Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Bước đầu đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang tieukhatling trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 91 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hoá đặc trưng bằng tình
trạng tăng đường huyết mạn tính phối hợp với rối loạn chuyển hóa
carbohydrat, lipid và protein. Bệnh khá phổ biến ở các nước trên thế giới và
Việt Nam. Tỷ lệ bệnh ngày càng có xu hướng tăng dần theo thời gian và theo
tốc độ phát triển của xã hội đặc biệt là ĐTĐ typ 2. Năm 1985, toàn thế giới có
30 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, năm 2010 có 285 triệu người mắc, năm 2011
có 366 triệu người mắc (chiếm 7% dân số thế giới) trong đó 90% là ĐTĐ typ
2 [1]. Dự kiến đến năm 2035 con số này sẽ lên tới 592 triệu người. Điều này
ngang mức sẽ có 3 trường hợp mới mắc trong mỗi 10 giây và khoảng 10 triệu
trường hợp mới mắc mỗi năm. ĐTĐ được coi là một trong những bệnh có tốc
độ gia tăng nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh gia tăng nhanh chóng ở các
quốc gia có mức thu nhập thấp và trung bình. Khoảng 80% người mắc ĐTĐ ở
các nước có nền kinh tế đang phát triển do có sự thay đổi nhanh chóng về lối
sống, môi trường, thói quen ăn uống và dân số già [2]. Ở Việt Nam, theo
nghiên cứu của Tạ Văn Bình năm 1990 tỷ lệ ĐTĐ chiếm 1,2% dân số [3].
Năm 2013, tỷ lệ mắc ĐTĐ trong toàn quốc đã là 5,7% [4].
Sự gia tăng nhanh chóng của bệnh đã là gánh nặng lớn về y tế, kinh tế và
xã hội. Năm 2013 bệnh ĐTĐ gây tổn thất 548 tỷ đô la Mỹ, chiếm 11% tổng
chi tiêu toàn ngành y tế thế giới và hơn 21 triệu trẻ em bị ảnh hưởng bởi mẹ bị
ĐTĐ trong thời kỳ mang thai [2].
Bệnh ĐTĐ không được phát hiện sớm và điều trị không đúng sẽ gây nhiều
biến chứng và có thể tử vong. Năm 2013 đã có 5,1 triệu người tử vong vì
ĐTĐ, cứ mỗi 6 giây có 1 người chết vì bệnh [2]. Vấn đề phòng bệnh, phát
hiện bệnh sớm và điều trị có một ý nghĩa rất quan trọng nhằm đề phòng các
biến chứng do bệnh gây ra.
Hiện nay, điều trị ĐTĐ chủ yếu là dùng thuốc y học hiện đại với các nhóm
thuốc uống và insulin. Hầu hết các thuốc này nước ta phải nhập ngoại, khi



2
dùng lâu sẽ có rất nhiều tác dụng không mong muốn, đại bộ phận người bệnh
vẫn còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế và điều kiện điều trị. Bởi vậy, một
trong những xu hướng hiện nay trong điều trị ĐTĐ là sử dụng thảo dược có
nguồn gốc tự nhiên để vừa mang lại hiệu quả điều trị, vừa hạn chế tác dụng
không mong muốn cho bệnh nhân và sẽ giảm được chi phí điều trị.
Y học cổ truyền không có bệnh danh “đái tháo đường” nhưng đối chiếu với các
chứng trạng lâm sàng, căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát” [5],
[6], [7], [8] và lần đầu tiên được mô tả trong y văn cổ của y học cổ truyền là
sách Nội kinh [9]. Nhiều kinh thư cũng đã ghi các vị thuốc và bài thuốc có tác
dụng điều trị tiêu khát như: "Tiêu khát phương" trong "Đan Khê Tâm Pháp",
"Ngọc nữ tiễn" trong "Cảnh Nhạc Toàn Thư". Ở nước ta, bài thuốc "Tiêu khát
linh" được bào chế dưới dạng viên nén với tên “Tiểu đường Đông Đô" đã
được đánh giá có hiệu quả trong điều trị bệnh ĐTĐ. Tuy nhiên, hạn chế của
thuốc "Tiểu đường Đông Đô" là số lượng viên phải uống nhiều (24
viên/ngày), có thể bị đổi màu trong quá trình bảo quản, hình thức chưa phù
hợp với thị hiếu người sử dụng…Do đó, thuốc đã được nghiên cứu và bào chế
dưới dạng viên nang "Tieukhatling" vừa tiện sử dụng, giảm số lượng viên
thuốc phải uống trong ngày lại ít sử dụng tá dược, ít tác động của kỹ thuật bào
chế. Ngoài ra, nhờ có kỹ thuật bào chế hiện đại nên thuốc có sinh khả dụng
cao [10] và đã được cấp phép lưu hành toàn quốc. Để có căn cứ khoa học về
tác dụng của dạng thuốc mới này, chúng tôi tiến hành đề tài: "Bước đầu
đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang "Tieukhatling" trên
bệnh nhân đái tháo đường typ 2” nhằm mục đích:
1. Bước đầu đánh giá tác dụng hạ đường huyết của viên nang
“Tieukhatling” trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2.
2. Nhận xét một số tác dụng không mong muốn của thuốc.



3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. DỊCH TỄ HỌC VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.1.1. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới
Năm 2010, theo báo cáo của Hiệp hội ĐTĐ quốc tế (IDF), toàn thế giới có
khoảng 285 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, dự báo trong 20 năm tới sẽ tăng lên
đến 438 triệu người và mỗi năm có thêm khoảng 7 triệu người mắc bệnh [11].
Tỷ lệ mắc ĐTĐ khác nhau ở các nước có nền kinh tế và lãnh thổ khác nhau.
Theo IDF (2013), tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ trong độ tuổi 20 - 79 ở một số nước:
 Ở Marshall Islands: 34,9% dân số, Australia Aborigines: 30% dân số
mắc ĐTĐ. Ở Mỹ có 24,4 triệu người mắc.
 Ở Châu Á: Trung Quốc: 98,4 triệu người; Ấn Độ: 65,1 triệu người;
Indonexia 8,5 triệu người; Nhật: 7,2 triệu người... [2]
1.1.2. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường ở Việt Nam
Theo phân loại của Hiệp hội ĐTĐ quốc tế và Tổ chức y tế thế giới, tỷ lệ
mắc bệnh ĐTĐ của Việt Nam nằm trong khu vực 2 (2% - 4,99%), giống các
nước khác trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia và thấp hơn
các nước khu vực 3 (5% - 7,99%) gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia... [12]
Theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình (2002), tỷ lệ mắc ĐTĐ trong dân cư
thành phố Hà Nội độ tuổi từ 20 - 74 là 2,16% và tỷ lệ mắc ĐTĐ ở độ tuổi từ
30- 64 tuổi là 2,7% trong đó ở thành phố là 4,4%, ở đồng bằng ven biển là
2,2%, ở miền núi là 2,1% [3].
Năm 2005, nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Huyền về tỷ lệ mắc bệnh
ĐTĐ tại Hà Nội là 6,7% [13].
Năm 2012, tỷ lệ mắc ĐTĐ trong toàn quốc là 5,7%, cao nhất là Tây Nam
Bộ (7,2%) rồi đến Duyên hải miền Trung (6,4%), Đông Nam Bộ (6%), Đồng bằng
sông Hồng (5,8%), miền núi phía Bắc (4,8%), Tây Nguyên (3,8%) [4].



