn điện Brazil
Bảng 1.2: Giá xăng dầu tại Thái Lan
Bảng 1.3: Chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và giá năng lượng tại In-đô-nê-xi-a
Bảng 1.4: Giá xăng dầu tại Singapore
Bảng 1.5: Giá xăng dầu tại Nhật Bản
Hình 1.2: Tỷ trọng các yếu tố hình thành giá xăng tại Mỹ
Bảng 2.1: Chỉ số giá tiêu dùng của năm tính toán so với năm trước
tại Việt Nam giai đoạn 2013 - 2018
Bảng 2.2: Danh mục các nhà máy thủy điện chiến lược đa mục tiêu
Bảng 2.3: Tổng hợp khung giá phát điện từ năm 2013-2018
Bảng 2.4: Tổng hợp giá các nguồn điện từ năm 2013- 2018
Bảng 2.5: Thống kê giá truyền tải từ năm 2013-2018
Bảng 2.6: Thống kê chi phí khâu phân phối bản lẻ điện từ 20132018
Bảng 2.7: Khung giá bán lẻ điện bình quân từ năm 2013- 2020

Trang
23
26
27
38
43
46
48
49
50
52

64
76
77
81
84
85
92


vi

18
19
21
22
23
24
25

26
27

28
29
30

Bảng 2.8: Giá bán lẻ điện bình quân được phê duyệt từ 2013- 2019
Bảng 2.9: Tổng hợp khung giá bán buôn điện từ năm 2015- 2018
Bảng 2.10: Số lượng doanh nghiệp điện (đơn vị) được kiểm tra từ
2015 – 2018

Bảng 2.11: Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
Bảng 2.12: Số lượng doanh nghiệp xăng dầu được kiểm tra từ 2015
– 2019
Bảng 2.13: Giá bán điện bình quân từ 2010- 2019
Bảng 2.14: Ý kiến đánh giá của chủ thể và đối tượng quản lý về
việc thực hiện các mục tiêu của quản lý nhà nước về giá đối với
điện
Bảng 2.15: Ý kiến đánh giá của chủ thể và đối tượng quản lý về
việc thực hiện công khai, minh bạch và lộ trình thị trường điện
Bảng 2.16: Ý kiến đánh giá của chủ thể và đối tượng quản lý về
việc thực hiện các mục tiêu của quản lý nhà nước về giá đối với
xăng dầu
Bảng 2.17: Ý kiến đánh giá của chủ thể và đối tượng quản lý về
việc thực hiện công khai, minh bạch và quỹ BOG
Bảng 2.18: Ý kiến đánh giá về việc xây dựng chính sách, pháp luật
liên quan đến quản lý nhà nước về giá đối với điện và xăng dầu
Bảng 2.19: Ý kiến đánh giá về khâu phân công, phân cấp; kiểm tra,
đôn đốc liên quan đến quản lý nhà nước về giá đối với điện và xăng
dầu

93
96
99
110
116
118
119

121
124


125
127
137


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quản lý giá nói chung và QLNN về giá nói riêng là một trong những khâu
chính trong hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Quản lý giá vừa là công
cụ, vừa là một trong những đòn bẩy có tính quyết định, đảm bảo sự thành công của
các tác động quản lý khác và của hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô nói chung của
nhà nước. Quản lý giá là hoạt động không thể thiếu được nhằm khắc phục khuyết
tật của thị trường và góp phần khai thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng giá cả; có
vai trò lớn trong việc ổn định chính trị - xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng
cường công bằng xã hội, nhất là như Việt Nam chúng ta.
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật về giá của nước ta đã dần hoàn thiện,
thể chế hóa được đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về quản lý, điều
hành giá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hầu hết giá các
hàng hóa, dịch vụ đã và đang trở thành tín hiệu khách quan, góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành,... Ngoài
mục tiêu bình ổn giá, để góp phần khắc phục những khuyết tật của thị trường, giảm
thiểu tổn thất xã hội, nhà nước vẫn kiểm soát giá một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu
ở mức độ nhất định. Các biện pháp về giá luôn đi đôi với tăng cường công tác kiểm
tra, kiểm soát giá thành sản phẩm; đồng thời chú ý công tác thông tin tuyên truyền,
minh bạch các yếu tố hình thành giá. Song song với các quy định về quản lý giá,
việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về quản lý cạnh tranh đã tạo lập hành
lang pháp lý và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng; mặt khác, góp phần hạn

chế, ngăn chặn các hành vi lạm dụng sức mạnh thống lĩnh thị trường để gây thiệt hại
cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, cơ chế chính sách quản lý của nhà nước
về giá, đặc biệt là giá hàng hóa, dịch vụ thiết yếu còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế
nhất định: Một số hàng hóa thiết yếu thuộc danh mục nhà nước định giá, bình ổn
giá còn có khi chưa được tính đúng, tính đủ và chưa được điều chỉnh kịp thời khi
yếu tố chi phí đầu vào thay đổi; kìm giá một số chi phí đầu vào bằng biện pháp
hành chính và kéo dài, một mặt gây méo mó hệ thống giá, mặt khác dẫn đến việc
điều chỉnh tăng giá liên tục và ở mức cao trong thời gian ngắn; quy định về áp đặt
giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý chưa phù hợp và gây khó khăn cho quá trình
áp dụng trong thực tiễn; điều tiết giá các mặt hàng này còn chưa gắn trực tiếp với
hình thái thị trường của hàng hóa, dịch vụ đó dẫn đến hiệu quả QLNN về giá còn


2

có phần hạn chế… Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện QLNN về giá đối với hàng
hóa thiết yếu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới, đáp ứng yêu cầu trọng tâm
của công cuộc cải cách cơ chế giá và xu hướng hội nhập thế giới là điều cần thiết,
cho nên, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài nghiên cứu luận án của mình là “Quản
lý giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam – Phân tích qua điện và xăng dầu”.
2. Những kết quả đã nghiên cứu ở trong và ngoài nước có liên quan đến
luận án và những định hướng nghiên cứu tiếp của luận án.
Khi đề cập đến quản lý về giá nói chung và QLNN về giá nói riêng đối với
hàng hóa thiết yếu, các nghiên cứu tập trung vào các mảng nội dung lớn như:
những phân tích về hàng hóa thiết yếu, QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu…
Trên cơ sở này, NCS cũng tổng luận theo các nội dung chính nêu trên, tuy nhiên để
có những đánh giá sát thực về tình hình nghiên cứu, cũng như phù hợp với phạm vi
nghiên cứu, NCS tóm lược theo hai nhóm nghiên cứu: nghiên cứu của các tác giả
nước ngoài và nghiên cứu của các tác giả trong nước.

