Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Xã hội hóa dịch vụ công chứng, chứng thực – qua thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THẢO

X· HéI HãA DÞCH Vô C¤NG CHøNG, CHøNG THùC QUA THùC TIÔN THµNH PHè Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THẢO

X· HéI HãA DÞCH Vô C¤NG CHøNG, CHøNG THùC QUA THùC TIÔN THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ


công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG,
CHỨNG THỰC VÀ XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG CÔNG
CHỨNG, CHỨNG THỰC ................................................................ 6
1.1.
Một số vấn đề lý luận về công chứng, chứng thực .......................... 6
1.1.1. Khái niệm công chứng, khái niệm chứng thực .................................... 6
1.1.2. Phân biệt công chứng, chứng thực ..................................................... 10
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động công chứng, chứng thực ............................. 14
1.1.4. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động công chứng, chứng
thực ở Việt Nam ................................................................................. 18
1.2.
1.2.1.

1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.

Một số vấn đề lý luận về xã hội hoá hoạt động công chứng,
chứng thực......................................................................................... 28
Khái niệm xã hội hoá hoạt động công chứng, chứng thực................. 28
Đặc điểm XHH hoạt động công chứng, chứng thực ở Việt Nam ...... 30
Sự cần thiết phải XHH hoạt động công chứng, chứng thực ở
Việt Nam ............................................................................................ 30
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn thực hiện xã hội hoá hoạt động
công chứng, chứng thực ở Việt Nam ................................................. 32

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG, CHỨNG
THỰC VÀ XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG,
CHỨNG THỰC Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .................... 35
2.1.

Thực trạng pháp luật về công chứng, chứng thực ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................. 35

2.2.

Thực trạng xã hội hóa về công chứng, chứng thực ở Thành
phố Hà Nội hiện nay ......................................................................... 42


Đánh giá chung pháp luật về công chứng, chứng thực và xã hội
hóa công chứng, chứng thực ở Thành phố Hà Nội hiện nay ........... 47
2.3.1. Đánh giá chung pháp luật về công chứng, chứng thực ...................... 47

2.3.2. Đánh giá hoạt động xã hội hóa công chứng, chứng thực ở thành
phố Hà Nội hiện nay........................................................................... 60
2.4.
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên ...................................... 68
2.3.

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG
CHỨNG, CHỨNG THỰC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÃ
HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ........................................... 71
3.1.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực ....... 71
3.1.1. Một số ý kiến hoàn thiện Luật Công chứng ....................................... 71
3.1.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao
từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
và chứng thực hợp đồng, giao dịch .................................................... 75
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
3.2.6.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xã hội hóa hoạt động
công chứng ở thành phố Hà Nội hiện nay ...................................... 78
Phân bổ các Văn phòng công chứng cho phù hợp với nhu cầu
công chứng tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội ....... 78
Nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ công chứng viên.................. 79

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật
về công chứng .................................................................................... 80
Nâng cao ý thức pháp luật của các công chứng viên và người dân ........ 81
Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật
về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ...... 82
Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng ....... 84

KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam trải qua nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới và đã đạt
được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Những thành tựu đó đã thúc đẩy chúng ta
phải có những sự đổi mới nhanh chóng bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp,
trong đó công tác xã hội hoá dịch vụ công chứng, chứng thực là vấn để được
quan tâm nhiều nhất hiện nay.
Trong quá trình xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, Đảng đã ra Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ: “Xây dựng, hoàn
thiện hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu,
bình đẳng cho mọi người dân” và “Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức
cung ứng dịch vụ công cộng”, “phát huy tiềm năng, trí tuệ và các nguồn lực
vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội để cùng Nhà nước giải quyết các vấn
đề xã hội và chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng” nhằm khuyến khích
các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện tham gia vào hoạt động cộng góp phần
xây dựng và phát triển Nhà nước Việt Nam.
Nhà nước đã triển khai thực hiện và đã đạt được kết quả trong việc xã
hội hoá một số lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, do vậy mà dịch
vụ công chứng, chứng thực được Nhà nước tiếp tục cho phép xã hội hoá.