4
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA Y HỌC HIỆN ĐẠI (YHHĐ) VỀ BỆNH ĐÁI
THÁO ĐƯỜNG
1.2.1. Định nghĩa
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hoá do nhiều nguyên nhân, đặc
trưng bằng tình trạng tăng đường huyết mạn tính phối hợp với rối loạn chuyển
hóa carbohydrat, lipid và protein do thiếu hụt của tình trạng tiết insulin, tác
dụng của insulin hoặc cả hai [14].
1.2.2. Phân loại đái tháo đường
1.2.3.1. Đái tháo đường typ 1 (chiếm khoảng 5-10%)
Đái tháo đường typ 1 xuất hiện khi tụy không tiết hoặc tiết ra rất ít insulin do
tế bào bêta trong tụy bị phá hủy. Sự phá hủy nhanh thường gặp ở trẻ em, tuổi vị
thành niên, một số ít ở người lớn tuổi, sự phá hủy chậm thường gặp ở người
lớn tuổi (ĐTĐ tự miễn dịch âm ỉ ở người lớn – LADA) [14], [15], [16].
Giai đoạn đầu, phát hiện tự kháng thể kháng đảo tụy, tự kháng thể kháng
insulin, tự kháng thể kháng GAD trong 85- 90% trong ĐTĐ typ 1. Bệnh có
tiền căn di truyền liên quan đến kháng nguyên bạch cầu HLA- DR3, HLADR4, HLA- DQ [17]. Một số trường hợp không thấy nguyên nhân tự miễn.
1.2.3.2. Đái tháo đường typ 2 (chiếm khoảng 90-95%)
Đặc trưng là kháng insulin nên thiếu insulin tương đối. Bệnh có nhiều
nguyên nhân, nguyên nhân đặc hiệu còn chưa rõ nhưng không có hiện tượng
hủy hoại tế bào bêta tự miễn. ĐTĐ typ 2 diễn biến chậm, ít có triệu chứng rõ
rệt nên BN thường được chẩn đoán muộn.
Cơ chế bệnh sinh đái tháo đường typ 2:
Bệnh có hai cơ chế cơ bản là kháng insulin và rối loạn tiết insulin. Ngoài
ra còn có vai trò của yếu tố gen và môi trường [14] ,[17], [18].
- Rối loạn tiết insulin
Tế bào bêta tuỵ bị rối loạn khả năng sản sinh insulin về số lượng và chất
lượng để đảm bảo cho chuyển hoá glucose bình thường: Bất thường về nhịp
tiết, động học và số lượng bài tiết insulin; chất lượng của những peptid ...



5
- Kháng insulin
+ Kháng insulin ở cơ: ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 chuyển hoá glucose trong tổ
chức cơ kém vì không tổng hợp được glycogen từ glucose và rối loạn quá
trình oxy hoá glucose trong các tế bào cơ.
+ Kháng insulin ở gan có hai yếu tố được đề cập đến là: Vai trò tăng
glucagon và tăng hoạt tính men PEP-CK.
- Yếu tố di truyền
Có vai trò đóng góp gây kháng insulin nhưng chỉ giải thích cho 50% rối
loạn chuyển hóa. Béo phì đặc biệt béo bụng (tăng mỡ tạng), tuổi cao, không
hoạt động thể lực tham gia có ý nghĩa vào tình trạng kháng insulin [14].
1.2.3.3. Các loại đái tháo đường khác
- Thiếu hụt di truyền chức năng tế bào beta: MODY 1, MODY 2, MODY 3
- Thiếu hụt di truyền về tác động của insulin: hội chứng Leprechaunism...
- Bệnh tuyến tụy ngoại tiết: Viêm tụy mạn, xơ sỏi tụy, chấn thương tụy...
- Đái tháo đường thứ phát sau bệnh nội tiết, do thuốc, hóa chất, nhiễm khuẩn
- Một số hội chứng di truyền kết hợp: Hội chứng Down, Klinefelter...
- Đái tháo đường thai kỳ [19].
1.2.3. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
1.2.3.1. Đái tháo đường typ 1
Bắt đầu dưới 30 tuổi, tiền sử gia đình có người bị ĐTĐ và/ hoặc các bệnh
tự miễn khác với biểu hiện rầm rộ: tiểu nhiều, uống nhiều, hội chứng dị hóa
(sút cân, thèm ăn, ăn nhiều, mệt mỏi, suy nhược, thể trạng gầy). Bệnh có biến
chứng cấp hay gặp: hôn mê nhiễm toan ceton. Khi điều trị phải tiêm insulin
đều để duy trì hoạt động bình thường của cơ thể.
- Xét nghiệm: Glucose huyết tăng, thể ceton niệu có thể thấy, định lượng
insulin máu thấp hoặc bằng 0, test Glucagon (6 phút sau tiêm, peptid C < 0,3
mmol/l), có thể phát hiện được kháng nguyên HLA-DR3, HLA- DR4, HLADQ, kháng thể kháng tiểu đảo tụy, kháng thể kháng insulin [14], [17], [20].



6
1.2.3.2. Đái tháo đường typ 2
Thường gặp ở người trên 30 tuổi, thể trạng béo. Triệu chứng lâm sàng
không rầm rộ (phát hiện tình cờ). Ở nữ tiền sử có thể có ĐTĐ thai kỳ. Bệnh
có đặc tính di truyền. Một số gia đình có đột biến gen, phần lớn di truyền trội
trên nhiễm sắc thể thường [21], [22].
- Xét nghiệm
+ Glucose huyết tăng; lipid và lipoprotein huyết, HbA1c có thể tăng.
+ Glucose niệu có khi glucose huyết vượt quá ngưỡng thận (8,9- 10mmol/l)
+ Ceton niệu hiếm khi xuất hiện
+ Protein niệu: BN ĐTĐ có thể bị tổn thương thận vì xơ hóa mạch máu tại
cầu thận, viêm đài bể thận dẫn tới protein niệu tăng [17], [18].
+ HLA DR3- DR4, kháng thể kháng đảo tụy âm tính; Peptid C > 1 mmol/l;
định lượng insulin máu bình thường hoặc tăng.
1.2.4. Chẩn đoán xác định
1.2.4.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Theo ADA 2014, chẩn đoán khi có 1 trong các tiêu chuẩn dưới đây [23]:
-

Có các triệu chứng của bệnh ĐTĐ về mặt lâm sàng; mức glucose huyết
tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl).

-

Mức glucose huyết tương lúc đói (nhịn ăn > 8-14 giờ) ≥ 7 mmol/l (126
mg/dl) trong 2 buổi sáng khác nhau.

-


Mức glucose huyết tương ≥ 11,1 mmol/l (200 mg/dl) ở thời điểm 2 giờ sau
khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose máu bằng đường uống 75g đường.

-

HbA1c (định lượng bằng phương pháp sắc ký lỏng) ≥ 6,5%
Như vậy sẽ có người chẩn đoán là ĐTĐ nhưng lại có glucose huyết lúc

đói bình thường nên phải ghi vào chẩn đoán bằng phương pháp cụ thể. Ví dụ:
Đái tháo đường typ 2 (Nghiệm pháp tăng đường huyết) [24].
1.2.4.2. Chẩn đoán sớm đái tháo đường
Chủ yếu là ĐTĐ typ 2 với các yếu tố nguy cơ:


7
- Người ở các quốc gia, dân tộc có tỷ lệ mắc ĐTĐ cao.
- Người có huyết áp  140/90 mmHg, có rối loạn chuyển hóa lipid, nhất
là triglycerid  250mg/dl (2,8 mmol/l), HDL-C ≤ 35 mg/dl (≤ 0,9 mmol/l), có
béo phì [23], [25].
- Tiền sử: họ hàng huyết thống bậc 1 mắc ĐTĐ typ 2, giảm dung nạp
glucose huyết, rối loạn đường huyết lúc đói, ĐTĐ thai nghén, sinh con > 4kg.
1.2.5. Biến chứng đái tháo đường
1.2.5.1. Biến chứng cấp tính
-

Hạ đường huyết: khi đường huyết < 2,8 mmol/l. Nhiều BN tăng đường
huyết lâu, mới tiêm insulin sẽ có triệu chứng khi đường huyết 5-6 mmol/l.