2.1. Các công trình nghiên cứu ở trong nước:
Trong thời gian vừa qua các nghiên cứu của nhóm tác giả trong nước về các
nội dung liên quan đến đề tài luận án tập trung vào hai mảng nội dung như QLNN
về kinh tế và QLNN về giá, các công trình tiêu biểu như sau:
- Các nghiên cứu về QLNN về kinh tế:
Trong các nghiên cứu về QLNN về kinh tế, có những nghiên cứu chung về nội
dung quản lý, có những nghiên cứu lại tập chung vào các nội dung QLNN theo
từng mảng chức năng. Luận án của Đặng Ngọc Lợi với đề tài “Chức năng QLNN
về kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta”, năm 1995 đã
mô tả sự thay đổi cơ bản vai trò, chức năng QLNN về kinh tế trong quá trình
chuyển sang kinh tế thị trường. Một số phương pháp và giải pháp tiếp tục hoàn
thiện chức năng QLNN về kinh tế, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế [25].
Tiếp đến luận án tiến sỹ của Đào Viết Hiền với đề tài “Nâng cao hiệu lực QLNN về
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, 2005 cũng đã đi
vào phân tích, đánh giá thực trạng hiệu lực quản lí nhà nước về kinh tế thời kì đổi
mới, những vấn đề đang đặt ra và nguyên nhân của những hạn chế; quan điểm và
giải pháp nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước về kinh tế ở Việt Nam hiện nay [17].
Bên cạnh những luận án nghiên cứu về QLNN về kinh tế, còn có những cuốn
giáo trình hệ thống hóa tương đối toàn diện về các khía cạnh của QLNN, như: giáo
trình “QLNN về kinh tế” của GS.,TS. Đỗ Hoàng Toàn và PGS.,TS. Mai Văn Bưu,


3

năm 2009 đã hệ thống rõ những vấn đề chung về quản lí nhà nước; chức năng, vai
trò, nguyên tắc và phương pháp của quản lí nhà nước về kinh tế; các công cụ quản
lí vĩ mô về kinh tế của nhà nước; thông tin, quyết định và cơ cấu bộ máy nhà nước
về kinh tế; cán bộ công chức quản lí nhà nước về kinh tế... [45]; Cuốn tài liệu
“QLNN trong nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của
GS.TSKH Lương Xuân Quỳ đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về QLNN đối với

kinh tế, bao gồm các nội dung về lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về vai trò của
QLNN về kinh tế trong nền kinh tế thị trường, cũng như nội dung QLNN về kinh tế
trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ
sở đó, công trình đã phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về kinh tế ở Việt Nam
trong thời gian 1986 - 2005 và định hướng sau 2006 [36]. Giáo trình cao cấp lý
luận chính trị (khối kiến thức thứ ba) “Các vấn đề khoa học chính trị và lãnh đạo,
quản lý” do nhóm biên soạn Ngô Quang Minh, Trần Thị Minh Châu, Đặng Ngọc
Lợi cũng đã trình bày những nội dung cơ bản về quản lý kinh tế trong chương trình
giảng dạy, học tập lý luận chính trị cao cấp: vai trò, chức năng của nhà nước trong
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; mục tiêu
quản lý kinh tế vĩ mô; chính sách kinh tế - công cụ quản lý của nhà nước; bộ máy
QLNN về kinh tế... [28]. Luận án của Đào Anh Tuấn (2013) với đề tài “QLNN về
thương mại điện tử”, ngoài các nội dung chuyên sâu về QLNN về thương mại điện
tử, luận án đặc biệt đã nghiên cứu xây dựng và đề xuất bộ tiêu chí để đánh giá hoạt
động QLNN về thương mại điện tử trên cơ sở vận dụng mô hình Outcome và
phương pháp luận về đánh giá chính sách của Ngân hàng thế giới; các chỉ số trong
bộ tiêu chí này được sử dụng để đánh giá một cách toàn diện các nội dung QLNN
về thương mại điện tử theo các tiêu chí: hiệu lực, hiệu quả, phù hợp và bền vững
[46]. Luận án của Mai Công Quyền (2015) với đề tài “Quản lý của nhà nước đối
với vốn nhà nước tại các Tổng công ty xây dựng nhà nước”, luận án trên cơ sở các
lý thuyết cốt lõi về quản trị vốn trong doanh nghiệp và lý thuyết về quản trị công ty
như: Lý thuyết lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn (trade off) của Kraus và
Litzenberger (1973), Lý thuyết thứ tự tăng vốn (pecking order theory) của Myers
và Majluf (1984), Lý thuyết dòng tiền tự do (free cash flow theory) của Jensen
(1986), Lý thuyết đại diện (acency theory) của Jensen và Meckling (1976), tác giả
Luận án đã xây dựng nội dung và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá quản lý của Nhà
nước đối với vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước bao gồm tính hiệu lực
(Effetiveness); tính hiệu quả (Efficiency) và tính bền vững (Stability) [37].



4

Các nghiên cứu chung về QLNN về kinh tế, cũng như QLNN đối với các lĩnh
vực cụ thể ở trên phần nào đã khái quát chung được về các nội dung cơ bản của
QLNN, như: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, các nguyên tắc QLNN, cũng như
các chức năng của QLNN và một số các tiêu chí đánh giá QLNN. Nhưng những
nghiên cứu này mới dừng ở mức khái quát, chưa chuyên sâu về công tác quản lý
giá, nhất là QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu, cũng như chưa đưa ra được bộ
tiêu chí và mô hình đánh giá QLNN.
- Các nghiên cứu trực tiếp liên quan đến QLNN về giá hàng hóa thiết yếu:
Từ khi Việt Nam chuyển đối nền kinh tế, từ kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã có nhiều tác giả nghiên cứu về
công tác quản lý giá trong nền kinh tế thị trường như: Nhóm tác giả Lưu Húc Minh,
Mậu Đại Văn, Đỗ Ngọc Toàn dịch cuốn sách “Quản lý giá cả trong kinh tế thị
trường” năm 1994 là tài liệu tham khảo và nghiên cứu về quản lý của nước ngoài,
nhất là một số nước và lãnh thổ có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; trình bày có hệ
thống quá trình tham gia của Nhà nước vào quản lý giá cả và rút ra những kinh
nghiệm thực tiễn đã đem lại hiệu quả kinh tế cao của các nước như: Mỹ, Anh, Pháp,
Nhật Bản, Italia… [27]. Tác giả Trần Hậu Thự với cuốn sách “Vai trò quản lý của
nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” năm 1994 đã đưa ra những
luận cứ khoa học khẳng định vai trò của Nhà nước đối với việc quán lý giả cả thị
trường: Những vấn đề lý luận chung về giá và chính sách quản lý giá; quan điểm và
phương hướng đổi mới chính và cơ chế quản lý giá; chính sách và cơ chế quản lý
của nhà nước đối với giá các loại hàng hoá [41]. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, Viện nghiên cứu thương mại, 1999 “Luận cứ khoa học của tổ chức thị trường
và lưu thông một số mặt hàng thiết yếu theo yêu cầu bảo hộ sản xuất trong nước và
bảo vệ người tiêu dùng trong nước một số năm trước mắt” đã nghiên cứu một số
vấn đề chủ yếu của tổ chức thị trường và lưu thông hàng hoá theo yêu cầu bảo hộ
sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng; trên cơ sở đó, đề tài đã đánh giá
thực trạng tổ chức thị trường và lưu thông một số mặt hàng thiết yếu của nước ta;