Ngày 20 tháng 6 năm 2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua Luật số 53/2014/QH13 (luật công
chứng) có hiệu lực ngày 01/01/2015, gồm 10 chương, 81 điều quy định về
công chứng, xác lập cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thực hiện chủ trương xã
hội hoá dịch vụ công chứng, chứng thực nước ta.
Trong những năm vừa qua, với sự ra đời của Luật công chứng, dịch vụ
công chứng, chứng thực đã đạt được kết quả khả quan: hạn chế được tình

1


trạng quá tải tại các Phòng công chứng, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà
Nội với mức độ dân cư cao và nhu cầu công chứng lớn, nâng cao chất lượng
phục vụ tại các Phòng công chứng, Văn phòng công chứng, đã đáp ứng được
cơ bản nhu cầu công chứng của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó, thực
hiện xã hội hoá hoạt động công chứng vẫn còn tồn tại những hạn chế, khiếm
khuyết. Để phát huy kết quả đạt được và khắc phục hạn chếcủa hoạt động
công chứng hiện nay cần có những biện pháp nâng cao hiệu quả xã hội hoá
hoạt động này.
Với lý do trên em đã lựa chọn đề tài “Xã hội hoá dịch vụ công chứng,
chứng thực – qua thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sĩ –
Trường đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xã hội hóa công chứng là vấn đề không còn mới ở Việt Nam nói
chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng, tuy nhiên thực tiễn áp dụng còn nhiều
hạn chế, bất cập. Cho đến nay vấn đề xã hội hóa dịch vụ công chứng, chứng
thực chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ; Chưa có
một đề tài nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận về xã hội hóa công
chứng, chứng thực, thực trạng và giải pháp qua nhiều năm thực hiện Luật
Công chứng. Ví dụ: Luận án tiến sĩ Luật học: “Tổ chức và hoạt động công

chứng nhà nước ở nước ta hiện nay” của tác giả Dương Khánh, 2002; Luận
văn thạc sĩ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Lê Kim Hoa, 2003; Bài“Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và
hoạt động của cơ quan công chứng” của tác giả Lê Khả đăng trên báo Pháp
luật, ngày 18/2/2003; “Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách
hành chính và cải cách tư pháp” của tác giả Trần Thất, đăng trên tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 6/2004; “Công chứng, chứng thực ở việt Nam – Thực
trạng và định hướng phát triển” của tác giả Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí

2


Dân chủ và pháp luật, số 7/2002.Luận án tiến sĩ Luật học “Nghiên cứu pháp
luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận
cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008; Luận văn thạc sĩ “Phân cấp
quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực (Qua thực tiễn tại thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008; Luận văn thạc sĩ “Xã hội hóa
công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Nguyễn Quang Minh năm 2009; Luận văn thạc sĩ “Xã hội hóa công
chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” của tác giả Phạm Thị
Mai Trang năm 2011; Bài viết “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây
ra” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số
14(199), tháng 7 năm 2011; Bài viết “Kiến nghị hoàn thiện Luật Công
chứng” của tác giả Lê Quốc Hùng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số
1+2 (210+211), tháng l năm 2012; Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về quản lý
nhà nước đối với văn phòng công chứng” của tác giả Phan Hải Hồ đăng trên
tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (222), tháng 7 năm 2012.
Trong một số luận án, luận văn, bài viết về công chứng, xã hội hóa
công chứng, chứng thực mới chỉ được nghiên cứu trước giai đoạn luật công

chứng năm 2014 có hiệu lực và đề cập đến như là một trong các giải pháp
hoàn thiện pháp luật công chứng và nghiên cứu hoặc đổi mới tổ chức hoạt
động công chứng ở Việt Nam cũng như thành phố Hà Nội hiện nay hoặc
được đề cập đến như một trong các hoạt động bổ trợ tư pháp cần thiết phải
xã hội hóa. Đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu
về Xã hội hóa hoạt động công chứng, chứng thực qua thực tiễn ở thành phố
Hà Nội hiện nay. Có thể khẳng định, đề tài “Xã hội hóa dịch vụ công chứng,
chứng thực – qua thực tiễn thành phố Hà Nội” là đề tài đầu tiên nghiên cứu
về khía cạnh này.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu một số vấn đề về hoạt động công chứng trong thời
gian qua, luận văn đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực tiễn dịch vụ công
chứng, chứng thực,đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dịch
vụ công chứng, chứng thực, phục vụ tốt nhất nhu cầu, lợi ích của nhân dân.
Mục đích cao nhất của luận văn là đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào sự
nghiệp hoàn thiện và phát triển hoạt động công chứng, chứng thực nước nhà.
Nhiệm vụ nghiên cứu là làm rõ các vấn đề bất cập trong quá trình áp
dụng pháp luật từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng,
chứng thực qua thực tiễn thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm: Luật công chứng, xã hội hóa
dịch vụ công chứng, chứng thực; thực tiễn hoạt động công chứng chứng thực
tại thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Xã hội hóa dịch vụ công chứng, chứng thực là một lĩnh vực có phạm vi

nghiên cứu tương đối rộng, song dưới góc lý luận và lịch sử Nhà nước và
pháp luật và qua quá trình thực tiễn hành nghề công chứng của bản thân, luận
văn chủ yếu tập trung nghiên cứu trong phạm vi như sau:
- Về nội dung: Nghiên cứu xã hội hóa dịch vụ công chứng, chứng thực
trên cơ sở luật công chứng, chứng thực và thực tiễn thành phố Hà Nội.
- Về không gian: Thành phố Hà Nội
- Về thời gian: Tính từ ngày Luật công chứng năm 2014 có hiệu lực
đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