-


Hôn mê toan ceton: gặp khi đường huyết >250 mg/dl (13,9 mmol/l). Đây
là biến chứng có nguy cơ tử vong cao do tăng các hormon gây tăng đường
huyết và thiếu hụt insulin (20-40% BN mới chẩn đoán vào viện vì biến
chứng này).

-

Hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu: có nguy cơ tử vong cao, thường xảy ra
ở BN ĐTĐ typ 2 có đường huyết > 600mg/dl (33,3 mmol/l).

-

Hôn mê nhiễm toan acid lactic: Thường gặp khi các tổ chức bị thiếu oxy
trầm trọng, acid lactic được sản xuất tăng lên ở các tổ chức như cơ, xương
và các tổ chức khác (Glucose huyết/ niệu không cao lắm) [14], [26].

1.2.5.2. Biến chứng mạn tính của đái tháo đường
Biến chứng này có thể gặp cả ở ĐTĐ typ 1 và typ 2 [17], [27].
a. Biến chứng vi mạch
- Biến chứng mắt: Khoảng 20% bệnh nhân mới chẩn đoán đã có.
- Biến chứng về thận: Bệnh cầu thận đái tháo đường, viêm hoại tử đài bể
thận, tổn thương thận mất bù sau tiêm thuốc cản quang trong các thủ thuật...
b. Biến chứng mạch máu lớn.
- Bệnh lý mạch vành: thường gặp cơn đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim.
- Tăng huyết áp: Thường gặp ở ĐTĐ typ 2 là 50%, ĐTĐ typ 1 là 30% [14].


8
- Tai biến mạch máu não: Có thể là nhất thời, tiến triển dần, hoặc đột ngột.

- Bệnh mạch máu ngoại biên: chủ yếu là viêm động mạch chi dưới.
c. Biến chứng thần kinh:
-

Viêm đa dây thần kinh ngoại biên; bệnh đơn dây thần kinh; bệnh thần kinh
tự động (hạ huyết áp tư thế, rối loạn nhịp tim, biến chứng bàn chân...)

-

Các biến chứng nhiễm khuẩn: ở da, niêm mạc, tiết niệu, sinh dục...
1.2.6. Điều trị bệnh đái tháo đường typ 2
Hiện chưa có phương pháp điều trị khỏi bệnh, các biện pháp nhằm giảm

các triệu chứng lâm sàng, kiểm soát đường huyết ở mức tối ưu, làm chậm
xuất hiện các biến chứng. Mục tiêu điều trị tùy thuộc vào từng BN:
- HbA1c < 7% là mục tiêu chung cho cả ĐTĐ typ 1 và typ 2
- Đường huyết lúc đói duy trì ở mức 3,9-7,2 mmol/l (70- 130 mg/dl)
- Đường huyết sau ăn 2 giờ < 10 mmol/l (< 180 mg/dl)
- Điều trị các yếu tố nguy cơ: tăng huyết áp, rối loạn lipid máu…[23]
1.2.6.1. Chế độ ăn
- Đủ chất đạm, béo, đường, vitamin, nước, muối khoáng với khối lượng
hợp lý, đảm bảo nhu cầu calo theo giới, tuổi, nghề nghiệp, cân nặng lý tưởng
(nam: 35 Kcalo/kg, nữ: 30 Kcalo/kg). Cân nặng lý tưởng = (chiều cao)² x 22
+ Carbohydrat: chiếm 60-70% tổng số năng lượng (Kcal) hàng ngày, nên
ăn các loại ngũ cốc toàn phần có đủ vitamin, chất xơ và muối khoáng.
+ Lipid: chiếm 15-20% khầu phần ăn phụ thuộc vào từng BN: thói quen
ăn uống, tình trạng béo phì, rối loạn lipid máu, huyết áp, chỉ số glucose máu.
+ Protid: chiếm 10-20% năng lượng (0,8-1,2 g/kg/ngày). BN suy thận
0,6 g/kg, không dưới 0,5g/kg. Nên ăn: cá, đồ biển, thịt nạc, thịt gà, đậu…
- Phân bố: 3 bữa chính hoặc 3 bữa chính và 2 bữa phụ nếu tiêm nhiều

mũi insulin, ăn 1 bữa trước khi đi ngủ nếu tiêm 1 mũi insulin trước khi đi ngủ.
- Không làm tăng đường huyết nhiều sau ăn, không làm hạ đường
huyết lúc xa bữa ăn, đủ duy trì hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.


9
- Duy trì cân nặng ở mức lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý.
- Không làm tăng yếu tố nguy cơ: Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp…
- Phù hợp với tập quán ăn uống theo địa dư, dân tộc và gia đình BN.
- Đơn giản và không quá đắt tiền [14], [15], [28].
1.2.6.2. Chế độ luyện tập
Tập luyện giúp cơ thể tiêu thụ đường, có thể làm giảm liều insulin và các
thuốc hạ glucose huyết, cải thiện hoạt động các cơ quan, giảm béo phì, làm
cho tinh thần thoải mái, tăng sức đề kháng.
 Nguyên tắc:
- Tập từ từ và thích hợp, tăng dần đến khi ít nhất 30 phút/ngày và 5
ngày/tuần (được phép của thầy thuốc về mức độ và thời gian luyện tập).
- Đề phòng hạ đường huyết khi tập và không tập khi đang mắc bệnh cấp tính,
đường huyết quá cao, ceton máu tăng cao nhiều lần, ceton niệu dương tính nặng.
 Hình thức luyện tập: Đi bộ, chơi thể thao, tập thể dục thường xuyên tùy
hoàn cảnh mỗi người và phải được phép của thầy thuốc [29].
1.2.6.3. Điều trị bằng thuốc
Hiện nay thuốc điều trị đái tháo đường được sử dụng là insulin và các
nhóm thuốc uống [27], [30], [31]:
- Nhóm kích thích tụy bài tiết insulin

 Sulfonylurea:
Chỉ định: ĐTĐ typ 2 thể trạng gày, có thể phối hợp với insulin và nhóm thuốc
uống khác (Metformin, TZD, Acarbose) [26], [32].
+ Sulfonylurea thế hệ I: Tolbutamid, Carbutamid, Chlopropamid

+ Sulfonylurea thế hệ II: Glibenclamid (Daonil, Maninil...); Glipizid:
(2,5-40 mg/ngày); Glyburid: (1,25-20 mg/ngày); Gliclazid: Predian 80mg
(80-320 mg/ngày), Diamicron MR 30mg (30-120 mg/ngày); Glimepirid:
Amaryl 1-2-3-4 mg (liều 1-8 mg/ngày).
Chống chỉ định: ĐTĐ typ 1, suy tim, suy gan, suy thận, nhiễm trùng nặng,
ĐTĐ có biến chứng cấp nặng.