đề xuất một số khuyến nghị về tổ chức thị trường và lưu thông hàng hoá theo yêu
cầu bảo hộ sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng. Tác giả Nguyễn Minh
Phong với bài viết “Quản lý giá trong suy giảm kinh tế toàn cầu” đã phân tích khái
quát về công tác quản lý giá trong giai đoạn 2009 và những kiến nghị cho công tác
quản lý giá trong điều kiện suy giảm kinh tế toàn cầu [31]. Tác giả Nguyễn Tiến
Thỏa năm 2010 với cuốn sách “Con đường cải cách giá ở Việt Nam” đã phác họa ra


5

bức tranh về công tác quản lý giá trong giai đoạn từ khi đổi mới đến năm 2010
[38]. Đề tài nghiên cứu độc lập Cấp Nhà nước, mã số 58G/2011/HĐ-ĐTĐL năm
2013 “Hoàn thiện chính sách và cơ chế điều tiết cung cầu bình ổn thị trường một số
hàng hoá thiết yếu” đã tổng quan những vấn đề lý luận về điều tiết cung – cầu, bình
ổn thị trường trong nền kinh tế thị trường, những công cụ điều tiết cung cầu hàng
hoá thiết yếu (tập trung vào chính sách và cơ chế điều tiết cung cầu 3 hàng hoá thiết
yếu là gạo, đường ăn, phân bón urê); phân tích và đánh giá thực tiễn cung cầu các
mặt hàng thiết yếu; đánh giá các chính sách và cơ chế điều tiết cung cầu các mặt
hàng này trong giai đoạn 2001- 2011; trên cơ sở đó, định hướng và đề xuất nội
dung chính sách và cơ chế điều tiết cung cầu một số hàng hoá thiết yếu thời kỳ đến
2015; đề xuất điều kiện và giải pháp thực hiện chính sách và cơ chế điều tiết cung
cầu hàng hoá trong những trường hợp cần thiết thời kỳ đến 2015 [5]. Tác giả Phạm
Minh Thụy, năm 2013 đã có bài viết trên trong Hội thảo về “Một số vấn đề nguyên
tắc trong QLNN về giá hàng hóa dịch vụ do các doanh nghiệp có vị trí độc quyền
sản xuất – kinh doanh ở Việt Nam”, trong đó đã phân tích về công tác quản lý giá
và đề xuất các giải pháp quản lý giá hàng hóa của các doanh nghiệp có vị trí độc
quyền ở Việt Nam [43]. Bản thân NCS cũng đã làm chủ nhiệm đề tài cấp Bộ năm
2014 với đề tài “Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ
công tác QLNN trong lĩnh vực quản lý giá và thẩm định giá”, trong đó nhấn mạnh
việc áp dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực QLNN về giá [48]. Bên cạnh các

nghiên cứu chung về quản lý giá trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại,
cũng đã có những nghiên cứu về quản lý giá đối với các loại hàng hóa cụ thể, trong
đó tiêu biểu là các nghiên cứu sau đây: NXB Chính trị Quốc gia năm 2002 đã xuất
bản cuốn sách “Một số quy định của Nhà nước về quản lý giá”, trong đó giới thiệu
những qui định pháp luật về quản lý giá trong một số lĩnh vực: giao thông vận tải,
đất đai, nhà ở, điện, nước sản xuất và tiêu dùng, bưu chính viễn thông, đầu tư - xây
dựng; quản lý tài chính trong chi phí và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp nhà
nước [29]. Luận án Tiến sỹ kinh tế “Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất
lượng quản lý giá xây dựng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của
Trần Thị Hồng Mai năm 2001 đã trình bày các lý luận chung về quản lý giá xây
dựng; tình hình quản lý giá xây dựng ở Việt Nam, một số nước trong khu vực và
trên thế giới; những giải pháp nâng cao chất lượng quản lý giá xây dựng ở Việt
Nam [26]; bản thân NCS cũng đã có nghiên cứu liên quan đến nội dung này thông
qua đề tài cấp Bộ năm 2012 với tiêu đề “Xây dựng lộ trình giá trị trường đối với


6

dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn 2013- 2018”, trong đó đề xuất các lộ trình
kèm cách thức quản lý trong mỗi giai đoạn cụ thể đối với dịch vụ khám chữa bệnh
[47]. Nhóm tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2012 với chủ đề “Nghiên
cứu đổi mới quản lý giá cước viễn thông nhằm phát triển bền vững thị trường viễn
thông” đã đưa ra những cách thức quản lý giá cước viễn thông, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý… [18].
Về quản lý giá một số mặt hàng tiêu biểu có các nghiên cứu sau: (1). Đối với
quản lý giá điện có các nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Nguyễn Thị Vịnh
Long năm 2002 với tiêu đề “Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc hoàn thiện hệ
thống giá bán điện ở Việt Nam theo hướng sử dụng điện hợp lý, hiệu quả trong xu
thế hội nhập” [23]. Các bài viết trong Hội thảo khoa học “Quản lý, điều hành giá
điện theo cơ chế thị trường ở Việt Nam” năm 2012, như: bài viết “Các yếu tố ảnh

hưởng đến giá điện ở Việt Nam trong hội nhập và sự lựa chọn” của PGS.TS.
Nguyễn Thường Lạng; bài viết của Phạm Minh Thụy với tiêu đề “Tổng quan về cơ
chế quản lý, điều hành giá điện ở Việt Nam” cũng đã có những đánh giá tổng quát
về cơ chế điều hành của Nhà nước đối với giá điện và phân tích một số nội dung
liên quan đến khâu phát điện, truyền tải và phân phối điện… Cục Quản lý giá cũng
đã chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Hoàn thiện cơ chế
QLNN về giá đối với điện ở Việt Nam”, trong đó cũng đã đưa ra những phân tích
và đánh giá về cơ chế QLNN về giá điện hiện nay, cũng như đề xuất một số giải
pháp để hoàn thiện cơ chế này….; (2). Đối với quản lý giá xăng dầu có các nghiên
cứu: Bài viết “Cơ chế quản lý giá xăng dầu của Trung Quốc”, năm 2008, số 217
trên tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương; tác giả Nguyễn Thanh Hương, năm
2013, nghiên cứu chuyên đề với chủ đề “Hoàn thiện cơ chế quản lý giá xăng dầu ở
nước ta” [19] và một số báo cáo của Cục Quản lý giá cũng đã khẳng định tiếp tục
đổi mới cơ chế quản lý và điều hành giá xăng dầu nhằm bảo đảm để giá xăng dầu
vận hành theo cơ chế thị trường; nhà nước không bù lỗ kinh doanh mặt hàng xăng
dầu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ về giá, cạnh tranh
trong sản xuất kinh doanh và cạnh tranh về giá; tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời đảm bảo vai trò QLNN về giá
hướng vào việc khắc phục tình trạng độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh về
giá, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã
hội; bình ổn giá, ngăn ngừa tác động tự phát của giá thế giới vào hệ thống giá trong
nước, đẩy giá trong nước tăng quá cao hoặc giảm quá thấp bất hợp lý; đồng thời đã