4


của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu, ngoài ra còn kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể... để làm sáng tỏ
các vấn đề được đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Những giải pháp trong luận văn được đưa ra nhằm hoàn thiện pháp
luật về công chứng, chứng thực và nâng cao hiệu quả thực hiện xã hội hóa về
công chứng, chứng thực ở Thành phố Hà Nội. Những giải pháp mà tác giả đề
xuất có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, có tính khả thi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 3 chương, gồm:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về công chứng, chứng thực và xã hội
hoá hoạt động công chứng, chứng thực.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về công chứng, chứng thực và xã hội
hoá dịch vụ công chứng ở thành phố Hà Nội.

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực
và nâng cao hiệu quả xã hội hoá hoạt động công chứng, chứng thực ở thành
phố Hà Nội hiện nay.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC VÀ
XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC
1.1. Một số vấn đề lý luận về công chứng, chứng thực
1.1.1. Khái niệm công chứng, khái niệm chứng thực
Khái niệm công chứng đâu đó đã được nhắc đến ở nước ta từ những
năm 1930 dưới thời Pháp thuộc, tuy nhiên thuật ngữ này mãi đến năm 1987
mới được sử dụng rộng rãi hơn.
Việc xác định chính xác khái niệm công chứng có ý nghĩa và vai trò
quan trọng, nó không những ảnh hưởng đến mô hình tổ chức, cơ chế hoạt
động mà căn cứ vào nó người ta còn có thể xác định được phạm vi, nội dung
công chứng và thậm chí đến cả các quyền và nghĩa vụ của những cá nhân, tổ
chức được nhà nước giao cho quyền năng này.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Công chứng là sự chứng thực của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm xác nhận về mặt pháp lý các văn bản và bản
sao từ bản gốc” [23], còn theo nghĩa thông thường thì công chứng là “công
quyền làm chứng”. Về mặt pháp lý, khái niệm công chứng được chính thức
quy định trong văn bản pháp luật tại thông tư số 574/QLTPK ngày
10/10/1987 của Bộ tư pháp hướng dẫn công tác công chứng nhà nước. Theo
thông tư số 574/QLTPK thì:
Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước nhằm giúp
công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện
có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hoá các văn bản, sự kiện đó, làm cho

các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên,
công chứng nhà nước tạo ra những đảm bảo pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù

6


hợp với hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật giúp cho việc giải
quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế
Xã hội chủ nghĩa [2].
Từ đó đến nay khái niệm công chứng được tiếp tục quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành,
đó là: Điều 1 Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng bộ trưởng
về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước; Điều 1 Nghị định số 3 L/CP
ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước;
Điều 2 Nghị định số 75/2000/NĐ – CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công
chứng, chứng thực, Điều 2 Luật công chứng được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006
(có hiệu lực ngày 01/07/2007). Hiện nay, khái niệm công chứng được quy định
tại Điều 2 Luật công chứng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20/06/2014 (có hiệu lực
ngày 01/01/2015) (Sau đây được gọi là Luật công chứng năm 2014).
Khái niệm công chứng theo Điều 2 Luật công chứng được hiểu như sau:
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề
công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao
dịch dân sự khác bằng văn bản (Sau đây gọi là hợp đồng, giao
dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản
dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (Sau đây gọi là bản dịch) mà theo

quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng [10, Điều 2].
Khái niệm nêu trên đã thể hiện được đúng bản chất của hoạt động công
chứng, nêu được rõ chủ thể, mục đích của hoạt động này cũng như các hành