10
Tác dụng phụ: Gây hạ glucose huyết, tăng cân.
 Các thuốc nhóm không sulfonylurea: Meglitinid, Nateglinid.
b. Các thuốc nhóm Biguanid:
Thuốc làm giảm tân tạo glucose ở gan, ở tổ chức mỡ, ức chế hấp thu
glucose ở ruột non, tăng giữ glucose ở cơ vân, ức chế tổng hợp lipid.
Chỉ định: ĐTĐ typ 2 đặc biệt BN có thừa cân và béo phì.
Chống chỉ định: ĐTĐ typ 1, nhiễm toan ceton, suy tim, bệnh gan, bệnh
thận, có thai, ngay trước và sau phẫu thuật, tuổi > 70.
Hiện trong nhóm chỉ còn sử dụng Metformin (Glucophage), liều từ 5002550 mg/ngày. Thuốc có thể gây rối loạn tiêu hóa và nhiễm toan lactic.
c. Các thuốc nhóm ức chế enzym glucosidase (Acarbose):
Thuốc làm chậm quá trình hấp thu carbohydrat ở ruột, làm giảm glucose
huyết sau ăn, giảm HbA1c và không có tác dụng đối với glucose huyết lúc
đói. Liều dùng: Glucobay 50/100mg: 50- 200 mg/ngày; Basen 0,2/0,3 mg:
0,2- 0,6 mg/ngày, Glyset 25/50/100 mg: 75- 300 mg/ngày.
d. Nhóm nhạy cảm với insulin (Glitazones, Thiazolidinediones):
e.Nhóm incretin: thuốc đồng phân GLP-1, ức chế DPP-4, đồng phân Amylin.
g. Insulin: Insulin được tiết ra từ tế bào β của tụy. Trong điều trị, phần lớn
insulin được sản xuất bằng phương pháp sinh học cao giống insulin người.
10-15% BN ĐTĐ typ 2 lúc đầu đã không đáp ứng với thuốc uống, hàng
năm có thêm 5-10% BN không kiểm soát được đường huyết bằng thuốc uống
song hiện chỉ có dưới 10% BN được dùng insulin. Đây là nguyên nhân một số

trường hợp ĐTĐ cố ăn kiêng nhưng không giảm được đường huyết [28].
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA Y HỌC CỔ TRUYỀN (YHCT) VỀ BỆNH
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.3.1. Đại cương về chứng tiêu khát
YHCT không có bệnh danh “Đái tháo đường”. Với biểu hiện chủ yếu: ăn
nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, người gầy dộc “Tam đa nhất thiểu” thì bệnh


11
nằm trong phạm vi chứng tiêu khát. “Tiêu”: chỉ thức ăn nước uống tiêu nhanh
mau đói, uống nhiều; chỉ tiêu hao hun đốt tân dịch, tân dịch mất nuôi dưỡng,
âm không thắng dương, nhiệt nội sinh; chỉ hình thể gầy, cơ nhục nhẽo, sút
cân. Chứng “Tiêu khát” đã xuất hiện trong y văn YHCT từ rất sớm (khoảng
thế kỷ VI – IV trước công nguyên trong Hoàng Đế - Nội kinh). Lúc đó căn cứ
vào nguyên nhân và biểu hiện bệnh mà đặt tên như: “Tiêu khát, tiêu đơn, cách
tiêu”, “Phế tiêu”, “Trung tiêu”, “Thực tiêu”... Sau căn cứ vào sự khác nhau
của các triệu chứng mà quy nạp thành ba loại là thượng tiêu, trung tiêu và hạ
tiêu [33]. Nhiều tài liệu cổ đã đề cập như: “Kim quỹ yếu lược” nói: “Đàn ông
tiêu khát, tiểu tiện nhiều, uống 1 đấu, đi tiểu 1 đấu”. “Ngoại đài bĩ yếu” nói:
“Tuy ăn được nhiều, tiểu tiện nhiều nhưng gày mòn dần”[33]. Trong “Danh từ
Đông y” định nghĩa tiêu khát là “Bệnh uống nhiều, đái nhiều, ăn nhiều mà
người gầy rộc, có 3 thể bệnh gọi là thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu” [34].
Hải Thượng Lãn Ông viết: Ăn đồ béo thì tấu lý kín, dương khí không thoát
ra ngoài nên sinh chứng nhiệt ở trong, chất ngọt có tính hòa hoãn. Nội nhiệt
làm dương khí bốc lên nên ham uống, họng khô. Khí nghịch làm trung tiêu
đầy, khí cũ tích càng nhiều, tỳ khí trào lên thành bệnh tiêu khát [35].
1.3.2. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh chứng tiêu khát
a. Nguyên nhân:
Nguyên nhân gây bệnh có thể có một hoặc nhiều nguyên nhân phối hợp.
- Tiên thiên bất túc:

Bẩm tố khi sinh ra ngũ tạng đã hư nhược đặc biệt là thận, tỳ. Thận là
gốc của tiên thiên, tỳ là gốc của hậu thiên. Thận dương hay thận khí ôn ấm
giúp tỳ dương vận hóa tốt, thận tinh lại được tinh do tỳ sinh ra nuôi dưỡng,
tỳ tổn thương thì không thể dưỡng thận nên thận tinh không đủ. Nếu ngũ
tạng hư thì tinh khí không đủ, hao tổn, khí huyết nhược, dịch thì cạn kiệt
nên sinh bệnh.


12
- Tình chí thất điều (ngũ chí quá độ):
Lo, buồn, giận dữ, tình chí không thư thái khiến can khí uất kết, can mất sơ
tiết gây ngưng trệ hoạt động. Bệnh lâu, khí uất thành nhiệt, nung đốt phần âm
phế, vị. Công năng phế tốt thì nước uống vào vị, tinh khí của nước qua sự vận
chuyển của tỳ lên phế. Phế táo, không thông điều thủy đạo, thủy dịch không
nuôi cơ thể, dồn vào bàng quang nên khát nước, đái nhiều, đái ra đường.
Sách Lâm chứng chỉ nam nói: “Trong tâm sầu uất, nội hỏa tự đốt lên, sinh
chứng tiêu khát”[36].
- Ăn uống không điều độ (ẩm thực bất túc)
Ăn nhiều đồ béo ngọt, cay nóng, uống rượu thái quá làm mất chức năng
vận hóa của tỳ vị khiến thủy thấp đình trệ, trường vị tích nhiệt. Vị hỏa bốc lên
nung đốt phế âm làm phế không dẫn được tinh hoa nuôi cơ thể nên gày yếu.
Vị bị nóng đốt khiến thận âm hao tổn, cùng với nhiệt tiến triển thành thấp
nhiệt, cản trở hoạt động sinh lý các tạng phủ và dễ tiến triển thành chứng tiêu
khát. Bệnh thường gặp ở người ít vận động thể lực, béo phì, thừa dinh dưỡng.
- Lam lũ quá nhiều hoặc an nhàn quá sức:
Lao động bình thường trợ giúp khí huyết lưu thông, tăng cường thể lực.
Nếu người vốn âm hư, tạng yếu lại lao động vất vả hoặc giao hợp nhiều
làm hao tinh dịch, thận âm càng kém không giữ được tinh, tinh xuống dưới
làm nước tiểu đục, ngọt. Âm hư hỏa vượng, nóng đốt phế, vị nên khát nước.
Nếu nghỉ ngơi nhiều, không lao động khiến lưu thông khí huyết đình trệ,

tỳ không vận hành tân dịch nên tân dịch không đủ hóa táo, gây bệnh. Tuyên
minh ngũ khí thiên - Tố Vấn viết: “nằm lâu hại khí, ngồi lâu hại cơ nhục” nên
có thể nói sự an nhàn cũng làm chức năng tỳ vị rối loạn.
- Lạm dụng thuốc ôn táo kéo dài:
Khi điều trị, lạm dụng thuốc dương dược hoặc bị bệnh mạn tính phải dùng
lượng lớn và lâu dài các vị thuốc ôn táo sẽ làm tổn thương âm dịch dẫn đến
táo nhiệt nội sinh, phần tân âm bị tổn thương mà sinh tiêu khát. Xưa có người