7

khắc phục được những nhược điểm của cơ chế quản lý kinh doanh xăng dầu trước
kia, đặc biệt trong khâu quản lý giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Tiếp theo, Bộ Tài
chính đã có hướng dẫn cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng Quỹ Bình ổn giá
xăng dầu; theo đó, giá bán xăng dầu được quy định cụ thể như sau: "Giá bán xăng

dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước”. Bản thân
NCS với tư cách là Chủ nhiệm đề tài cũng đã chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ về “Hoàn thiện cơ chế QLNN về giá đối với xăng dầu ở Việt
Nam” năm 2019, trong đó cũng đã đưa ra những phân tích và đánh giá về cơ chế
QLNN về giá đối với xăng dầu hiện nay, cũng như đề xuất một số giải pháp để
hoàn thiện cơ chế này; đặc biệt, phân tích trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng, cộng với một số thay đổi về cơ chế, chính sách hiện hành, sự
tăng lên nhanh chóng đối với nguồn cung ứng xăng dầu trong nước trong thời gian
sắp tới, sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài trong kinh doanh xăng dầu,... đã đặt ra
yêu cầu cấp thiết phải đánh giá lại toàn diện cơ chế điều tiết giá đối với mặt hàng
xăng dầu [50].
Ngoài ra còn có các nghiên cứu trực tiếp về quản lý giá đối với hàng hóa thiết
yếu như: TS. Vũ Đình Ánh, trong Tọa đàm khoa học Hoàn thiện cơ chế QLNN về
giá đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu do các doanh nghiệp có vị trí độc quyền,
thống lĩnh thị trường sản xuất- kinh doanh, năm 2013 có bài viết “Bàn về QLNN về
giá đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu” [2]. PGS.,TS. Ngô Trí Long bài viết trong
Hội thảo về quản lý giá với tiêu đề “Chính sách điều tiết giá những hàng hóa quan
trọng, thiết yếu và những kiến nghị”. Bản thân NCS cũng đã có nghiên cứu về nội
dung này thông qua đề tài cấp Bộ năm 2014 và bài viết đăng trên Tạp chí kinh tếtài chính Việt Nam số 2 tháng 10/2015 với chủ đề “Hoàn thiện cơ chế QLNN về giá
đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu do các doanh nghiệp có vị trí độc quyền, thống
lĩnh thị trường sản xuất- kinh doanh” [49].
Như vậy, các nghiên cứu trên đã đi vào phần tích nội dung về quản lý giá đối
với một số mặt hàng thiết yếu, như: khẳng định tính tất yếu khách quan cần có sự
quản lý của nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu, phân tích các chính sách và
các công cụ chính sách, các quy định của pháp luật trong QLNN về giá đối với
hàng hóa thiết yếu,...
2.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài:
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, nội dung QLNN về giá thực sự được
trình bày có hệ thống và trở thành học thuyết được các nhà kinh tế học chấp nhận



8

đó là trường hợp của nhà kinh tế học người Anh, Jonh Maynard Keynes (1883 1946), ông nổi tiếng với lý thuyết “Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường”/“lý
thuyết bàn tay hữu hình”; trong đó nội dung quản lý giá đã được J.M.Keynes đề
cập đến trong lý thuyết của mình và đã được Prederic S. Lee mô tả lại chi tiết trong
cuốn sách “Post Keynesian price theory” do trường đại học Cambridge phát hành
năm 1998, trong cuốn sách đã mô tả rõ các nghiên cứu một số thuyết giá cả trong
học thuyết kinh tế của Keynes, như: thuyết quản lý giá cả, thuyết giá cả thông
thường, thuyết về đánh mã. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những lý thuyết chung về
quản lý giá cả [59]. Năm 1999, NXB McGraw-Hill companies đã phát hành cuốn
sách “Cost management: A strategic emphasis” của tác giả Blocher, cuốn sách giới
thiệu chung về vấn đề quản lý giá cả; những khái niệm về quản lí giá cả hiện thời;
những phân tích chung về kế hoạch và hệ thống giá cả cùng các phương pháp tổ
chức quản lý giá cả này [55]. Luận án tiến sỹ kinh tế “QLNN về giá cả hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Liane Thykeo,
năm 2001 đã có những phân tích về cac chức năng và công cụ của QLNN về giá cả
tại Lào [58]. Công bố của nhóm nghiên cứu Ngân hàng thế giới năm 2006 “Small
states: making the most of development assistance”, trong đó đi vào phân tích
những đặc thù riêng của các tiểu quốc; đánh giá hoạt động ngân hàng trong mỗi
quốc gia; tận dụng sự giúp đỡ của ngân hàng thế giới giúp các quốc gia quản lý giá
cả cùng một số bài học kinh nghiệm. Luận án của Nguyen Tuan Anh, University of
New South Wales, Sydney năm 2011 với chủ đề “Medicine prices and pricing
policies” đã tổng quan phân tích về thị trường dược phẩm Việt Nam và các qui chế,
chính sách quản lý giá thuốc; nghiên cứu định lượng về giá thuốc và định tính để
tìm hiểu tại sao giá thuốc ở nước ta lại cao [54]. Luận án của Nguyen Thien Hao
với đề tài “Urbanization of water: Entitlements and local institutions in the
provision of potable water in peri-urban Hanoi, Vietnam” tại Đại học University of
Hawaii năm 2012 đã nghiên cứu quản lý nước sạch vùng ven đô Hà Nội - Trường
hợp ở xã Cổ Nhuế, Hà Nội; những đối phó của người dân xã Cổ Nhuế đối với thay

đổi về nguồn nước địa phương, dân số và điều kiện kinh tế xã hội; tổ chức và quản
lý cung cấp nguồn nước sạch cho người dân Cổ Nhuế trong bối cảnh đô thị hoá
nhanh chóng...[56].
Các nghiên cứu trên đã hệ thống tổng quan về các lý thuyết quản lý giá, nhất
là quản lý giá trong nền kinh tế thị trường, các nghiên cứu đã khẳng định vai trò
của nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và điều tiết giá nói riêng.