7


vi mà chủ thế tiến hành khi thực hiện hoạt động công chứng, xác định được
giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Khái niệm còn thể hiện được ý muốn
chủ quan của chủ thể tham gia hoạt động công chứng. Theo đó kể cả trong
trường hợp mà pháp luật không yêu cầu nhưng chủ thể yêu cầu công chứng đề
nghị thì các hợp đồng, giao dịch đó vẫn được công chứng (nội dung hợp
đồng, giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội). Cụ thể:
 Chủ thể của hoạt động công chứng là các cá nhân (cụ thể là các công
chứng viên) được nhà nước giao quyền trực tiếp thực hiện các hành vi đó chứ
không phải là cơ quan chủ quản (Phòng công chứng, Văn phòng công chứng,
hay các lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước nước
ngoài) của các cá nhân đó. Công chứng viên tự chịu trách nhiệm cá nhân
trước pháp luật về việc công chứng do mình thực hiện (Điều này phù hợp với
nguyên tắc được quy định tại Điều 3 Luật công chứng năm 2014).
 Đối tượng của hoạt động công chứng là các giao dịch, hợp đồng được
xác lập trong các quan hệ kinh tế, thương mại, dân sự; công chứng tính chính
xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ
tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (Ví
dụ như dịch Bằng tốt nghiệp từ tiếng Việt sang Tiếng anh rồi công chứng vào
bản dịch đó). Các hợp đồng, giao dịch này có thể được pháp luật yêu cầu phải
công chứng hoặc tuy pháp luật không yêu cầu phải công chứng nhưng được
các chủ thể yêu cầu công chứng đề nghị.
 Nội dung của hoạt động công chứng là chứng nhận tính xác thực, tính

hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch; tính chính xác, hợp pháp, không trái
đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước
ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt [10] (Ví dụ: Chứng nhận Hợp
đồng mua bán căn hộ chung cư). Tất cả đều nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia Hợp đồng, giao dịch … ngăn ngừa vi
phạm pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

8


Cũng giống như công chứng, chứng thực cũng là một thể chế pháp lý
xuất hiện ở nước ta từ lâu tuy nhiên không được mọi người chú ý nhiều như
cụm từ công chứng.
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, Nxb Đà Nẵng năm 1997,
chứng thực được định nghĩa “Nhận cho để làm bằng chứng là đúng sự thật.
Chứng thực lời khai. Xác nhận là đúng. Thực tiễn đã chứng thực điều đó” [9].
Còn theo nghĩa thông thường, “Chứng thực là làm chứng việc có thực”.
Về mặt pháp lý, khái niệm chứng thực được chính thức quy định trong
văn bản pháp luật tại Điều 2 Nghị định của Chính phủ ban hành số 75/2000/NĐCP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực. Theo đó “Chứng thực là việc
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao
dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các
giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này”[3]. Khái niệm chứng thực
tiếp tục được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, đó là: Điều 2 Nghị
định chính phủ số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 quy định về việc
cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;
Hiện nay, khái niệm chứng thực được quy định tại Điều 2 Nghị định của Chính
phủ ban hành số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 quy định về việc cấp bản sao
từ số gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực
hợp đồng, giao dịch (có hiệu lực ngày 10/04/2015).
Khái niệm chứng thực quy định tại Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐCP cụ thể như sau:

Cấp bản sao từ sổ gốc là việc cơ quan, tổ chức đang quản lý sổ gốc,
căn cứ vào sổ gốc để cấp bản sao. Bản sao từ sổ gốc có nội dung
đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc.
Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để
chứng thực bản sao đúng vơi bản chính.

9


Chứng thực chữ ký là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy
định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là
chữ ký của người yêu cầu chứng thực.
Chứng thực hợp đồng, giao dịch là việc cơ quan có thẩm quyền
theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm
giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự; ý chí tự
nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng,
giao dịch [4, Điều 2].
Khái niệm chứng thực cũng đã thể hiện được rõ bản chất của hoạt động
chứng thực, được chia cụ thể thành 4 loại chứng thực đó là “Cấp bản sao từ sổ
gốc” (hay còn hay gọi là chứng thực bản sao từ sổ gốc), “chứng thực bản sao”,
“chứng thực chữ ký”, “chứng thực hợp đồng, giao dịch” chứ không còn quy định
chung chung như khái niệm quy định trong Nghị Định số 75/2000/NĐ-CP.
Trong khái niệm chứng thực quy định trong Nghị Định số 75/2000/NĐ-CP còn
liệt kê một số các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng thực, quy định thẩm
quyền chứng thực một cách chung, tuy nhiên theo quy định tại Điều 5 Nghị số
23/2015/NĐ-CP, thẩm quyền chứng thực đã được quy định một cách cụ thể, rõ
ràng hơn đối với từng cơ quan, ngoài các cơ quan nhà nước ra thì còn quy định
về thẩm quyền của công chứng viên tại Khoản 4 Điều 5 của Nghị định số
23/2015/NĐ-CP cụ thể như sau: “Công chứng viên có thẩm quyền và trách

nhiệm chứng thực các việc quy định tại Điểm a Khoản 1, Điểm b Khoản 2 Điều
này, ký chứng thực và đóng dấu của Phòng công chứng, Văn phòng công chứng
(sau đây gọi chung là tổ chức hành nghề công chứng)” [4].
1.1.2. Phân biệt công chứng, chứng thực
Khái niệm công chứng và khái niệm chứng thực là hai khái niệm hoàn
toàn khác nhau, nhưng không phải ai cũng biết nó khác nhau ở những điểm gì
thậm chí nhiều người còn nghĩ hai khái niệm này là giống nhau. Dưới đây, tác
giả phân tích sự khác biệt giữa công chứng và chứng thực như sau:

10


Công chứng

Tiêu chí
Khái niệm

Chứng thực

Công chứng là việc công chứng Là việc cơ quan, tổ chức có
viên của một tổ chức hành nghề thẩm quyền theo quy định
công chứng chứng nhận tính xác thực hiện 4 loại chứng thực đó
thực, hợp pháp của hợp đồng, là “Cấp bản sao từ sổ gốc”
giao dịch dân sự khác bằng văn (hay còn hay gọi là chứng
bản (sau đây gọi là hợp đồng, thực bản sao từ sổ gốc),
giao dịch), tính chính xác, hợp “chứng thực bản sao”, “chứng
pháp, không trái đạo đức xã hội thực chữ ký”, “chứng thực
của bản dịch giấy tờ, văn bản từ hợp đồng, giao dịch” [4].
tiếng Việt sang tiếng nước ngoài (Khoản 1,2,3,4 Điều 2 Nghị
hoặc từ tiếng nước ngoài sang định 23/2015/NĐ-CP)

tiếng Việt (sau đây gọi là bản
dịch) mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá
nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng [10].
(Khoản 1 Điều 2 Luật công chứng)

Cá nhân, tổ - Do tổ chức hành nghề công - Phòng Tư pháp (cụ thể là
chức, cơ

chứng thực hiện (Phòng công Trường phòng, phó trưởng

quan có

chứng hoặc Văn phòng công phòng Tư pháp cấp huyện);[4]

thẩm

chứng) mà cụ thể là các Công - UBND xã, phường (Cụ thể

quyền

chứng viên tại các Phòng và là chủ tịch, phó chủ tịch);[4]
Văn phòng công chứng thực - Cơ quan đại diện ngoại giao,
hiện.

Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ
quan khác được ủy quyền thực
hiện chức năng lãnh sự của


11


Tiêu chí

Công chứng

Chứng thực
Việt Nam ở nước ngoài; [4]
- Công chứng viên của Phòng
công chứng hoặc Văn phòng
công chứng.
Tùy từng loại giấy tờ mà thực
hiện chứng thực ở các cơ quan
khác nhau [4].

Bản chất

- Công chứng viên chịu trách - Chứng nhận về thời gian, địa
nhiệm về tính chính xác của nội điểm, chữ ký của người yêu
dung, chủ thể, đối tượng của cầu. Bản chính các loại giấy tờ
hợp đồng, giao dịch.
- Mang tính pháp lý cao hơn

Giá trị

- Văn bản công chứng có hiệu lực - Bản sao được chứng thực từ

pháp lý


kể từ ngày được công chứng viên bản chính có giá trị sử dụng
ký và đóng dấu của tổ chức hành thay cho bản chính đã dùng để
nghề công chứng [10].

đối chiếu chứng thực trong

- Hợp đồng, giao dịch được công các giao dịch, trừ trường hợp
chứng có hiệu lực thi hành đối pháp luật có quy định khác [4]
với các bên liên quan; trong - Chữ ký được chứng thực có
trường hợp bên có nghĩa vụ giá trị chứng minh người yêu
không thực hiện nghĩa vụ của cầu chứng thực đã ký chữ ký
mình thì bên kia có quyền yêu đó, là căn cứ để xác định trách
cầu Tòa án giải quyết theo quy nhiệm của người ký về nội
định pháp luật, trừ trường hợp dung của giấy tờ, văn bản [4]
các bên tham gia hợp đồng, giao - Hợp đồng, giao dịch được

12


Công chứng

Tiêu chí

Chứng thực

dịch có thỏa thuận khác [10]

chứng thực có giá trị chứng cứ

- Hợp đồng, giao dịch được chứng minh về thời gian, địa

công chứng có giá trị chứng cứ; điểm các bên đã ký kết hợp
những tình tiết, sự kiện trong đồng, giao dịch; năng lực
hợp đồng, giao dịch được công hành vi dân sự, ý chí tự
chứng không phải chứng minh, nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm
trừ trường hợp bị Tòa án tuyên chỉ của các bên tham gia hợp
bố là vô hiệu [10]

đồng, giao dịch [4].