13
dùng “Tráng dương chí thạch” hoặc dùng thuốc tráng dương kéo dài để tăng
hoạt động tình dục. Đây là loại thuốc rất táo nhiệt, hại chân âm mà sinh bệnh.
- Ngoại cảm lục dâm:
Phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa gây tổn thương tạng phủ làm tạng phủ hư
yếu. Yếu tố lục dâm lâu ngày hóa nhiệt tổn thương âm dịch dẫn đến bệnh.
Sách “Lâm chứng chỉ nam” nói: “Tam tiêu là một bệnh, tuy chia ra thượng
tiêu, trung tiêu và hạ tiêu thực ra không ngoài âm hư, dương cang, tân dịch
khô kiệt gây nên” [33]. Âm hư chủ yếu thận âm hư khiến hỏa ở phế, vị mạnh
nên tân dịch thiếu. Bệnh lâu ngày dẫn đến dương hư và cả âm dương đều hư.
b. Cơ chế bệnh sinh tiêu khát
Theo Hải Thượng Lãn Ông: "Bệnh tiêu khát phần nhiều do hoả làm tiêu
hao chân âm, năm chất dịch khô kiệt mà sinh ra" trong đó 3 tạng phế, tỳ, thận
là chủ yếu. Dù bệnh biểu hiện ở tạng nào thì giữa 3 tạng tỳ, phế và thận vẫn
có quan hệ mật thiết với nhau [35].
Theo Tuệ Tĩnh: “Tiêu khát là chứng trên thì muốn uống nước, dưới thì
ngày đêm đi đái rất nhiều. Nguyên nhân do dâm dục quá độ, trà rượu không
chừng hoặc ăn nhiều đồ xào nướng, hoặc thường uống thuốc bằng kim thạch
làm cho khô kiệt nước trong thận, khí nóng trong tâm cháy rực, tam tiêu nung
nấu, ngũ tạng khô ráo, từ đó mà sinh chứng tiêu khát” [37].
Sự chuyển hóa bình thường của thủy dịch trong cơ thể được đảm bảo bởi

sự hoạt động của tỳ, phế và thận. Nước uống vào vị, nhờ tỳ vận hóa lên phế,
phế khí túc giáng đưa thủy dịch chảy xuống dồn vào thận. Tân dịch mà tỳ vận
hóa gồm hai phần: tân và dịch. Tân trong được phế tuyên phát ra da, lông, cơ
biểu; dịch đục được vào não tủy, các khớp, các màng. Sau khi sử dụng, tân
dịch còn lại là cặn bã (trọc) theo tam tiêu xuống thận. Dưới tác dụng khí hóa
của thận, các dịch trọc chuyển thành nước tiểu theo bàng quang ra ngoài. Nếu
sự mất cân bằng hoặc tổn thương chức năng tạng phủ làm tân dịch không
được phân bố và vận hành, phế không điều tiết quản lý tinh hoa trong tân


14
dịch, tân dịch không được quản lý sẽ bài tiết ra ngoài gây bệnh tiêu khát [7],
[38]. Bệnh biểu hiện:
- Uống nhiều: biểu hiện chính là miệng khô, họng táo, khát nước do nội
nhiệt mạnh làm tổn thương vị âm, âm thiếu mà hỏa bốc, vị hỏa nung nấu lên
trên làm tổn thương phế âm dẫn đến vị âm hư hoặc lao lực quá độ, hư hỏa tràn
vào phế, vị khiến phế, vị âm hư nên phế táo, vị nhiệt.
- Ăn nhiều có biểu hiện chính là mau đói, người gày mòn do: thức ăn
tích lại thành nhiệt khiến dương minh nhiệt thịnh, tiêu đốt thủy cốc, ăn vào
tiêu ngay và mau đói; can uất hóa hỏa, tiêu hao vị âm khiến tỳ, vị táo nhiệt
nên thủy cốc tiêu, tân dịch hao; thận âm hư thiếu, hư hỏa bốc lên làm vị âm bị
thương tổn. Tỳ, vị không vận hóa được, không hấp thu được tinh vi của thủy
cốc, không nuôi nổi lục phủ ngũ tạng, kinh mạch nên gầy mòn, ăn nhiều mà
vẫn gầy.
- Đi tiểu nhiều lần, lượng nhiều do: thận âm yếu, hư hỏa bốc lên làm tổn
thương phế âm, phế âm không điều tiết được, chất tinh vi của thủy cốc không
phát tán ra khắp người mà chuyển vào bàng quang; thận dương yếu, mệnh
môn hỏa suy, bàng quang không được khí hóa, chất trong không đưa lên phế,
thủy không hóa hỏa mà vào bàng quang, uống bao nhiêu đi tiểu bấy nhiêu.
1.3.3. Phân thể lâm sàng và điều trị

Theo “Hoàng đế Nội kinh tố vấn” và “Kim quỹ yếu lược ”, người xưa
quan niệm chứng tiêu khát có 3 thể: thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Cả 3
thể này đều có các triệu chứng chủ yếu là ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều và
gầy nhiều [39], [40].
Phép chữa mà Hải Thượng Lãn Ông nêu ra là: “thực hỏa thì tả thực, dùng
các thuốc đắng lạnh để đánh cái hỏa; hư hỏa thì bổ, nếu hư vừa thì bổ huyết
kiêm làm mất hỏa, nếu hư nặng phải bổ thủy để chế bớt hỏa; cần căn cứ vào
mạch chứng mà dùng lục vị hay bát vị cho phù hợp” [35].
Theo Trương Chứng trong “Biện chứng kỳ văn” [5]:


15
- Bệnh thượng tiêu: mặt đỏ, hư phù, miệng lưỡi vỡ nát, yết hầu sưng đau thì
dùng phương “Thanh thương chỉ tiêu đơn”.
- Bệnh trung tiêu: khát nhiều, dễ đói, ăn thì khát giảm, dùng phương “Bế
quan chỉ khát thang”.
- Bệnh hạ tiêu: tiểu tiện nhiều, miệng thổ đàm trong, mặt nóng, môi đỏ,
dùng phương “Dẫn long thang” hoặc miệng khô, lưỡi ráo, thổ đàm trắng
như bọt cua, khí suyễn không nằm được, lúc khát phải uống nước nhưng
uống vào lại hóa ra bọt trắng, dùng phương “Ninh phỉ thang”.
- Người ăn uống mạnh, tiểu nhiều do tỳ khí hư nhiệt, dùng “Mật lương tán”.
Bản chất của bệnh là miệng khát, uống nhiều, ăn nhiều, người gầy sút, đi
tiểu nhiều. Lâm sàng lấy ba bộ vị: thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu để phân
tích đưa ra pháp điều trị. Thực tế triệu chứng của ba bộ vị thường kết hợp
chỉ biểu hiện các triệu chứng nặng nhẹ khác nhau ở mỗi thể [9].
 Thể thượng tiêu:
BN khát, muốn uống nước nhiều, môi khô, họng khô, lưỡi khô, tiểu nhiều
lần số lượng nhiều, lưỡi hồng, rêu lưỡi mỏng vàng, mạch hồng sác.
Pháp điều trị: thanh nhuận phế nhiệt, sinh tân, chỉ khát.
Phương dùng bài “Bạch hổ gia nhân sâm thang”. Nếu biểu hiện phế âm hư

rõ gia: Thiên môn, mạch môn để nhuận phế, thanh nhiệt.
 Thể trung tiêu:
BN ăn nhiều mà vẫn đói, hình thể gầy mòn, miệng khô, rêu lưỡi vàng khô,
mạch thực và có lực, đại tiện táo.
Pháp điều trị: thanh vị hỏa, dưỡng âm sinh tân dịch.
Phương dùng bài: “Ngọc nữ tiễn”. Nếu BN có can hỏa vượng mạnh gia
thêm: Hoàng cầm, chi tử để thanh can tả hỏa.
 Thể hạ tiêu:
BN đi tiểu nhiều lần với số lượng nhiều, nước tiểu như cao, mỡ, ngọt, lưỡi
khô, miệng khô khát, uống nước nhiều, ngũ tâm phiền nhiệt (lòng bàn tay, bàn