9

Một số nghiên cứu đã tìm hiểu chuyên sâu về công tác quản lý giá đối với một số
mặt hàng thiết yếu, như giá điện, giá thuốc, giá nước sạch, giá xăng dầu... Tuy
nhiên, các nghiên cứu trên mới dừng ở những lý thuyết chung về quản lý giá, chưa
đi trực diện vào công tác quản lý giá đối với hàng hóa thiết yếu, cũng như chưa có
nhiều nghiên cứu gắn trực tiếp với bối cảnh của Việt Nam.
2.3. Các khoảng trống nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở những tổng quan về các nghiên cứu trong nước và nước ngoài ở
trên, NCS thấy rằng các nghiên cứu này chưa làm rõ được các đặc điểm của hàng
hóa thiết yếu, mà chính vì các đặc điểm đó đòi hỏi phải quản lý, cũng như đòi hỏi
các chính sách quản lý phải phù hợp; đồng thời các nghiên cứu này cũng chưa phân
tích được rõ các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý giá đối với hàng hóa thiết
yếu tại Việt Nam, cũng chưa đưa ra được bộ tiêu chí để đánh giá QLNN về giá đối
với hàng hóa thiết yếu, đặc biệt các nghiên cứu trên chưa nghiên cứu và phân tích
hoạt động QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu theo tiến trình quản lý nên các nội
dung QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu không được phân tích chuyên sâu và
logic… Do vậy, những vấn đề chưa được nghiên cứu nêu trên, NCS sẽ đi vào phân
tích và làm rõ trong các nội dung của bản luận án này, cụ thể các câu hỏi nghiên cứu
đặt ra là:
- Hiểu như thế nào về hàng hóa thiết yếu trong nền kinh tế thị trường? các đặc
trưng của hàng hóa thiết yếu cần lưu ý trong công tác quản lý giá là gì?

- QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu trong bối cảnh hiện nay được hiểu như
thế nào?
- Nội dung của QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu là gì?
- Các tiêu chí đánh giá QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu?
- Các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu?
- Các nước trên thế giới thực hiện việc quản lý giá đối với hàng hóa thiết yếu như
thế nào?
- Sự thay đổi giá điện và xăng dầu ảnh hưởng như thế nào đến chỉ số giá tiêu
dùng tại Việt Nam?
- Thực trạng công tác QLNN về giá đối với điện và xăng dầu hiện nay ở Việt
Nam như thế nào?
- QLNN về giá đối với điện và xăng dầu hiện nay ở Việt Nam có những thành
công và hạn chế gì? Nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó?


10

- Có những giải pháp hoàn thiện và tăng cường QLNN về giá đối với điện và
xăng dầu hiện nay ở Việt Nam?
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là hệ thống hóa cơ sở lý luận, phân tích kinh
nghiệm quốc tế liên quan đến QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu; đánh giá thực
trạng QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam; đề
xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách vĩ mô, cũng như các giải pháp cụ thể của
QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tổng hợp, hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận về hàng hóa thiết yếu và QLNN
về giá đối với hàng hóa thiết yếu; xem xét có chọn lọc kinh nghiệm thực tiễn QLNN
về giá đối với hàng hóa thiết yếu của một số nước trên thế giới vào Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam Phân tích qua điện và xăng dầu; chỉ ra những ưu, nhược điểm của QLNN về giá đối

với điện và xăng dầu trước những yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập sâu rộng như hiện nay;
- Đề xuất giải pháp xây dựng và hoàn thiện QLNN về giá đối với hàng hóa
thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam đến năm 2030, qua đó góp phần thực
hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hệ thống giá trong điều kiện mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận án tập trung nghiên cứu QLNN về giá đối với
hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam thông qua hai mặt hàng: điện và xăng dầu.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: do quản lý giá có nhiều nội dung khác nhau, nên luận án tập
trung nghiên cứu QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam. Mặt khác,
hàng hóa thiết yếu cũng có nhiều loại khác nhau nên luận án giới hạn nghiên cứu là
hai nhóm hàng hóa thiết yếu và có mức độ ảnh hưởng lớn đến đời sống: điện và
xăng dầu; trong mỗi loại hàng hóa đó lại tập trung phân tích về chiến lược giá, hệ
thống luật pháp, cũng như tổ chức thực hiện và giám sát QLNN về giá đối với các
hàng hóa đó.
+ Về không gian: luận án nghiên cứu QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu
trên phạm vi cả nước, trong đó tập trung vào hai nhóm hàng hóa là điện và xăng dầu.


11

+ Về thời gian: phần thực trạng, luận án nghiên cứu QLNN về giá đối với
hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam - Phân tích qua điện và xăng dầu từ năm 2013 đến
năm 2018. Các giải pháp luận án đưa ra cho giai đoạn đến năm 2030.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận: luận án đưa ra khái niệm về hàng hóa thiết yếu, phân tích rõ
đặc điểm mang tính đặc trưng của hàng hóa thiết yếu, trong đó gắn cụ thể với mặt
hàng điện và xăng dầu; làm rõ sự ảnh hưởng của giá hàng hóa thiết yếu tới chỉ số
giá tiêu dùng; cũng như đưa ra khái niệm QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu,

từ đó xác định rõ chủ thể, đối tượng quản lý, các nguyên tắc quản lý và đặc biệt là
khái quát 3 nội dung cơ bản của QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu, cũng như
các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu. Luận án đã
xây dựng hệ thống gồm 6 tiêu chí đánh giá, đồng thời xác định mô hình đánh giá
QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu. Bên cạnh đó, luận án cũng tổng hợp và hệ
thống các kinh nghiệm trong QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu là điện và
xăng dầu trên thế giới, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong
công tác QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu là điện và xăng dầu.
- Về mặt thực tiễn: luận án làm rõ các nội dung chung về hai mặt hàng đặc
biệt quan trọng, thiết yếu tại Việt Nam là điện và xăng dầu; phân tích mức độ tác
động của giá điện và xăng dầu đối với chỉ số giá tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt, luận án đã tập trung phân tích thực trạng QLNN về giá đối với điện và
xăng dầu tại Việt Nam trong thời gian qua theo các nhóm nội dung QLNN, phù hợp
với đặc trưng của từng mặt hàng, từ đó để thấy được bức tranh toàn cảnh về QLNN
về giá đối với điện và xăng dầu hiện nay tại Việt Nam. Luận án cũng đánh giá toàn
diện về những mặt được và tồn tại, cũng như nguyên nhân của những ưu điểm và
tồn tại đó, đây chính là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN
về giá đối với điện và xăng dầu tại Việt Nam trong thời gian tới. Luận án đưa ra các
quan điểm, định hướng cụ thể trong QLNN về giá đối với điện và xăng dầu tại Việt
Nam trong thời gian tới phù hợp với định hướng chung của đất nước và phù hợp
với xu thế phát triển của thế giới; trên cơ sở đó đã phân tích và luận giải các giải
pháp cụ thể theo từng nội dung của QLNN về giá đối với hai nhóm hàng hóa thiết
yếu là điện và xăng dầu nhằm hướng đến việc hoàn thiện QLNN về giá đối với
hàng hóa thiết yếu nói chung, đối với điện và xăng dầu nói riêng. Việc đề xuất các
giải pháp được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với những đặc trưng cơ bản của
hai hàng hóa này, cũng như phù hợp với xu hướng quản lý thị trường nói chung.