- Bản dịch được công chứng có (Giá trị văn bản được chứng
giá trị sử dụng như giấy tờ, văn thực quy định tại Điều 3 Nghị
bản được dịch [10]

định 23/2015/NĐ-CP)

(Giá trị Văn bản công chứng
được quy định tại Điều 5 Luật
công chứng)
Thời hạn

Đối với các giao dịch bình Thời hạn chứng thực là không
thường thì thời hạn công chứng quá 02 ngày làm việc kể từ
là không quá 02 ngày làm việc khi người yêu cầu nộp đủ hồ
kể từ khi người có yêu cầu nộp sơ hoặc theo thỏa thuận với
đủ hồ sơ

người có yêu cầu bằng văn

Đối với các giao dịch có mức bản.
độ khó hơn thì thời hạn công

chứng là không quá 10 ngày
làm việc kể từ khi người yêu
cầu công chứng nộp đủ hồ sơ.

13


1.1.3. Đặc điểm của hoạt động công chứng, chứng thực
Qua nghiên cứu khái niệm, bản chất của hoạt động công chứng, chứng
thực và từ thực tiễn hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta, chúng ta có
thể thấy hoạt động công chứng, chứng thực có một số đặc điểm sau:
 Hoạt động công chứng, chứng thực do các công chứng viên thực hiện.
Khoản 1 Điều 17 luật công chứng năm 2014 quy định quyền của công
chứng viên:
Được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của
pháp luật; Được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch
vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; Giải thích cho người yêu cầu
công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý
nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối
yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu
công chứng; Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu
cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình
là công chứng viên hợp danh [10].
Khoản 4 Điều 5 Nghị định 23/2015/NĐ-CP cũng quy định về thẩm
quyền và trách nhiệm chứng thực của Công chứng viên.
Như vậy ta thấy, hoạt động công chứng, chứng thực là do chính Công
chứng viên thực hiện. Công chứng viên có sự độc lập trong tác nghiệp chuyên
môn, công chứng viên trực tiếp tiếp nhận hồ sơ công chứng từ người yêu cầu
công chứng, thực hiện hoặc từ chối công chứng, chứng thực theo quy định

của pháp luật, công chứng viên không chịu trách nhiệm trước các cơ quan cấp
trên hay trước trưởng phòng, trưởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật về Văn bản công chứng, chứng thực của mình.

14


 Hoạt động công chứng tạo lập các văn bản có giá trị pháp lý:
Luật công chứng năm 2014 quy định:
Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký
và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng [10, Điều 5]. Hợp
đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các
bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp
đồng, giao dịch có thỏa thuận khác [10, Điều 5].
Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công
chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch
được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là
vô hiệu”[10, Điều 5, Khoản 3]. Điều đó có nghĩa là khi hợp đồng, giao dịch đã
được công chứng thì nó đương nhiên trở thành chứng cứ, nếu có tranh chấp xảy
ra thì nó như một bằng chứng để chứng minh sự việc đó mà không cần phải
chứng minh nó là chứng cứ trừ trường hợp Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
 Nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của
hợp đồng, giao dịch.
Công chứng viên kiểm tra và chứng nhận các giao dịch, hợp đồng. Tính
chính xác về thời gian, địa điểm, các giấy tờ về nhân thân và tài sản, xác nhận
ý chí của các bên tham gia là đúng, không có sự đe dọa hay cưỡng bức khi
tham gia Hợp đồng, giao dịch mà tham gia hoàn toàn tự nguyện. Do các Hợp
đồng, giao dịch có tính chất thời điểm nhất định do đó cần có sự công chứng

chứng nhận của Công chứng viên mới tránh được các tranh chấp xảy ra.
 Các loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng.
Pháp luật quy định một số hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải công
chứng. Ví dụ: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo yêu cầu của pháp luật

15


bắt buộc phải công chứng mới làm thủ tục sang tên quyền sở hữu căn hộ
chung cư đó theo luật nhà ở năm 2014 “Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi,
góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương
mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều này” [12, Điều 122, Khoản 1].
Một số hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công
chứng mà pháp luật không bắt buộc phải công chứng. Ví dụ: Hợp đồng thuê
nhà theo quy định của pháp luật không bắt buộc phải công chứng vẫn có giá
trị pháp lý theo Luật Nhà ở năm 2014 quy định về công chứng, chứng thực
hợp đồng về nhà ở lại quy định “đối với trường hợp cho thuê, cho mượn, cho
ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì không bắt buộc phải công chứng, chứng
thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu” [12, Điều 122, Khoản 2].
 Hoạt động công chứng, chứng thực chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà
nước. Cụ thể:
Quy mô của hoạt động công chứng, chứng thực dựa trên yêu cầu quản
lý của nhà nước. Hiện nay nước ta có hai hình thức tổ chức hành nghề công
chứng là Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Các “Phòng công
chứng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập” [10] có các công
chứng viên là công chức, viên chức hưởng chế độ lương theo đơn vị sự
nghiệp công lập và trưởng phòng Phòng công chứng do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Đối với các Văn phòng công chứng, việc thành lập phải được sự cho

phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho
phép thành lập khi có hồ sơ của công chứng viên có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật để nghị thành lập Văn phòng công chứng). Nhà nước
kiểm soát công từ khâu xét duyệt, bổ nhiệm, bãi nhiệm công chứng viên.
Trong quá trình hành nghề công chứng, công chứng viên tự thực hiện công

16


việc trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Công việc của công
chứng viên chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: cơ
quan thuế kiểm tra việc thu phí, lệ phí, cơ quan Toà án xử lý tranh chấp
trong văn bản công chứng, cơ quan công an điều tra và cơ quan kiểm sát
giám sát việc tuân thủ pháp luật.
Khi tạm dừng hành nghề hay thôi không cung cấp dịch vụ, tổ chức
hành nghề công chứng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật (Điều 21
và Điều 31 Luật Công chứng năm 2014). Ngoài ra pháp luật quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho đương sự hay cho bên thứ ba do lỗi của công
chứng viên (Khoản 5 Điều 33 Luật công chứng năm 2014). Để được hành
nghề công chứng thì công chứng viên phải thoả mãn yêu cầu, điều kiện mà
pháp luật quy định; được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm phù
hợp với pháp luật (Chương II Luật công chứng năm 2014, Nghị định
02/2008/NĐ - CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Công chứng). Các Phòng công chứng và Văn phòng
công chứng khi thành lập phải có hồ sơ đăng kí hoạt động và được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập (Điều 20 và Điều 23 Luật Công
chứng năm 2014). Ngay cả việc thu phí - yếu tố khiến cho hoạt động công
chứng giống với những loại hình dịch vụ khác thì mức phí cũng phải tuân
theo mức thu do pháp luật quy định chứ không dựa trên sự thoả thuận giữa

người yêu cầu công chứng và công chứng viên là người cung cấp dịch vụ
(Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công
chứng; phí chứng thực; phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công
chứng; phí thẩm định điều kiện hoạt động Văn phòng công chứng; lệ phí cấp
thẻ công chứng viên và Thông tư số 111/2017/TT-BTC ngày 20 tháng 10 năm

17


2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư số 257/2016/TT-BTC).
 Hoạt động công chứng, chứng thực là hoạt động có tính chất chuyên
môn nghề nghiệp
Các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện hoạt động này bằng
chính kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của mình, hoàn toàn không bằng
quyền lực hay một thứ ảnh hưởng nào. Các hợp đồng, giao dịch được công
chứng bởi những công chứng viên có đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo quy
định của pháp luật (Điều 08 Luật Công chứng năm 2014 và các quy định
khác), nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, cá nhân, tổ
chức yêu cầu công chứng.
1.1.4. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động công chứng,
chứng thực ở Việt Nam
Cùng với quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội đất nước, kéo
theo các quan hệ dân sự, thương mại, đất đai,… cũng ngày càng phát triển
mãnh mẽ hơn. Do đó, nhu cầu công chứng, chứng thực các hợp đồng, giao
dịch, giấy tờ phát sinh trong đời sống xã hội ngày càng tăng cao. Cùng với đó
là việc thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, làm cho số lượng các
phòng công chứng và văn phòng công chứng ngày càng tăng. Để có sự phát
triển như ngày hôm nay, hoạt động công chứng, chứng thực đã trải qua quá

trình hình thành và phát triển gắn liền với quá trình bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước.
Theo Bộ Tư pháp, đến nay, cả nước có 1.003 tổ chức HNCC, phát triển
có lộ trình và phân bổ hợp lý gắn với địa bàn dân cư thành một mạng lưới
rộng khắp cả nước để phục vụ yêu cầu công chứng, chứng thực của người
dân [20]. Để đạt được kết quả nêu trên, hoạt động công chứng, chứng thực đã
trải qua quá trình hình thành và phát triển khó khăn, trầm bổng, cụ thể:

18


 Thời kỳ Pháp thuộc đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Kể từ thời kỳ Pháp thuộc, hoạt động Công chứng, chứng thực nước ta
bắt đầu hình thành, tuy nhiên giai đoạn này hoạt động Công chứng, chứng
thực chưa có quy định gì cụ thể mà được áp dụng theo mô hình của Pháp.
Theo một số tài liệu lưu trữ hiện còn lại, thì văn bản công chứng đầu tiên
được lập tại Việt Nam là vào năm 1886 (văn bản này hiện còn lưu trữ tại
phòng công chứng số 1 thành phố Hồ Chí Minh [16]. Theo Sắc lệnh ngày 24
tháng 8 năm 1931 của Tổng thống Pháp về tổ chức công chứng tại Pháp (được
áp dụng tại Đông Dương theo quyết định ngày 7 tháng 10 năm 1931 của Toàn
quyền Đông Dương P.Pasquies), thì người thực hiện công chứng là công
chứng viên mang quốc tịch Pháp do Tổng thống Pháp bổ nhiệm và giữ chức
vụ suốt đời.
 Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1991.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, trong hoàn cảnh đầy khó
khăn, phức tạp lúc bấy giờ, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn
không quên việc giải quyết vấn đề về thể chế công chứng, chứng thực. Bộ
trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký quyết định bãi chức công chứng
viên người Pháp tên là Deroche ngày 1 tháng 10 năm 1945 và bổ nhiệm một
công chứng viên người Việt Nam là ông Vũ Quý Vỹ (cử nhân luật, luật sư tập

sự tại Tòa thượng thẩm Hà Nội) thay thế cho công chứng viên người Pháp tại
Hà Nội. Trong nghị định này đã chỉ rõ: những quy định cũ về công chứng của
Pháp vẫn được áp dụng, trừ những quy định trái với chính thể Việt Nam dân
chủ cộng hòa; công chứng viên chịu trách nhiệm và chịu sự kiểm tra giám sát
của Ủy ban hành chính các cấp.
Như vậy, có thể thấy rằng, tổ chức công chứng đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa là sự kế thừa tổ chức công chứng của Pháp để lại, tuy
nhiên cũng chỉ còn một phòng công chứng tại Hà Nội [16]. Các quy chế quy

19


định về hoạt động công chứng, chứng thực thời kỳ này chủ yếu vẫn được giữ
nguyên như cũ, một số quy chế quy định trái với quy định của nước ta thì bị
bãi bỏ. Điểm mới của thể chế công chứng này được thể hiện ở chỗ: Đó là thể
chế công chứng của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, công chứng viên
là người Việt Nam và đây cũng là lần đầu tiên trong một văn bản pháp lý nhà
nước ta đã sử dụng thuật ngữ “công chứng”.
Để đáp ứng các nhu cầu giao kết dân sự của nhân dân, ngày 15 tháng
11 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 59/SL ấn định thể lệ về
thị thực các giấy tờ trong đó có cả các khế ước chuyển dịch quyền sở hữu bất
động sản. Theo Sắc lệnh này, quyền thị thực các giấy tờ trước đây giao cho lý
trưởng các làng và trưởng phố ở thành thị, thì nay giao về Ủy ban nhân dân
các làng hoặc Ủy ban nhân dân hàng phố. Riêng ở thành thị, việc thị thực của
Ủy ban hàng phố phải có thêm Ủy ban nhân dân thị xã xác nhận. Tuy nhiên,
Ủy ban làm nhiệm vụ phải là Ủy ban nơi trú quán của một hoặc các bên
đương sự lập ước, nếu là bất động sản phải là Ủy ban nơi có bất động
sản…[16]. Sau một thời gian áp dụng, Sắc lệnh 59/SL bắt đầu bộc lộ điểm bất
cập đó là áp dụng Sắc lệnh mang tính hình thức, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền chủ yếu xác nhận ngày tháng năm, xác nhận chữ ký và xác nhận địa

chỉ thường trú của đương sự chứ không xác nhận nội dung. Tiếp đó, ngày 29
tháng 2 năm 1952, Chủ Tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Chủ tịch Hồ Chí
Minh) ký Sắc lệnh số 85/SL quy định về thể lệ trước bạ về các việc mua bán,
cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Tại Sắc lệnh số 85/SL quy định: “Trước khi đem
trước bạ, văn tự phải đưa UBKCHC xã hay thị xã nhận thực chữ ký của các
người mua, bán, cho, nhận đổi và nhận thực những người bán, cho hay đổi là
chủ những nhà cửa, ruộng đất đem bán, cho hay đổi” [5, Điều 3]. Theo hai Sắc
lệnh này, có thể thấy Ủy ban hành chính các cấp sẽ thực hiện một số việc
chứng nhận giấy tờ.

20


×