16
chân nóng, ngực có cảm giác nóng), đầu váng đau, lưng gối đau mỏi, mạch
trầm tế sác.
Pháp điều trị: Tư bổ thận âm, sinh tân thanh nhiệt.
Phương dùng: “Tri bá địa hoàng hoàn” gia: sa sâm, mạch môn, ngưu bàng.
BN mệt nhiều, thở ngắn, khí âm lưỡng hư gia: Nhân sâm, hoàng kỳ, bạch
truật. Nếu mắt mờ, ù tai gia: Kỷ tử, cúc hoa, thạch xương bồ. Nếu BN hồi
hộp, mất ngủ gia: Toan táo nhân, bá tử nhân. Nếu thận âm dương lưỡng hư thì
dùng “Kim quỹ thận khí hoàn”.
Đặc điểm của 3 thể là âm hư, nhiệt táo và chú ý đặc biệt tới thận âm hư.
vì thận là nguồn gốc của tân dịch và là nơi tàng trữ tinh vi của ngũ cốc.
Phương pháp chữa lấy dưỡng âm thanh nhiệt, sinh tân là cơ sở [36]. Ngoài ra,
cần chú ý chế độ ăn uống, tập luyện, tránh căng thẳng về mặt tinh thần.
1.3.4. Một số nghiên cứu điều trị chứng tiêu khát bằng thuốc thảo
mộc trong những năm gần đây
Ở Trung Quốc, nhân sâm Hàn Quốc (Panax ginseng) đã được dùng điều trị
làm giảm đường huyết, cải thiện tâm trạng và tâm lý với liều 100-200 mg/
ngày; Nhựa thơm quả lê (Momodica chrantia) được sấy khô, làm thành bột

với liều 18 g/ngày đã được chứng minh làm giảm glucose máu...[39].
Ở Việt Nam, có nhiều đề tài nghiên cứu điều trị ĐTĐ bằng thảo dược.
Đỗ Thị Minh Thìn (1995) dùng chế phẩm từ mướp đắng kết hợp giữa
Mướp đắng với Sinh địa điều trị 50 BN ĐTĐ typ 2 thấy 32% đạt kết quả tốt,
58% đạt kết quả trung bình, hiệu quả điều trị tương đương với Maninil [41].
Năm 2005, Dương Đăng Hiền đánh giá tác dụng của thuốc “Tiểu đường
Đông Đô” trong điều trị ĐTĐ typ 2 chưa có biến chứng thấy sau 3 tháng điều
trị: thuốc cải thiện tốt triệu chứng lâm sàng, làm giảm glucose huyết lúc đói
3,04 ± 0,21 mmol/l, glucose huyết lúc no 5,29 ± 1,25 mmol/l (p < 0,01),
HbA1c giảm (p < 0,01), kết quả: loại tốt và khá đạt 70,9%, loại trung bình đạt
23,6%, kém đạt 5,5% [42], [43].


17
Năm 2013, Trương Hoàng Kiên và cộng sự đánh giá khả năng kiểm soát
đường huyết sau ăn của trà cỏ sữa trên BN ĐTĐ typ 2 thấy đường huyết sau
ăn của ngày uống trà giảm so với ngày không uống (8,94 so với 10,63
mmol/l) tại thời điểm sau ăn 15 phút, 30 phút [44].
Năm 2014, Tiêu Ngọc Chiến đã nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết bằng
cao lỏng “Thập vị giáng đường phương”. Thuốc có tác dụng hạ glucose và
điều chỉnh rối loạn lipid máu trên BN ĐTĐ typ 2 mức độ nhẹ với kết quả tốt
và khá đạt 85%, Glucose máu giảm (từ 8,02 ± 0,73 xuống 6,00 ± 0,66
mmol/L); HbA1c giảm (7,25 ± 0,84 xuống 6,23 ± 0,94%) [45].
1.3.5. Tổng quan tài liệu thuốc "Tieukhatling"
1.3.5.1. Xuất xứ bài thuốc.
Bài thuốc Tiêu khát linh (bài thuốc linh nghiệm điều trị chứng tiêu khát)
được nhắc tới trong cuốn " Pharmacopoeia of the people’s republic of China",
volume I, năm 2005 do Hội dược học Trung Quốc xuất bản [46].
Tác dụng điều trị: Dưỡng thận âm, sinh tân dịch, trừ khát, bổ khí.
Thành phần bài thuốc.

- Bạch linh

17g

- Nhân sâm

10g

- Hoàng kỳ

100g

- Ngũ vị tử

15g

- Hoàng liên

10g

- Sinh địa

200g

- Kỷ tử

100g

- Thạch cao


50g

- Mạch môn

100g

- Thiên hoa phấn

100g

- Mẫu đơn bì 15g
1.3.5.2. Tổng quan về các vị thuốc
* Bạch linh (Poria)
-

Thể nấm đã phơi, sấy khô của nấm Phục linh (Poria cocos Wolf.), họ

Nấm lỗ (Polyporaceae), mọc ký sinh trên rễ một số loài Thông [47], [48].
- Tính vị quy kinh: Vị ngọt nhạt, tính bình, vào 5 kinh tâm, phế, thận, tỳ, vị.
- Tác dụng: Lợi thuỷ thẩm thấp, ích khí sinh tân, phục thần định tâm.


18
- Chủ trị: chữa tiểu tiện khó, thuỷ thấp, trướng mãn, hồi hộp, mất ngủ.
- Thành phần: Các acid có thành phần hợp chất triterpenoid tác dụng
hạ đường huyết. Ngoài ra còn ergosterol, cholin, histindin và ít men protease.
- Tác dụng dược lý: hạ đường huyết, lợi tiểu, chữa hồi hộp mất ngủ.
- Liều dùng: 9- 12 g/ngày
* Câu kỷ tử (Fructus Lycii)
Quả chín phơi hay sấy khô của cây Câu kỷ (Lycium barbarum L.), họ

Cà (Solanaceae) [49], [50].
- Tính vị quy kinh: Vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh phế, can và thận.
- Tác dụng: Bổ can thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt. Dùng chữa chân
tay yếu mỏi, mắt mờ, di mộng tinh.
- Chủ trị: Thuốc bổ toàn thân, chữa bệnh đái tháo đường, lao, viêm phổi,
mệt nhọc, gầy yếu, bổ tinh khí, giữ cho người trẻ lâu.
- Thành phần hoá học: có chứa các thành phần có tác dụng hạ đường
huyết (polysaccharid, betaine), có chừng 0,09% chất betain C5H11O2N. Ngoài
ra còn có caroten, calci, phospho, sắt, vitamin C, acid xyanhydric.
- Tác dụng dược lý: Tăng thực bào của hệ thống lưới nội mô, tăng bạch
cầu ngoại vi, tăng thể dịch và tế bào miễn dịch, kích thích chức năng tạo
huyết; giảm đường huyết và lipid huyết, ức chế lắng đọng mỡ ở gan và kích
thích phục hồi tế bào gan, giảm huyết áp.
- Liều dùng: 6-15g/ngày.
* Hoàng kỳ (Radix Astragali membranacei)
Rễ phơi hay sấy khô cây Hoàng Kỳ Mông Cổ (Astragalus membranaceus
(Fisch.) Bge. var. mongholicus (Bge.) Hsiao, hoặc cây Hoàng Kỳ Mạc Giáp
(Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge.), họ Đậu (Fabaceae) [47], [48].
- Tính vị quy kinh: Ngọt, ấm vào kinh tỳ và phế.