12


6. Phương pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận nghiên cứu: xuất phát từ những khoảng trống trong các
nghiên cứu lý luận quản lý về giá nói chung và QLNN về giá nói riêng đối với hàng
hóa thiết yếu; cũng như từ những vấn đề thực tiễn chưa giải quyết được trong các
nội dung QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam giai đoạn vừa qua,
luận án đã nêu ra các câu hỏi nghiên cứu cần giải quyết. Xuất phát từ các câu hỏi
nghiên cứu đó, kết hợp với việc xem xét các mô hình, các lý thuyết về QLNN về
giá đối với hàng hóa thiết yếu, các kết quả từ phân tích thực trạng... cũng như định
hướng chiến lược trong quản lý giá nói chung và quản lý giá đối với hàng hóa thiết
yếu nói riêng tới năm 2030, luận án đã tập trung đề xuất các giải pháp để hoàn
thiện QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam.
- Phương pháp luận: Ngoài việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu trong khoa học xã hội bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, như: phương pháp thống
kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp...
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Trên cơ sở những nghiên cứu lý thuyết, tác giả xây dựng khung lý thuyết cho
những phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu: sử
dụng cách tiếp cận theo quá trình quản lý để đi vào phân tích các bộ phận của
QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu; sử dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá QLNN
để đánh giá công tác QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu tại Việt Nam hiện nay; sử
dụng mô hình SWOT để đánh giá cơ hội và thách thức, điểm mạnh và điểm yếu của
QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu trong bối cảnh hiện nay. Trong các nghiên
cứu của luận án, có sử dụng số liệu sơ cấp và thứ cấp, cụ thể:
+ Về số liệu sơ cấp, nhằm đưa ra đánh giá chính xác và có kết luận mang tính
thực tiễn công tác QLNN về giá đối với hàng hóa thiết yếu là điện và xăng dầu tại
Việt Nam, tác giả đã thực hiện điều tra và phỏng vấn:
(1). Đối với hàng hóa thiết yếu là điện:
o Tác giả luận án đã phát ra: 110 phiếu đối với nhóm chủ thể quản lý (gồm cả
các cơ quan QLNN, đơn vị nghiên cứu, đào tạo) và thu về 101 phiếu, sau khi mã

hóa và làm sạch, tổng số phiếu hợp lệ có được là 95 phiếu (mẫu d1); 200 phiếu đối
với nhóm đối tượng quản lý (gồm các công ty tham gia vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh điện, người tiêu dùng) và thu về 175 phiếu, sau khi mã hóa và làm sạch,
tổng số phiếu hợp lệ có được là 160 phiếu (mẫu h1).


13

o Các phiếu điều tra gồm có 13 câu hỏi đóng và 1 câu hỏi mở, 13 câu hỏi
đóng được chia làm 2 nhóm: Nhóm 1 là câu hỏi đánh giá về mục tiêu quản lý hiện
hành, gồm 3 câu; Nhóm 2 là câu hỏi đánh giá về thực trạng các nội dung của
QLNN về giá đối với điện, gồm 10 câu.
(2). Đối với hàng hóa thiết yếu là xăng dầu:
o Tác giả luận án đã phát ra: 130 phiếu đối với nhóm chủ thể quản lý (gồm cả
các cơ quan nhà nước, đơn vị nghiên cứu, đào tạo) và thu về 110 phiếu, sau khi mã
hóa và làm sạch, tổng số phiếu hợp lệ có được là 105 phiếu (mẫu d2); 200 phiếu
đối với nhóm đối tượng quản lý (gồm các công ty tham gia vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh xăng dầu, người tiêu dùng) và thu về 165 phiếu, sau khi mã hóa và làm
sạch, tổng số phiếu hợp lệ có được là 155 phiếu (mẫu h2) .
o Các phiếu điều tra cũng gồm có 13 câu hỏi đóng và 1 câu hỏi mở, 13 câu
hỏi đóng được chia làm 2 nhóm: Nhóm 1 là câu hỏi đánh giá về mục tiêu quản lý
hiện hành, gồm 3 câu; Nhóm 2 là câu hỏi đánh giá về thực trạng các nội dung của
QLNN về giá đối với xăng dầu, gồm 10 câu.
+ Về cơ sở dữ liệu và số liệu thứ cấp được tác giả thu thập và tổng hợp từ
các báo cáo của các cơ quan QLNN (Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư,…), các công trình nghiên cứu khoa học, sách, giáo trình,
các tạp chí, các trang thông tin điện tử…, luận án còn sử dụng các số liệu thống kê
của Tổng cục Thống kê, các số liệu trong tài liệu đánh giá tác động do Chính phủ
thực hiện khi soạn thảo các Luật và nghị định liên quan đến quản lý điện và xăng
dầu và thông tin trên website về các nội dung của QLNN về giá đối với hàng hóa

thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam hiện nay.
Bảng 1: Tiến độ quá trình điều tra
Dạng nghiên cứu
Sơ bộ
Chính thức

Kỹ thuật

Thời gian

Thảo luận, phỏng vấn

Tháng 9- 11/2018

Phát phiếu điều tra

Tháng 3- 9/2019

Phương pháp nghiên cứu thực trạng: việc điều tra, phỏng vấn được thực hiện
từ năm 2018 thông qua hai bước: nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức.
Nghiên cứu sơ bộ sử dụng phương pháp thảo luận tay đôi, kết hợp với phỏng vấn
chuyên gia nhằm khai thác những vấn đề xung quanh đề tài nghiên cứu và kiểm
định lại ngôn ngữ, cấu trúc trình bày bảng câu hỏi điều tra, đồng thời cũng để loại
thải những biến không cần thiết. Kết quả của lần nghiên cứu này là các bảng câu