19
- Tác dụng: Bổ khí, tăng dưỡng khí của tỳ, cầm mồ hôi, lợi niệu, tiêu viêm.
- Chủ trị: Bổ tỳ (bổ trung ích khí) chữa chứng khí hư hạ hãm, mệt mỏi,
ăn kém, ỉa chảy, sa trực tràng, cầm mồ hôi, phù thũng, hen suyễn, khí huyết
lưỡng hư, tứ chi tê mỏi, trúng phong gây bán thân bất toại.
- Thành phần hoá học: Các triterpene saponin (astragalosid I-X
isoastragalosid I-IV) Polysaecarid (astragalan, astraglucan AMezm P), betain.
- Tác dụng dược lý:
+ Betain gây hạ đường huyết, bảo vệ tế bào gan, chống giảm glycogen ở

gan.
+ Tăng miễn dịch: tăng hoạt động thực bào, tăng tạo kháng thể, hoạt hoá
đại thực bào, kích thích sinh interferon, chống virus, kháng khuẩn.
+ Với hệ tim mạch, dịch chiết hoàng kỳ làm giãn mạch ngoại vi, tăng sức
đề kháng mao mạch, tăng khả năng và biên độ co bóp cơ tim ếch, bảo
vệ cơ tim khỏi bị tổn thương do thiếu máu hoặc tái tưới máu gây ra.
Các saponin tách từ hoàng kỳ có tác dụng cường tim chuột dựa trên
hoạt động Na+- K+ ATPase.
- Liều dùng: 9 – 30 g/ngày.
* Hoàng liên (Rhizoma Coptidis)
-

Thân rễ phơi khô của nhiều loài Hoàng liên chân gà như Coptis

chinensis Franch., Coptis quinquesecta Wang., hoặc Coptis teeta Wall., họ
Hoàng liên (Ranunculaceae) [49].
- Tính vị quy kinh: đắng, hàn, vào kinh: tâm, can, đởm, vị, đại trường.
- Tác dụng: Tả hoả, táo thấp, giải độc
- Chủ trị: Chữa sốt, tả, lỵ (lỵ amip và lỵ khuẩn: uống 3-6g/ngày), tâm
phiền, nôn ra máu, tiêu khát, đau mắt đỏ, loét miệng, ngộ độc do ba đậu,
khinh phấn. BN huyết ít, khí hư, tỳ vị hư, trẻ con lên đậu, đi tả cấm dùng.


20
- Thành phần hoá học: Có chừng 7% alcaloid toàn phần trong đó chủ
yếu là becberin. Ngoài ra còn có panmatin coptisin, woremin, columbamin.
- Tác dụng dược lý:
+ Có tác dụng đối với trùng Staphyloccus areus với Streptococ
hemolytique, thương hàn, phó thương hàn, lỵ, lao và 1 số trùng gây ra
các bệnh mụn …

+ Đối với tiêu hoá: Trên thực nghiệm, becberin tăng tạm thời trương lực
và co bóp của ruột chuột. Thuốc chữa rối loạn tiêu hoá, viêm dạ dày
và ruột, lỵ.
+ Đối với hô hấp: Liều nhỏ kích thích sự hô hấp, liều cao làm cho hô hấp
kémcó thể đi tới ngạt do tê liệt trung tâm hô hấp, tim vẫn tiếp tục đập.
+ Đối với tim và tuần hoàn: Tác dụng giảm huyết áp
+ Berberin có tác dụng hạ glucose máu [51], [52].
- Liều dùng: 4-8g/ngày, tán bột chế thành viên có hàm lượng 0,50g.
* Mạch môn (Radix Ophiopogonis japonici)
Mạch môn là rễ củ đã phơi hay sấy khô của Mạch môn đông (Ophiopogon
japonicus (L.f.) Ker-Gawl.), họ Mạch môn đông (Convallariaceae) [49], [50].
- Tính vị quy kinh: Vị ngọt, hơi đắng, tính hơi hàn, vào 3 kinh tâm, phế, vị.
- Tác dụng:Thanh tâm, nhuận phế, dưỡng vị, sinh tân, hoá đờm, chỉ ho.
- Chủ trị: Dùng chữa hư lao, ho, thổ huyết, ho ra máu, miệng khô khát,
bệnh nhiệt, tân dịch khô. Người tỳ vị hư hàn, đại tiện lỏng không được dùng.
- Thành phần hoá học: Trong mạch môn người ta mới thấy có chất nhầy,
chất đường. Mới đây có tác giả nói có glucose và . xitosterola.
- Tác dụng dược lý: Dùng nước sắc hoặc cồn chiết xuất mạch môn pha
vào dịch truyền cho thỏ thấy đảo Langerhans phục hồi nhanh, tăng dự trữ
glycogen so với lô chứng. Ngoài ra, mạch môn còn có tác dụng kháng khuẩn,
tăng huyết lượng động mạch vành, bảo vệ bệnh thiếu máu cơ tim, an thần.
- Liều dùng: 6 – 12 g/ngày


21
* Mẫu đơn bì (Cortex Paeoniae suffruticosae)
Mẫu đơn bì là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây mẫu đơn (Paeonia
suffruticosa Andr. ), họ Mao lương (Ranunculaceae) [48], [49].
- Tính vị qui kinh: Vị đắng, hơi cay, hơi lạnh, không độc, vào kinh tâm,
can, thận và tâm bào.

- Chủ trị: Dưỡng chân huyết, hoà huyết sinh huyết, trị âm hư, hư nhiệt.
- Thành phần hoá học: Có 5,66% glucozit, 0,4% alcaloid, 12,54%
saponin đặc biệt có paeonola là một chất phenola đã chiết suất được.
- Tác dụng dược lý: Có tác dụng điều kinh, nhưng tác dụng yếu và chậm.
Trên thỏ thấy mẫu đơn bì có tác dụng chữa sốt.
- Liều dùng: 6 – 12 g/ngày
* Nhân sâm (Radix Ginseng)
Rễ đã phơi hay sấy khô của cây Nhân sâm (Panax ginseng C.A.Mey), họ
Nhân sâm (Araliaceae) [48], [49], [50].
- Tính vị quy kinh: ngọt, hơi đắng vào kinh tỳ, phế, tâm, thông 12 kinh.
- Tác dụng: Đại bổ nguyên khí, bổ trung ích khí dưỡng huyết sinh tân,
kiện tỳ bổ phế.
- Chủ trị: Là thuốc quý, sử dụng trong các trường hợp tỳ phế khí hư, khí
hư, khí huyết lưỡng hư, xuất huyết, đặc biệt để điều trị chứng huyễn vựng.
- Thành phần hoá học: Gồm có ginsenosid, quinquenosid, panakilom, acid
panaxic, nhân glucosid, dầu thơm có sinh tố B1 và B2 các chất hữu cơ.
- Tác dụng dược lý:
+ Liều nhỏ kích thích thần kinh trung ương, liều lớn thì ức chế. Tăng khả
năng phản ứng của cơ thể, tăng lượng máu và oxy lên não, chống mệt mỏi.
+ Tăng miễn dịch, tăng bạch cầu và phòng bệnh máu trắng. Tăng chức
năng tủy xương, giảm kích thích sinh tổng hợp protein, AND và RNA.


22
+ Giảm lipid máu, cải thiện mỡ trong gan, phòng xơ vữa động mạch, chống
lão suy. Tăng sức đề kháng của cơ thể đối với nguyên nhân gây độc.
+ Kích thích tế bào đảo tuỵ sản sinh insulin làm hạ đường huyết. Bảo vệ gan
và tăng cường hoạt động sinh dục, tăng số lượng và chất lượng tinh trùng.
- Liều dùng: 6-12g/ngày
* Ngũ vị tử (Fructus Schizandrae)

Ngũ vị tử là quả chín phơi hoặc sấy khô của cây ngũ vị Schisandra
chinensis (Turcz.) Baill.) hoặc Ngũ vũ Hoa nam (Schisandra sphenanthera
Rehd. et Wils.) họ Ngũ vị (Schisandraceae) [47], [49].
- Tính vị quy kinh: Vị thuốc có đủ năm vị: Ngọt, chua, cay, đắng và mặn,
tính ôn, không độc, vào hai kinh phế và thận.
- Tác dụng: liễm phế, cố thận, cố tinh, chỉ mồ hôi, sinh tân, chỉ khát.
- Chủ trị: Chữa ho, hơi thở hổn hển, làm cường dương, chữa liệt dương
và mệt mỏi, biếng hoạt động. Người có biểu tà, thực nhiệt không nên dùng.
- Thành phần hoá học: Bắc ngũ vị tử có tinh dầu, thành phần chủ yếu
gồm 30% hợp chất sesquitecpen, 20% andehyd
- Tác dụng dược lý: Tăng tác dụng dự trữ glycogen ở gan. Thuốc tác
dụng tốt với hệ tim mạch, kích thích hệ thống thần kinh, tăng nhãn lực và nhãn
trường. Trong YHHĐ (Nga) thuốc được dùng kích thích thần kinh trung ương
khi lao động chân tay và trí óc quá độ, mệt mỏi về tinh thần và thể lực.
- Liều dùng: 8 - 12 g/ngày
* Sinh địa (Radix Rhemanniae glutinosae)
- Sinh địa là rễ củ đã được chế biến từ cây Địa hoàng (Rhemanniae
glutinosa (Gaertn.) Libosch.), họ Hoa mõm chó Scrophulariaceae [48], [49].
- Tính vị quy kinh: ngọt đắng, hàn vào kinh tâm, can, thận, tiểu trường.
- Tác dụng: Thanh nhiệt lương huyết.
- Chủ trị: Điều trị thương hàn, ôn bệnh, huyết nhiệt tân dịch khô kiệt,
thổ huyết, băng huyết, kinh nguyệt không đều, động thai.