14

hỏi điều tra theo hai nhóm mặt hàng, trong mỗi mặt hàng lại chia hai nhóm đối
tượng như đã đề cập đến ở trên. Từ kết quả của bước 1, Tác giả đã tiến hành nghiên

cứu bước 2, tiến độ nghiên cứu được trình bày tại Bảng 1.
Từ số phiếu làm sạch với 2 nhóm mặt hàng điện và xăng dầu, theo 2 đối tượng
khác nhau, tác giả đã sử dụng phần mềm SPSS 22 để phân tích. Phiếu điều tra được
tác giả phân theo 2 nhóm mặt hàng (điện và xăng dầu), mỗi mặt hàng phân thành 2
nhóm (nhóm chủ thể quản lý - nhóm chủ thể quản lý là các cán bộ công chức, viên
chức thuộc Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
các Viện nghiên cứu, các Trường Đại học và Cao đẳng,… và nhóm đối tượng quản
lý là các người tiêu dùng, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng
tương ứng…). Để xử lý số liệu, đối với 13 câu hỏi tác giả đã đặt tương ứng với 13
biến, được ký hiệu từ X1 đến X13, đối với mỗi câu hỏi có 5 mức độ trả lời, gồm:
mức độ rất đồng ý, mức độ đồng ý, mức độ tương đối đồng ý, mức độ không đồng
ý và mức độ rất không đồng ý, từ đó, mỗi biến số tương ứng với từng câu hỏi là
biến rời rạc, nhận 5 giá trị khác nhau: X = 5 tương ứng với ý kiến rất đồng ý, X = 4
tương ứng với ý kiến đồng ý, X = 3 tương ứng với ý kiến tương đối đồng ý, X = 2
tương ứng với ý kiến không đồng ý và X = 1 tương ứng với ý kiến rất không đồng
ý. Dựa trên việc mã hóa số liệu trên, tác giả đã sử dụng phần mềm SPSS 22 để xử
lý số liệu, với mỗi biến nêu trên tác giả tính toán các chỉ tiêu: giá trị trung bình, độ
lệch chuẩn, mốt, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất và sử dụng bảng phân phối tần số
để biểu thị kết quả phân tích. Kết quả xử lý số liệu được tác giả trình bày ở Phụ lục
của Luận án.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Danh mục chữ viết tắt, Danh mục bảng biểu, Kết luận,
Danh mục Tài liệu tham khảo; Luận án gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu và
kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa thiết yếu là
điện và xăng dầu tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giá đối với hàng hóa
thiết yếu là điện và xăng dầu tại Việt Nam



15

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ ĐỐI VỚI
HÀNG HÓA THIẾT YẾU
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG HÓA THIẾT YẾU
1.1.1. Khái niệm hàng hóa thiết yếu
Thuật ngữ hàng hóa thiết yếu đã được đại bộ phận người dân sử dụng từ lâu
và cho đến thời điểm hiện nay đã được sử dụng tương đối phổ biến trong đời sống,
cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng và đặc biệt là trong công tác
QLNN.
Ngay từ những năm 1986, thuật ngữ hành hóa thiết yếu đã được đề cập đến tại
Quyết định số 122-HĐBT ngày 04/10/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc bán
cho công nhân viên chức một số mặt hàng thiết yếu theo định lượng với giá ổn định
của nhà nước và tăng mức phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt cho công nhân viên
chức, có 6 mặt hàng thiết yếu được bán cho công nhân viên chức theo định lượng
với giá ổn định của Nhà nước gồm: lương thực, chất đốt, nước mắm, xà phòng, thịt,
đường.
Năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998
về Phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc; theo đó, 9
mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống được nhà nước thực hiện trợ giá,
trợ cước gồm: muối i-ốt, giống cây trồng, dầu hỏa thắp sáng, giấy viết học sinh,
sách, thuốc chữa bệnh, phân bón, thuốc trừ sâu và than mỏ.
Năm 2002, Pháp lệnh Giá được ban hành như một bước tiến cơ bản để hoàn
thiện hệ thống pháp luật về quản lý giá ở nước ta, Pháp lệnh Giá đã đưa ra những
quy định đối với những hàng hóa quan trọng, thiết yếu. The đó, Nhà nước thực hiện
các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào quan hệ cung cầu để bình ổn giá
thị trường. So với giai đoạn trước, danh mục hàng hóa quan trọng, thiết yếu cũng
có nhiều thay đổi, được cụ thể hóa tại Nghị định số 170/2003/NĐ-CP, gồm các mặt

hàng: xăng, dầu, khí hoá lỏng, xi măng, sắt thép, phân bón, lúa, gạo, cà phê, bông
hạt và bông xơ, mía cây nguyên liệu, muối; một số loại thuốc phòng, chữa bệnh cho
người dịch vụ theo quy định của pháp luật. Quan niệm về hàng hóa dịch vụ thiết
yếu chưa thống nhất ở các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến QLNN về
giá. [33]


16

Năm 2012, Luật Giá được ban hành đã chính thức đưa ra cách hiểu hàng hóa
thiết yếu: đó là những hàng hóa không thể thiếu cho sản xuất, đời sống, quốc
phòng, an ninh, bao gồm: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, dịch vụ chính phục vụ
sản xuất, lưu thông; sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người và quốc
phòng, an ninh. [33]
Như vậy, cách hiểu về hàng hóa thiết yếu trong Luật Giá về cơ bản đã thể hiện
được bản chất của loại hàng hóa này, đó là tính “thiết yếu” – theo như Từ điển tiếng
Việt năm 1992 của Viện ngôn ngữ học giải thích: “Thiết yếu là rất cần thiết, không
thể thiếu được”. Từ đó, Luận án đưa ra cách hiểu về thuật ngữ “hàng hóa thiết yếu”
như sau: Hàng hoá thiết yếu là loại hàng hoá cần thiết, không thể thiếu trong
cuộc sống bình thường của đại đa số người tiêu dùng.
Hàng hoá hay hàng hóa thiết yếu cũng đều là sản phẩm của lao động, nó có
thể thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi,
mua bán. Hàng hóa thiết yếu có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị, trong đó:
- Giá trị sử dụng: là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người, không kể nhu cầu đó được thỏa mãn trực tiếp hay gián tiếp. Đặc
trưng giá trị sử dụng của hàng hóa:
+ Hàng hóa có thể có một hay nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau.
Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được,
mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật.
+ Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì giá trị sử dụng hay công dụng

của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu
dùng (tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cho cá nhân), nó là nội dung vật chất của
của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.
+ Hàng hóa càng phong phú, đa dạng, hiện đại thì giá trị sử dụng càng cao.
- Giá trị hàng hóa: Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị
sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá.
Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật
được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.
Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Muốn hiểu được
giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi.


17

Giá trị trao đổi: là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị
sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Hai vật thể khác
nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Các
hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh được
với nhau trong khi trao đổi: các hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, sản phẩm
của lao động là do lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Thực chất các
chủ thể khi trao đổi hàng hóa với nhau là trao đổi lao động chứa đựng trong hàng
hóa. Như vậy, giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh
trong hàng hoá, đặc trưng của giá trị hàng hóa:
+ Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là chỉ tồn tại ở những phương thức sản
xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa.
+ Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là quan hệ kinh tế
giữa những người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, quan hệ kinh tế giữa người với người biểu hiện thành quan hệ giữa

vật với vật. Hiện tượng vật thống trị mgười gọi là sự sùng bái hàng hóa, khi tiền tệ
xuất hiện thì đỉnh cao của sự sùng bái hàng hóa là sự sùng bái tiền tệ.
+ Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ
sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.
- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
+ Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Hai
thuộc tính trên đều do cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa.
+ Hai thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự đối lập
và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm ra hàng hóa
đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có chú ý đến giá
trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ
chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó
người mua phải trả giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị
tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó giá
trị sử dụng mới được thực hiện. [24]
Trên cơ sở những lập luận trên thấy rằng việc xếp hàng hóa nào là hàng hóa
thiết yếu cũng có tính tương đối nhất định và tùy thuộc vào từng thời kì, từng khu
vực cụ thể. Tuy nhiên, để thuận lợi cho công tác quản lý giá hướng đến các mục
tiêu cụ thể về kinh tế- xã hội thì Nhà nước thường đưa ra danh mục cụ thể về hàng


18

hóa thiết yếu trong từng giai đoạn nhất định. Hiện nay, trong Luật giá quy định
danh mục hàng hóa thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống được đưa vào diện
bình ổn giá cụ thể như sau: Xăng, dầu thành phẩm; Điện; Khí dầu mỏ hóa lỏng
(LPG); Phân đạm; phân NPK; Thuốc bảo vệ thực vật theo quy định của pháp luật;
Vac-xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm; Muối ăn; Sữa dành cho trẻ em dưới 06
tuổi; Đường ăn, bao gồm đường trắng và đường tinh luyện; Thóc, gạo tẻ thường;
Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết

yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật. Đồng
thời, Luật giá cũng quy định danh mục những hàng hóa này có thể thay đổi và
trong trường hợp đó, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định. [33]
Như vậy, khi nói đến hàng hóa thiết yếu có thể đề cập đến nhiều loại hàng hóa
khác nhau miễn là đáp ứng được các tiêu chí đề cập trong khái niệm như đề cập ở
trên. Trong phạm vi Luận án chỉ nghiên cứu cụ thể về hai nhóm hàng hóa thiết yếu
đặc biệt quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội đó là điện và xăng dầu.
1.1.2. Giá cả hàng hóa thiết yếu và mối quan hệ với chỉ số giá tiêu dùng
1.1.2.1. Giá cả hàng hóa thiết yếu
Theo quan điểm của kinh tế chính trị học, giả cả hàng hóa thiết yếu là sự biểu
hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa thiết yếu đó. Trong nền sản xuất hàng hóa, để
sản xuất ra một sản phẩm hàng hóa thiết yếu thường có nhiều người sản xuất cùng
tham gia, nhưng điều kiện sản xuất khác nhau, vì vậy, mức hao phí lao động cá biệt
của từng nhà sản xuất sẽ khác nhau (giá trị cá biệt khác nhau). Tuy nhiên, trên thị
trường, người mua chỉ chấp nhận một mức giá trị của hàng hóa thiết yếu, đó là giá
trị thị trường. Giá trị thị trường là kết quả của sự san bằng các giá trị cá biệt của
một hàng hóa thiết yếu thông qua cạnh tranh, cạnh tranh trong nội bộ dẫn đến hình
thành một giá trị xã hội là cơ sở của giá cả. Quan niệm này có ý nghĩa quan trọng
đối với việc phân tích bản chất của các quan hệ kinh tế và giá trị thặng dư trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Còn đứng trên quan điểm của các nhà kinh tế học thì giá cả hàng hóa thiết yếu
được xác định bằng tiền, được hình thành trong quan hệ mua bán. Giá cả hàng hóa
thiết yếu là một số tiền nhất định yêu cầu chào bán hay thanh toán cho một hàng
hoá thiết yếu nào đó; phản ánh chi phí bằng tiền mà người mua phải bỏ ra, phản
ánh thu nhập mà người bán nhận được. Giá cả có thể được công bố rộng rãi trước
công chúng hoặc có thể được giữ bí mật. Tuỳ thuộc vào cung cầu, mức giá trả cho
hàng hoá hoặc dịch vụ có thể chênh lệch rất lớn so với giá trị của hàng hoá. Tuy


19


nhiên, nhìn chung, trong thị trường cạnh tranh, giá cả thường phản ánh được giá trị
tương đối của hàng hoá mà người mua và người bán quan tâm.
Như vậy, dù theo quan điểm nào đi nữa, khi nói đến giá cả hàng hóa thiết yếu,
chúng ta đều hiểu đây là biểu hiện bằng tiền của giá trị, nghĩa là số lượng tiền phải
trả cho hàng hoá thiết yếu đó. Giá cả của hàng hoá thiết yếu là đại lượng thay đổi
xoay quanh giá trị của hàng hóa thiết yếu. Khi cung và cầu của một hay một
nhóm hàng hóa thiết yếu về cơ bản ăn khớp với nhau, thì giá cả hàng hóa thiết yếu
phản ánh và phù hợp với giá trị của hàng hoá thiết yếu đó. Tuy nhiên, thường giá cả
của hàng hoá thiết yếu sẽ cao hơn giá trị của hàng hoá thiết yếu nếu số lượng cung
thấp hơn cầu và ngược lại, nếu cung vượt cầu thì giá cả hàng hóa thiết yếu sẽ thấp
hơn giá trị của hàng hoá thiết yếu đó. Giá cả của một hàng hóa thiết yếu phụ thuộc:
- Giá trị của bản thân hàng hoá thiết yếu đó, tức là phụ thuộc vào thời gian lao
động và công sức lao động để làm ra hàng hóa thiết yếu đó;
- Giá trị của đồng tiền;
- Quan hệ cung và cầu về hàng hoá.
1.1.2.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ tiêu tương đối, được tính bằng %, phản ánh
xu hướng và mức độ biến động giá cả chung qua thời gian của các loại hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng hàng ngày của người dân.
Để tính mức độ biến động giá chung của các loại hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng
cần chọn ra một danh mục các loại hàng hoá, dịch vụ chủ yếu đang được tiêu dùng
phổ biến; danh mục này được gọi là “rổ” hàng hoá. Nói cách khác, CPI là chỉ tiêu
thống kê phản ánh mức độ biến động giá cả theo thời gian của toàn bộ “rổ” hàng
hoá tiêu dùng. Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện gồm các mặt hàng và dịch
vụ chủ yếu, đại diện cho tiêu dùng của dân cư trong một giai đoạn nhất định, được
sử dụng để điều tra thu thập giá định kỳ, tính CPI.
Để tính CPI, cần xác định danh mục hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng phổ biến
của người dân (còn được gọi là danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện hay là “rổ”
hàng hóa) và thực hiện việc thu thập giá hàng tháng đối với các loại hàng hóa, dịch

vụ này; đồng thời xác định quyền số cố định tương ứng với các nhóm trong danh
mục hàng hóa và dịch vụ đại diện.
Quyền số để tính chỉ số giá tiêu dùng là tỷ trọng mức tiêu dùng tương ứng của
mỗi nhóm hàng hóa và dịch vụ đại diện trong tổng mức chi tiêu dùng cho đời sống


×