23
- Thành phần hoá học: Từ dịch chiết nước đã xác định có 15 acid amin
và. Từ dịch chiết bằng metanol chiết được catapol, irinoit glucozit.
- Tác dụng dược lý: Với liều nhỏ có tác dụng làm co mạch máu, tăng
huyết áp, cầm máu; liều cao có tác dụng giãn mạch. Thuốc có tác dụng hạ
đường huyết nhờ chất catapol và ức chế sự sinh trưởng kén một số vi trùng.

- Liều dùng: 12 – 24 g/ngày.
* Thạch cao (Gypstum)
- Muối canxi sunfat thiên nhiên ngậm 10 phân tử nước: CaSO4.10H2O.
- Tính vị qui kinh: Vị ngọt, tính lạnh, vào 3 kinh phế, vị, tam tiêu.
- Tác dụng: Thanh nhiệt giáng hoả, trừ phiền chỉ khát,chữa điên cuồng.
- Chủ trị: Dùng trong các bệnh nhiệt, mồ hôi trộm, phiền khát, miệng,
lưỡi khô, sốt phát cuồng, phế nhiệt sinh ho, vị nhiệt sinh nhức đầu, đau răng.
- Liều dùng: 6-12 g/ngày [49].
* Thiên hoa phấn (Radix Trichosanthis)
Rễ đã phơi hay sấy khô của cây Qua lâu (Trichosanthes kirilowii Maxim.)
hoặc cây Song biên qua lâu (Trichosanthes rosthornii Harms), họ Bí
(Cucurbitaceae) [48], [49].
- Tính vị quy kinh: Vị ngọt, chua, tính lạnh, vào 3 kinh phế, vị và đại tràng.
- Tác dụng: Sinh tân, chỉ khát, giáng hoả, nhuận táo, bài nùng, tiêu thũng.
- Chủ trị: Chữa tiêu khát, sưng vú, trĩ, lòi dom, sốt nóng, hoàng đản .
- Thành phần hoá học: Rễ có nhiều tinh bột, có 1% saponozit và chứa
Trichosan A, B, C, E, các polysaccharid gây hạ đường huyết (Trichosan A là
glycan có tác dụng chủ yếu). Thuốc còn chống u và virus kể cả HIV.
- Liều dùng : 8 - 16g/ngày.
1.3.5.3. Cơ sở lý luận của bài thuốc
- Cơ chế của chứng tiêu khát theo YHCT là do âm hư sinh nội nhiệt, nội
nhiệt là tiêu (ngọn), âm hư là bản (gốc). Khi điều trị bằng thuốc dựa vào 2
nguyên tắc chính là: dưỡng âm (chữa tận gốc), thanh hư nhiệt (chữa ngọn).


24
- Từ những kinh nghiệm của các Y gia và nguyên tắc điều trị chứng tiêu
khát, trên cơ sở biện chứng luận trị, bài thuốc “Tiêu khát linh” gồm các vị thuốc
có tác dụng tư âm sinh tân chỉ khát, tác dụng vào 3 tạng: phế, tỳ, thận.
- Thành phần hóa học của các vị thuốc cấu tạo nên bài thuốc “Tiêu khát

linh” có chứa các thành phần có tác dụng hạ đường huyết đã được nghiên cứu.
- Bài thuốc đã được ứng dụng điều trị chứng tiêu khát (ĐTĐ) trên lâm
sàng dưới dạng viên nén “Tiểu đường Đông Đô” có tác dụng hạ đường huyết
và cải thiện một số triệu chứng: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, mệt mỏi...

CHƯƠNG 2
CHẤT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. CHẤT LIỆU NGHIÊN CỨU

Viên nang Tieukhatling 0,5 g, Số đăng ký (Bộ Y tế): VD 16401-12
Bảng 2.1. Công thức cho 1 viên [53], [54].
TT

Tên vị thuốc

Tên khoa học

Tiêu chuẩn Số lượng
(mg)

1
2
3
4
5
6

Bạch linh
Hoàng kỳ
Hoàng liên

Kỷ tử
Mạch môn
Mẫu đơn bì

Poria
Radix Astragali membranacei
Rhizoma Coptidis
Fructus Lycii
Radix Ophiopogonis japonici
Cortex
Paeoniae

7
8
9
10

suffruticosae
Nhân sâm
Radix Ginseng
Ngũ vị tử
Fructus Schizandrae
Thạch cao
Gypstum
Thiên
hoa Radix Trichosanthis

DĐVN IV
DĐVN IV
DĐVN IV

DĐVN IV
DĐVN IV
DĐVN IV

34
200
20
200
200
30

DĐVN IV
DĐVN IV
DĐVN IV
DĐTQ 2010

20
30
100
200


25

11
12

phấn
Sinh địa
Radix Rehmannia glutinosa

DĐVN IV
400
Tá dược
Vừa đủ
- Viên nang 0,5g do công ty cổ phần Dược phẩm Khang Minh sản xuất
(đạt tiêu chuẩn GMP của WHO).
- Tiêu chuẩn thành phẩm: Đạt tiêu chuẩn cơ sở (TCCS).
- Độ ổn định: Có hồ sơ nghiên cứu độ ổn định thuốc có hạn dùng 24 tháng.
2.2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa khám bệnh Bệnh viện Đa khoa y học
cổ truyền Hà Nội từ tháng 10/2014 đến tháng 7/2015.
2.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.3.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
60 BN được chẩn đoán ĐTĐ typ 2 theo tiêu chuẩn lựa chọn của YHHĐ và
YHCT bao gồm cả BN đã và chưa điều trị bằng thuốc uống của YHHĐ.
2.3.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo YHHĐ (theo ADA 2014)
- Tuổi  30 và ≤ 70 tuổi, không phân biệt giới tính
- Có: 7,2 mmo/l < đường huyết lúc đói ≤ 10 mmol/l và HbA1c ≤ 8%.
Gồm 2 nhóm BN:
 Nhóm nghiên cứu 1 (nhóm NC 1): BN mới phát hiện bệnh, chưa
điều trị thuốc YHHĐ.
 Nhóm nghiên cứu 2 (nhóm NC 2): BN ĐTĐ typ 2 đã điều trị thuốc
uống YHHĐ trong đó 3 tháng gần nhất đang điều trị 1 phác đồ thuốc
uống nhưng chưa đạt mục tiêu điều trị (các thuốc BN đang dùng theo
phác đồ điều trị ĐTĐ của YHHĐ được ghi trong phụ lục 5).
- Bệnh nhân tự nguyện tham gia và có điều kiện tuân thủ quy trình
nghiên cứu (bệnh nhân ký vào bản cam kết).
2.3.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo YHCT:
Bảng 2.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo YHCT



×